Bản án số 01/2018/KDTM-PT ngày 11/01/2018 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thăm dò, khai thác

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2018/KDTM-PT

Tên Bản án: Bản án số 01/2018/KDTM-PT ngày 11/01/2018 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp về thăm dò, khai thác
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về thăm dò, khai thác
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 01/2018/KDTM-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 11/01/2018
Lĩnh vực: Kinh doanh thương mại
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Công ty K kiện Công ty V
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 01/2018/KDTM-PT
Ngày 11-01-2018
V/v tranh chấp yêu cầu chấm dứt hợp
đồng khai thác đá, hợp đồng thuê thiết
bị, hợp đồng hợp tác sản xuất đá p lát.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng An Thanh.
Các Thẩm phán: Ông Trương Văn Bình.
Ông Đặng Quốc Khởi.
- Thư phiên tòa:
Hoàng ThKim Nhi Thư a án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh:
Ông Vũ Hồng Cường - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 11 tháng 01 năm 2018 tại Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 29/2017/TLPT-
KDTM ngày 22 tháng 8 năm 2017 về tranh chấp “Yêu cầu chấm dứt hợp đồng
khai thác đá Granite trắng tại mỏ đá T2, hợp đồng thuê thiết bị khai thác đá
Granite trắng tại mđá T2 phụ kiện hợp đồng, hợp đồng hợp tác sản xuất đá
p lát Granite; yêu cầu hoàn trả giá trị máy móc thiết bị phương tiện vận chuyển
nâng hạ đá khối và tiền ứng trước khi chấm dứt hợp đồng; yêu cu thực hiện
nghĩa vụ nộp các khoản nợ cho Nnước theo hợp đồng hợp tác, bồi thường
thiệt hại do vi phạm hợp đồng”.
Do Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 02/2017/KDTM-ST ngày
15 tháng 6 năm 2017 của Toà án nhân dân tỉnh Ninh Thuận bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 818/2017/QĐ-PT
ngày 20 tháng 12 năm 2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty trách nhim hu hn vt liệu đá K (CS Co., Ltd);
địa chỉ: Khu phát triển Đ xã E, thành phố F, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc.
Người đại din theo pháp lut: Ông Huang Tian Y - Tổng Giám đốc; địa
ch: Khu phát trin Đ xã E, thành ph F, tnh Phúc Kiến, Trung Quc (vng mt).
Người đại din theo y quyn (các giy y quyn ngày 04 tháng 4 năm
2
2016 ngày 21 tháng 11 năm 2016): Nguyn Th C, sinh năm 1960; trú
ti: Phường G, qun H, Thành ph H Chí Minh (có mt).
- B đơn: Công ty c phn địa cht V; địa ch: Cm Công nghip I, I,
thành ph J, tnh Ninh Thun.
Người đại din theo pháp lut: Ồng Lương Ngọc K1 - Tổng Giám đốc
(vng mt).
Người đại din theo y quyn (Hợp đồng y quyn ngày 24 tháng 8 năm
2016): Ông Trn Duy L, sinh năm 1976; cư trú ti: phưng A, thành ph B, tnh
Đồng Nai (có mt).
- Người quyn lợi, nghĩa v liên quan: Ngân hàng thương mại c phn
P địa ch: qun D, Thành ph Hà Ni.
Người đại din theo pháp lut: Ông Nguyn Quang Đ - Tổng Giám đc;
địa ch: s 229 Tây Sơn, qun D, Thành ph Hà Ni (vng mt).
Người đại din theo y quyn (Quyết định y quyn s 185/2014/QĐ-
TGĐ ngày 31 tháng 7 m 2014): Ông Lê Ngc L1, sinh năm 1977 Phó Giám
đốc ph trách Chi nhánh Khánh Hòa; trú ti: phưng L, thành ph M, tnh
Khánh Hòa (vng mt).
Người đại din theo y quyn (Theo Giy y quyn s 01/2018/UQ-PGĐ
ngày 08 tháng 01 năm 2018): Ông Trần Đức C1; trú ti: Png N, qun O,
Thành ph H Chí Minh (có mt).
- Người kháng cáo: Bđơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các bản khai, quá trình giải quyết vụ án tại phiên
tòa sơ thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Công ty trách nhiệm hữu hạn vật liệu đá K CS Co., Ltd (Sau đây viết
Công ty K) Công ty cổ phần địa chất V (Sau đây viết Công ty V) đã ba
hợp đồng: Hợp đồng số 03/GEO-CFS/13 ngày 01/8/2013 để hợp tác khai thác đá
Granite trắng mT2 (Sau đây viết Hợp đồng số 03); Hợp đồng số 12/GEO-
CFS/13 ngày 15/12/2013 để thuê thiết bị khai thác đá Granite trắng mỏ T2 (Sau
đây viết Hợp đồng s 12); Phụ kiện hợp đồng số 12A/GEO-CFS/13 ngày
30/12/2013 của hợp đồng số 12/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013 (Sau đây viết
Phụ kiện hợp đồng s12A); Hợp đồng số 15/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013 để
hợp tác sản xuất đá ốp lát Granite (Sau đây viết là Hợp đồng s15).
Công ty K đã nhập máy, thiết bị theo Hợp đồng số 12 gồm: Máy cắt đá
khối 02 lưỡi ti m, hiệu Shuinan đời YZK-1360/1900 năm sn xut 2013: 02
b; i ct (2,2 m + 3,3 m): 04 b; Đường ray: 700m; Máy khoan: 01 b; Máy
ct dây: 01 b; Xe xúc lt hiệu WSM, đời 951T18: 02 chiếc. Toàn b tài sn nêu
trên, Công ty V đã t ý thế chp cho Ngân hàng thương mại c phn P (Sau đây
viết tt là Ngân hàng) để đảm bo khon tin vay riêng ca Công ty V.
3
Công ty K thc hiện đúng các cam kết trong hợp đồng: đã nộp tin ng
trước; xây nhà cho công nhân, công trình ph ti M đá T2; xây m tr, nhà
văn phòng làm việc ang xây dng chưa xong) ti Cm Công nghip I, thành
ph J, tnh Ninh Thun.
Công ty V không thc hiện đúng cam kết theo hợp đồng, không thc hin
th tc pháp lý cho công nhân, chuyên gia Trung Quc ca Công ty K theo pháp
luật lao động ca Vit Nam dẫn đến khi hết hn visa, các chuyên gia, công nhân
ca Công ty K phi v c. Thời điểm tranh chp tháng 9/2014, Công ty V
vn tiếp tc s dng toàn b tài sn bao gm máy móc, thiết bị, nhà xưởng, vt
kiến trúc khác ti M đá T2 cũng như Cụm Công nghip I.
Công ty K khi kin yêu cu chm dt tt c các hợp đồng mà hai bên đã
kết, thc hin; yêu cu Công ty V phi tr: gtr tài sn ca Công ty K theo
Hợp đồng s 12 và ph kin 5.677.955.116 đồng; tiền tạm ứng từ hai phiếu
thu 8/CP ngày 17/8/2013 số tiền 800.000.000 đồng, phiếu thu không số ngày
16/9/2013 số tiền 525.000.000 đồng tiền mặt đã giao 15.000.000 đồng, tổng
số tiền 1.340.000.000 đồng; n tắm, bồn nước Q, dãy nng nhân 10
phòng, mái che dãy nhà công nhân, tất cả tọa lạc tại Mỏ đá T2, tổng stiền
69.412.000 đồng; khối bê tông 14.3m
3
, tường xây gạch chiều dài 80m cao hơn
2m tọa lạc tại Cụm Công nghiệp I, tổng số tiền 154.485.000 đồng; tiền hoàn
thuế nhập 02 máy cắt đá 02 máy xúc lật 367.200.209 đồng; tiền công nợ
74.750.416 đồng; tiền sản lượng đá khối tại bãi đã nghiệm thu: 92.501.220 đồng.
Tại phiên tòa thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu bị
đơn phải trả giá trị tài sản hợp tác gồm máy móc, trang thiết bị, nhà xưởng, các
khoản nợ (tất cả các khoản tiền nguyên đơn yêu cầu) 6.329.033.514 đồng
trong đó phần giá trị máy móc, trang thiết bị hợp tác 5.677.955.116 đồng.
Theo đơn phản tố, các bản khai, biên bản ghi lời khai, đại diện theo ủy
quyền của Công ty cổ phần địa chất V trình bày:
Giữa Công ty K Công ty V đã kết các hợp đồng nphía nguyên
đơn trình bày. Hợp đồng số 03 không thực hiện mà chuyển tiếp các quyền
nghĩa vụ sang Hợp đồng số 12, Phụ kiện hợp đồng số 12A Hợp đồng số 15.
Theo yêu cầu chấm dứt các hợp đồng phụ kiện của Công ty K, Công ty V
đồng ý chấm dứt tất cả các hợp đồng và phụ kiện hợp đồng hai công ty đã
kết.
Công ty V đã thực hiện đúng các điều khoản trong các hợp đồng. Công ty
K không tiếp tục xin gia hạn visa cho chuyên gia, nhân công Trung Quốc tự
ý bỏ về nước gây thiệt hại cho Công ty V. Công ty V đã nhiều lần gửi văn bản
đến Công ty K nhưng không được phản hồi. Do lỗi của Công ty K nên Công ty
V tiếp tục sử dụng một phần máy móc, thiết bị để tiếp tục khai thác đồng thời
dùng toàn bộ tài sản của Công ty K bao gồm máy móc, nhà xưởng thế chấp vay
vốn tại Ngân hàng P.
4
Công ty V đã nhận tạm ứng của Công ty K tại phiếu thu số 18/CP ngày
17/8/2013, phiếu thu ngày 16/9/2013 15.000.000 đồng tiền mặt, tổng số cộng
1.340.000.000 đồng. Stiền này Công ty V đã chi: phí, thuế, lệ phí, chi phí
xây dựng nhà ở cho công nhân tại mỏ đá T2 903.583.405 đồng nên chỉ đồng ý
trả 436.416.595 đồng.
Công ty V đồng ý trả Công ty K tiền hoàn thuế giá trị gia tăng nhập khẩu
hai máy cắt đá 146.494.704 đồng, hai máy xúc lật 220.705.505 đồng, tổng
cộng 367.200.209 đồng.
Công ty V đồng ý trả Công ty K nợ chi trả sản lượng đá khối 70% đến
tháng 12/2014 74.750.416 đồng, nợ tiền đá khối đã nghiệm thu còn lại tại mỏ
92.501.220 đồng, tổng cộng 167.251.636 đồng.
Như vậy, Công ty V còn nCông ty K tổng số tiền 970.868.440 đồng. Số
tiền 50.000.000 đồng Công ty V nhận của ông Hòa không liên quan đến vụ án,
Công ty sẽ trả trực tiếp cho ông Hòa.
Công ty V đề nghị được mua lại toàn bộ tài sản máy móc, trang thiết bị
của Công ty K theo giá do Công ty V chiết tính, sau khi khấu hao.
Công ty V phản tố yêu cầu Công ty K trả:
- Các khoản ncho Nhà nước Việt Nam theo khoản 5.2 Điều 5 của Hp
đồng số 12 là 664.660.566 đồng bao gồm:
+ Tiền thuê đất từ tháng 01/2014 đến tháng 10/2015 được tính (7.000m
2
x
357đ/m
2
/năm): 12 tháng x 22 tháng = 4.581.500 đồng.
+ Tiền cấp quyền khai thác từ tháng 01/2014 đến tháng 12/2014
834.363.747 đồng/năm: 12.000m
3
/năm x 6.000m
3
x 70% = 292.027.311 đồng.
+ Tiền cấp quyền khai thác từ tháng 01/2015 đến tháng 10/2015
292.027.311 đồng/năm: 12 tháng x 10 tháng = 243.356.093 đồng.
+ Tiền phạt chậm nộp tiền cấp quyền khai thác tháng 01/2014 đến tháng
12/2014 là 292.027.311 đồng/năm x 25.2%/năm = 73.590.882 đồng; từ tháng
01/2015 đến tháng 10/2015 243.356.093 đồng/năm x 25.2%/năm/12 tháng x
10 tháng = 51.104.780 đồng.
- Bồi thường theo Điều 4 của Hợp đồng số 12 gồm các khoản:
+ 20% đá loại A là 30m
3
x 2.300.000 đồng/m
3
= 69.000.000 đồng.
+ 40% đá loại B là 60m
3
x 1.800.000 đồng/m
3
= 108.000.000 đồng.
+ 40% đá loại C là 60m
3
x 1.200.000 đồng/m
3
= 72.000.000 đồng.
Cộng: 249.000.000 đồng/tháng x 15 tháng (từ tháng 8/2014 đến tháng
10/2015) = 3.735.000.000 đồng.
- 100.000.000 đồng chi phí đập 02 móng máy, móng và tường nhà do
Công ty K xây dựng trái phép tại Cụm công nghiệp I.
5
Tại phiên tòa thẩm, đại diện theo ủy quyền của bị đơn yêu cầu nguyên
đơn trả các khoản nợ thuế, các khoản bồi thường do vi phạm hợp đồng tổng
cộng là 4.499.660.566 đồng.
Theo bản khai, biên bản ghi lời khai, đại diện theo y quyền người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – Ngân hàng thương mi cổ phần P có ý kiến:
Công ty V vay tiền của Ngân hàng thế chấp toàn bộ máy móc, nhà
xưởng nhưng Ngân hàng không biết đây là tài sản của Công ty K. Quá trình
thẩm định, cho vay, Công ty V cũng không cho Ngân hàng biết nguồn gốc tài
sản. Ngân hàng không yêu cầu độc lập, không yêu cầu hòa giải, chỉ đề nghị
cho Ngân hàng tham gia phiên tòa để đảm bảo số tài sản vẫn được duy ttheo
Hợp đồng thế chấp giữa Ngân hàng với Công ty V.
Tại Bản án kinh doanh thương mại thẩm số 02/2017/KDTM-ST ngày
15 tháng 6 năm 2017, Toà án nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 30 khoản 1, Điều 35 khoản 3, Điều 147, Điều 165 của
Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Các Điều 303, 308, 319 Luật Thương mại; Các
Điều 357, 468 của Bộ luật dân sự 2015; Điều 24 khoản 1, 4, 5 Pháp lệnh án phí,
lệ phí Tòa án; Mục 3 phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm
theo Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009.
Tuyên xử:
1. Tuyên bố chấm dứt các hợp đồng phụ kiện hợp đồng được ký kết
giữa công ty trách nhiệm hữu hạn vật liệu đá K (CS Co., Ltd) và công ty cổ phần
địa chất V gồm:
- Hợp đồng số 03/GEO-CFS/13 ngày 01/8/2013;
- Hợp đồng số 12/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013; Phụ kiện Hợp đồng mỏ
đá của hợp đồng số 12/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013;
- Hợp đồng số 15/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu
hạn vật liệu đá K đối với Công ty cổ phần địa chất V; Buộc Công ty cổ phần địa
chất V phải nghĩa vụ hoàn trả cho công ty trách nhiệm hữu hạn vật liệu đá K
tổng số tiền 5.415.574.823đ (Năm tỷ bốn trăm mười lăm triệu năm trăm bảy
mươi bốn ngàn tám trăm hai mươi ba đồng).
3. Chấp nhận mt phần yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần địa chất V
đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn vật liệu đá K; Buộc Công ty trách nhiệm
hữu hạn vật liệu đá K phải nghĩa vụ hoàn trả cho Công ty cổ phần địa chất V
tổng số tiền: 591.013.353đ (Năm trăm chín mươi mốt triệu không trăm mười ba
ngàn ba trămm mươi ba đồng).
4. Công ty cổ phần địa chất V được quyền sở hữu các tài sản:
+02 xe xúc lật hiệu WSM, đời 951T18.
+02 máy cắt đá.
6
+04 bộ lưỡi cắt (bốn lưỡi 2,2m và bốn lưỡi 3,3m).
+700 mét đường ray.
+01 máy cắt dây.
+01 máy nén khí (Gồm máy nén và bình chứa khí).
+Nhà tắm (nhà tạm), tường xây gạch táp lô, nền xi măng, diện tích: 5 m
2
,
giá trị còn lại: 40%.
+01 bồn nước Q 1000 lít, giá trị còn lại 80%.
+01 dãy nhà công nhân, 10 phòng (trong đó 03 phòng không còn mái tôn),
tường xây gạch táp lô, nền láng xi măng, cửa sắt, mái tôn kẽm, diện tích 120m
2
.
Giá trị còn lại: 40%.
+Mái che (thuộc dãy nhà công nhân), mái che kèo gỗ, mái tôn, nền xi
măng, diện tích: 60m
2
. Giá trị còn lại: 60%.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về duy trì việc thế chấp phần
tài sản Công ty cổ phần địa chất V đang thế chấp tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Q Chi nhánh Khánh Hòa, chi phí thẩm định, định giá tài sản, chi phí ủy
thác pháp, việc thi hành án, lãi suất nếu chậm thi hành án, án phí tuyên
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 27/6/2017, Công ty cphần địa chất V kháng cáo yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm sửa Bản ánthẩm vì vớido: Nguyên đơn vi phạm hợp đồng,
ngừng khai thác vào ngày 13/9/2014 do mâu thuẫn giữa các thành viên Công ty
gia đình của nguyên đơn không báo cho bị đơn. Giữa nguyên đơn bị
đơn không hề tranh chấp về lao động. Nguyên đơn vi phạm hợp đồng
không tuyển chọn và cung cấp tài liệu chứng minh lao động trình độ hoặc
kinh nghiệm của Trung Quốc trong khi những lao động giản đơn thì phải ưu tiên
sử dụng người Việt Nam. Bđơn thế chấp tài sản dựa trên sự đồng ý của nguyên
đơn bằng lời nói, thể hiện Biên bản thanh lần 5 chữ đại diện của
nguyên đơn. Nguyên đơn đã bán cho Y1 một smáy móc để Y1 bán li
cho bị đơn. Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị đơn trả tiền hoàn thuế, không căn cứ vào
giá tài sản tại thời điểm thẩm định trái quy định pháp luật buộc bị đơn
sử dụng máy cắt dây, máy nén khí nên bị áp giá cao, chỉ chấp nhận một phần
yêu cầu phản tố trong khi bị đơn cung cấp đủ chứng cứ chứng minh là xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn trình bày ý kiến như đơn kháng cáo và đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét các vấn đề sau: Hợp đồng số 15 chưa
được thực hiện. Phía Trung Quốc tự ý ngưng khai thác trong khi Công ty phải
ưu tiên sử dụng lao động Việt Nam. Các khoản tiền tạm ứng, đầu xây dựng
được tính hai lần. Khoản tiền hoàn thuế do bị đơn tự đưa vào mà được Tòa án
cấp sơ thẩm chấp nhận cho nguyên đơn khởi kiện ngay là vượt quá yêu cầu khởi
kiện ban đầu của nguyên đơn, đã buộc bị đơn trả 2 lần tính án phí không đầy
đủ. Việc thẩm định giá không chính xác, bị đơn không dùng tài sản bị coi
7
sử dụng. Thông của Bộ tài chính tại thời điểm thẩm định giá không được áp
dụng. Lỗi của hai bên chưa được xem xét đầy đủ. Bị đơn đề nghị giải quyết bồi
thường thiệt hại theo tỷ lệ phần trăm, dựa vào biên bn thanh đã giữa hai
bên. Nguyên đơn đã thừa nhận và ghi vào biên bản nguyên đơn có ý định chia
tài sản để bán cho bà Y1 nhưng không thực hiện được.
Ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa phúc thẩm: Tiền tạm ứng dùng cho
đầu tư (Theo biên bản đối chất ngày 25 tháng 11 năm 2016). Các yêu cầu về lao
động Trung Quốc bị đơn đều vi phạm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Ngân hàng thương mại cổ phn P trình
bày yêu cầu được trả nợ theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm giải quyết ván như sau: Tòa án cấp thẩm đã chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận một phần yêu cầu phản tố
của bđơn đúng pháp luật. Bị đơn kháng cáo nhưng không chứng cứ hay
luận cứ gì mới. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn, bị đơn người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng đều người đại diện theo ủy
quyền tham gia tố tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử thống nhất với đề nghị của
Kiểm sát viên, quyết định xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Nguyên đơn và bị đơn thừa nhận đã ký kết Hợp đồng số 03, Hợp đồng
số 12, Phụ kiện hợp đồng số 12A Hợp đồng số 15. Thời điểm xảy ra tranh
chấp được hai bên thống nhất tháng 9 năm 2014. Nguyên đơn khởi kiện vào
ngày 20 tháng 6 năm 2016 còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 319
Luật Thương mại năm 2005.
[3] Tại Công văn số 798/SLĐTBXH-LĐTL ngày 10/5/2017 về việc cung
cấp thông tin cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài tại Công ty V (Sau
đây viết Công văn 798), Sở Lao động, Thương binh hội tỉnh Ninh
Thuận (Sau đây viết Sở LĐTBVXH) đã khẳng định: Ttháng 08 năm 2013
đến tháng 09 năm 2014, ông Lương Ngọc K1 đến Sở LĐTBVXH làm việc
trực tiếp để xin cấp giấy phép lao động cho 03 lao động nước ngoài (quốc tịch
Trung Quốc) nhưng hồ còn thiếu 02 thành phần theo quy định kế hoạch
nhu cầu sử dụng người nước ngoài hàng năm đăng với Sở LĐTBVXH, trình
độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động hoặc bản xác nhận ít nhất 05 năm
kinh nghiệm nghề nghiệp được cơ quan có thẩm quyền nước ngoài xác nhận. Sở
LĐTBVXH đã hướng dẫn yêu cầu ông Lương Ngọc K1 bổ sung 02 thành
phần hồ sơ còn thiếu. Trong thời gian từ tháng 08 năm 2013 đến tháng 09 năm
2014, Sở LĐTBVXH không nhận hồ cũng không cấp giấy phép lao động
cho Công ty V. Sau đó, Công ty V đã công văn số 29/GEO-KT gửi Sở
LĐTBVXH xin hướng dẫn thủ tục cấp phép lao động cho người nước ngoài làm
8
việc tại Công ty. Ngày 19/8/2013 Sở LĐTBVXH đã công văn số
2788/SLĐTBXH-VLATLĐ hướng dẫn thủ tục cấp giấy phép lao động người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam gửi cho Công ty. Đến thời điểm Công văn
798, Sở LĐTBVXH chưa cấp giấy phép lao động cho Công ty V.
[4] Căn cứ vào nội dung Công văn 798, việc đăng tạm trú không thay
thế cho nghĩa vụ hoàn thành thủ tục xin cấp phép lao động cho người lao động
nước ngoài làm việc tại Việt Nam không sở chấp nhận việc bđơn cho
rằng đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình như: làm thủ tục xin giấy phép lao
động cho chuyên viên công nhân kỹ thuật kinh nghiệm Trung Quốc, tạo
điều kiện thực hiện thực hiện hết các nghĩa vụ về đăng tạm trú cho công
nhân kỹ thuật Trung Quốc. Bđơn đã vi phạm Điều 5 mục 5.1 Hợp đồng số 12
vì theo quy định tại Điều này thì Công ty V nghĩa vụ thu xếp thủ tục và hồ sơ
pháp theo đúng luật pháp Việt Nam để xin giấy phép lao động cho chuyên
viên công nhân kỹ thuật của Công ty K. Sau khi làm việc và được Sở
LĐTBVXH tỉnh Ninh Thuận hướng dẫn thủ tục xin cấp giấy phép lao động cho
người lao động người nước ngoài, bị đơn đã không khẩn trương bổ sung
những hồ sơ còn thiếu và cũng không tác động phía nguyên đơn để phối hợp.
[5] Bị đơn khẳng định nguyên đơn đã vi phạm nghĩa vụ tuyển chọn
giới thiệu cho bị đơn chuyên viên và công nhân kỹ thuật, cung cấp tài liệu chứng
minh công nhân kỹ thuật Trung Quốc trình độ hoặc kinh nghiệm để bị đơn
xin giấy phép lao động (theo thỏa thuận tại mục 5.2 Điều 5 Hợp đồng số 12)
nhưng bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh luận cứ này.
Trong khi đó, hợp đồng hai bên ký kết đã ràng buộc trách nhiệm xin giấy
phép lao động cho bị đơn. vậy, Tòa án cấp thẩm xác định Công ty K
không vi phạm mục 5.2 Điều 5 Hợp đồng số 12 là có cơ sở.
[6] Bị đơn cho rằng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tranh chấp xuất phát từ
mâu thuẫn nội bộ của các thành viên và gia đình nguyên đơn m cho nguyên
đơn ngừng khai thác vào ngày 13 tháng 9 năm 2014 mà không báo cho bị đơn.
Lập luận này không căn cứ bđơn không dựa vào giao kết của hai bên để
xác định hành vi vi phạm của đối tác mà phủ nhận trách nhiệm của mình. Trên
thực tế, tháng 9/2014 phía nguyên đơn vẫn tiếp tục cử công nhân sang làm việc
giải quyết tranh chấp nhưng không thực hiện được vì không phù hợp việc lưu
trú theo pháp luật Việt Nam. Hội đồng xét xử phúc thẩm không s chấp
nhận kháng cáo của bị đơn yêu cầu xác định nguyên đơn vi phạm hợp đồng do
dừng khai thác.
[7] Bị đơn thừa nhận toàn bộ thiết bị, máy móc khai thác vận hành đá
khối màu trắng tại mỏ T2 thuộc quyền sở hữu của Công ty K theo quy định tại
Hợp đồng số 12 và phụ kiện hợp đồng số 12A. Mặc chưa được sự đồng ý của
Công ty K, bị đơn đã tự định đoạt, dùng tài sản của Công ty K thế chấp tại Ngân
để hàng bảo đảm khoản nợ vay của bị đơn trước khi xảy ra tranh chấp (Thế chấp
tháng 6 năm 2014. Thời điểm xảy ra tranh chấp tháng 9 năm 2014). Như vậy, bị
đơn đã vi phạm hợp đồng và xâm phạm quyền sở hữu tài sản của nguyên đơn.
9
[8] Bị đơn nêu việc thế chấp tài sản của nguyên đơn tại Ngân hàng hoàn
toàn dựa trên sự đồng thuận của đại diện nguyên đơn, khẳng định việc thỏa
thuận này chỉ bằng lời nói, phía nguyên đơn biết và chấp thuận thể hiện qua việc
đại diện nguyên đơn ông Y đã Biên bản thanh hợp đồng lần 5, đồng ý
bồi thường bằng một số máy móc, thiết bị cho bị đơn sdụng, scòn lại
nguyên đơn bán cho Y1 bđơn được toàn quyền sử dụng các máy móc,
thiết bị này khi việc mua bán giữa bà Y1 bị đơn hoàn tất. Lời trình bày của bị
đơn không có căn cứ nguyên đơn không thừa nhận nguyên đơn đồng ý cho bị
đơn thế chấp tài sản của nguyên đơn cho Ngân hàng. Hơn nữa, Biên bản thanh
hợp đồng lần 5 ghi ngày 09/7/2015 sau thời điểm bị đơn tự ý thế chấp tài
sản của nguyên đơn cho Ngân hàng trong Biên bản này không nội dung
nào thể hiện ý chí của nguyên đơn đồng ý cho bị đơn được thế chấp các tài sản
của nguyên đơn. Mặt khác, bị đơn không tài liệu, chứng cứ chứng minh việc
nguyên đơn bán máy móc, thiết bị cho Y1 bị đơn đã mua lại máy móc,
thiết bị của Y1 trước thời điểm bị đơn thế chấp cho Ngân hàng như bị đơn
trình bày. Do đó, Hội đồng xét xử sơ thẩm xác định bị đơn đã vi phạm Hợp đồng
số 12 phụ kiện hợp đồng số 12A, xâm phạm trực tiếp đến quyền lợi ích
hợp pháp của Công ty K căn cứ. Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp
nhận phần kháng cáo của bị đơn trong việc xác định bị đơn không có lỗi khi tự ý
thế chấp tài sản của nguyên đơn để vay vốn.
[9] Bị đơn cho rằng tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn yêu cầu bị
đơn hoàn trả tiền hoàn thuế nhưng Tòa án cấp thẩm không xác minh mà chấp
nhận yêu cầu khởi kiện này là xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn và
vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu. Ý kiến của bị đơn không có cơ sở vì số tiền
hoàn thuế tiền nguyên đơn tạm ứng nằm trong số tiền nguyên đơn khởi
kiện. Bản án sơ thẩm có ghi yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả cho nguyên
đơn 367.200.209 đồng tiền hoàn thuế nhập 02 máy cắt đá và 02 máy xúc lật. Tại
phiên tòa thẩm, bị đơn thừa nhận đồng ý trả cho nguyên đơn số tiền này
nên Tòa án cấp thẩm không phải tiến hành xác minh. Nguyên đơn khởi kiện
yêu cầu thanh giải quyết tất cả các hợp đồng giữa hai bên các vấn đề
liên quan đến tài sản của nguyên đơn trong các hợp đồng phụ lục hợp đồng,
khoản tiền hoàn thuế nằm trong nội dung chung, không phải phát sinh riêng
nên Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết là không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu.
Ngoài ra, Hội đồng xét xử thẩm không ghi nhận thêm bị đơn phải hoàn trả
cho nguyên đơn khoản tiền hoàn thuế nào khác. Do đó, Hội đồng xét xử phúc
thẩm không s để chấp nhận kháng cáo của bđơn về yêu cầu liên quan
đến số tiền hoàn thuế mà bị đơn phải trả cho nguyên đơn như án thẩm đã
tuyên.
[10] Tại Biên bản định giá tài sản từ ngày 21/3/2017 đến ngày 31/3/2017
được các bên xác nhận, Hội đồng định giá tài sản đã xác định gcác tài sản
bị đơn đã sdụng tại thời điểm từ tháng 01/2014 đến tháng 09/2014 từ
tháng 01/2014 đến ngày 31/3/2017, xác định giá các tài sản chưa sử dụng hiện
do bị đơn quản lý tại thời điểm từ tháng 01/2014 đến tháng 09/2014 và giá trị tài
10
sản tại thời điểm định giá ngày 31/3/2017. Bđơn thừa nhận đã nhập máy móc,
phương tiện theo hợp đồng, đã thế chấp toàn bộ tài sản cho Ngân hàng để vay
vốn vào tháng 06/2014 trong khi khoản 2.1 Điều 2 Hợp đồng số 12 ghi nhận
toàn bộ máy móc, thiết bị phương tiện mới 100% nên Hội đồng xét xử
thẩm lấy kết quả định giá tài sản tại thời điểm từ tháng 01/2014 đến tháng
09/2014 đbuộc bị đơn trả cho nguyên đơn phù hợp (Nếu xác định giá theo
tình trạng tài sản tại thời điểm định giá không công bằng tài sản đã hao
mòn qua thời gian bđơn khai thác sử dụng hoặc tự quản lý, thế chấp). Riêng
máy nén khí máy cắt dây được liệt vào nhóm những tài sản bị đơn đã sử
dụng trong Biên bản định giá tài sản mà Biên bản này đã được bị đơn xác
nhận. vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận phần kháng cáo của
bị đơn về việc bị đơn phải mua lại máy móc, thiết bị của nguyên đơn không theo
giá tại thời điểm thẩm định bị đơn không sử dụng máy cắt dây, máy nén khí
bị áp giá cao.
[11] Bị đơn phản tố yêu cầu buộc nguyên đơn trả các khoản nợ phải nộp
cho Nhà nước Việt Nam theo thỏa thuận tại khoản 5.2 Điều 5 của Hợp đồng số
12 664.660.566 đồng, bồi thường cho bị đơn theo thỏa thuận tại Điều 4 Hợp
đồng số 12 3.835.000.000 đồng (trong 100.000.000 đồng chi phí đập 02
móng máy, móng và tường nhà do nguyên đơn xây dựng trái phép tại Cụmng
nghiệp I). Khoản 5.2 Điều 5 Hợp đồng số 12 xác định bị đơn trách nhiệm
phải thanh toán lại cho bị đơn thuế tài nguyên, phí bảo vmôi trường các
nghĩa vụ thuế liên quan (nếu ) trên sản lượng đá khối được thanh toán của bị
đơn. vậy, Hội đồng xét xử thẩm đã xác định đúng các khoản nguyên
đơn có trách nhiệm phải thanh toán cho bị đơn, cụ thể: nguyên đơn tham gia hợp
đồng hợp tác từ tháng 01/2014 đến tháng 09/2014 nên phải chịu tiền thuê đất
(7.000m
2
x 357 đồng/m
2
: 12 tháng) x 9 tháng = 1.874.250 đồng, tiền cấp quyền
khai thác (834.363.747 đồng/năm : 12.000m
3
/năm) x 6000m
3
x 70% : 12 tháng x
9 tháng = 219.020.483 đồng (giá thuê đất căn cứ vào hợp đồng thuê đất giữa Ủy
ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận Công ty V, tiền cấp quyền khai thác căn cứ
vào Quyết định s 2662 ngày 19/12/2014 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh
Thuận).
[12] Ttháng 01 năm 2015 đến tháng 10 năm 2015, bị đơn tự tiến hành
khai thác đá nên Hội đồng xét xử thẩm không chấp nhận yêu cầu của bị đơn
buộc nguyên đơn trả tiền cấp quyền khai thác trong giai đoạn này tổng cộng
243.356.093 đồng là hợp lý.
[13] Theo xác nhận của Cục thuế tỉnh Ninh Thuận, số tiền phạt chậm nộp
cấp quyền khai thác đá năm 2014 - 2015 173.964.841 đồng. Năm 2015, bị
đơn tự khai thác đá nên Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ buộc nguyên đơn trả bị đơn
½ số tiền Cục thuế đã xác định 86.982.420 đồng không chấp nhận yêu
cầu của bị đơn buộc nguyên đơn trả cho bị đơn số tiền 124.695.662 đồng
căn cứ.
11
[14] Điều 4 Hợp đồng số 12 quy định về phương thức thanh toán: bị đơn
thanh toán cho nguyên đơn 70% sản lượng đá khối thành phẩm khai thác được
trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng, nguyên đơn trách nhiệm thanh toán
đủ 30% sản lượng đá khối cho bị đơn nếu tầng khai thác không đủ 30% sản
lượng đá khối; trong trường hợp nguyên đơn khai thác không đạt sản lượng tối
thiểu 500m
3
/tháng thì nguyên đơn trách nhiệm thanh toán cho bị đơn bằng
tiền với giá trị 3.000.000 đồng/m
3
của số lượng đá khối mà nguyên đơn không
có để thanh toán. Tuy nhiên, sau thời điểm xảy ra tranh chấp (tháng 09/2014), bị
đơn quản lý, sử dụng máy móc của nguyên đơn để khai thác đá nên chỉ được
xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn về khoản tiền nguyên đơn phải thanh toán
cho bị đơn theo Điều 4 Hợp đồng số 12 trước thời điểm hai bên ngừng hợp tác
(tháng 09/2014). Bảng đối chiếu công nợ ngày 03/11/2014 xác định t ngày
01/10/2014 đến ngày 31/10/2014, bị đơn nợ nguyên đơn 74.750.416 đồng
được bị đơn thừa nhận đây sản lượng đá khối bị đơn còn phải thanh toán cho
nguyên đơn 70%. Ngoài ra, bđơn còn thừa nhận chưa thanh toán sản lượng đá
khối nghiệm thu tại bãi cho nguyên đơn. Như vậy, không sở xác định
nguyên đơn phải thanh toán các khoản theo Điều 4 Hợp đồng số 12 cho bị đơn.
Mặt khác, bị đơn lỗi vi phạm hợp đồng nên nguyên đơn không phải bồi
thường các khoản quy định tại Điều 4 Hợp đồng số 12. Hội đồng xét xử sơ thẩm
không chấp nhận yêu cầu của bị đơn buộc nguyên đơn bồi thường 3.735.000.000
đồng là đúng.
[15] Theo Bn bản định giá tài sản, chi phí đập 02 móng máy, móng và
tường nhà do nguyên đơn xây dựng tại Cụm ng nghiệp I 12.000.000 đồng
nên Hội đồng xét xử thẩm không chấp nhận yêu cầu của bị đơn về việc buộc
nguyên đơn trả 100.000.000 đồng mà chỉ chấp nhận 12.000.000 đồng căn
cứ.
[16] Bị đơn đầy đủ chứng từ về việc giúp nguyên đơn xây dựng nhà
công nhân, mái che, ntắm, vsinh bồn nước với tổng chi phí 271.136.200
đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bđơn về chi phí
này là hợp lý.
[17] Tổng số tiền theo yêu cầu phản tố của bị đơn 4.499.660.566 đồng
được Hội đồng xét xử thẩm chấp nhận 591.013.353 đồng (Gồm các khoản
1.874.250 đồng, 219.020.483 đồng, 86.982.420 đồng, 271.136.200 đồng
12.000.000 đồng) đã giải quyết đầy đủ, thỏa đáng. Hội đồng xét xử phúc thẩm
không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị đơn về việc đề nghị chấp nhận toàn
bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.
[18] Hội đồng xét xử không xem xét yêu cầu của bị đơn tại phiên tòa phúc
thẩm về án phí đối với khoản tiền hoàn thuế yêu cầu này không được nêu
trong đơn kháng cáo. Mặt khác, án phí sơ thẩm đã được Tòa án cấp sơ thẩm dựa
vào yêu cầu khởi kiện yêu cầu phản tố, tính trên tổng thể giá trị tài sản hai
bên phải giao cho nhau là phù hợp với quy định của pháp luật.
12
[19] Từ những phân ch trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp
nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn.
[20] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm nên
được chấp nhận.
[21] Kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án
phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 148 Bộ
luật Tố tụng dân sự khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-
UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ phí Tòa án Danh
mục Án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết này.
[22] Tại phần quyết định của Bản án thẩm, Hội đồng xét xử thẩm
ghi “Điều 24 khoản 1, 4, 5 Pháp lệnh án phí, lệ pTòa ánkhông chính xác
nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa thành “khoản 1, 4, 5 Điều 27 Pháp lệnh án
phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009”.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 B luật Tố tụng dân sự,
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên Bản án kinh doanh
thương mại thẩm số 02/2017/KDTM-ST ngày 15 tháng 6 năm 2017 của Tòa
án nhân dân tỉnh Ninh Thuận.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 3 Điều 35, Điều 147, Điều 165 của
Bộ luật Tố tụng dân s năm 2015; Các điều 303, 308, 319 của Luật Thương mại;
Các điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 1, 4, 5 Điều 27 Pháp
lệnh án phí, lệ phí Tòa án số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 Mục 3
phần I Danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Pháp lệnh này.
Tuyên xử:
1. Tuyên bố chấm dứt các hợp đồng phụ kiện hợp đồng được ký kết
giữa Công ty trách nhiệm hữu hạn vật liệu đá K (CS Co., Ltd) Công ty cổ
phần địa chất V gồm: Hợp đồng số 03/GEO-CFS/13 ngày 01/8/2013, Hợp đồng
số 12/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013, Phụ kiện hợp đồng số 12A/GEO-CFS/13
ngày 30/12/2013 của hợp đồng số 12/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013, Hợp đồng
số 15/GEO-CFS/13 ngày 15/12/2013.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu
hạn vật liệu đá K đối với Công ty cổ phần địa chất V, buộc Công ty cổ phần địa
chất V phải trả Công ty trách nhiệm hữu hạn vật liệu đá K tổng số tiền
5.415.574.823 đồng (Năm tỷ bốn trăm mười lăm triệu năm trăm bảy ơi bốn
ngàn tám trăm hai mươi ba đồng).
3. Chấp nhận mt phần yêu cầu phản tcủa Công ty cổ phần địa chất V
13
đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn vật liệu đá K, buộc Công ty trách nhiệm
hữu hạn vật liệu đá K phải trả Công ty cổ phần địa chất V tổng số tiền
591.013.353 đồng (Năm trăm chín mươi mốt triệu không trăm mười ba ngàn ba
trăm năm mươi ba đồng).
4. Công ty cổ phần địa chất V được quyền sở hữu các tài sản: 02 xe xúc
lật hiệu WSM, đời 951T18; 02 máy cắt đá; 04 bộ lưỡi cắt (bốn lưỡi 2,2m bốn
lưỡi 3,3m); 700 mét đường ray; 01 máy cắt dây; 01 máy nén khí (gồm máy nén
bình chứa khí); ntắm (nhà tạm), tường xây gạch táp lô, nền xi măng, diện
tích 5 m
2
, giá trị còn lại 40%; 01 bồn nước Q 1000 lít, giá trị còn lại 80%; 01
dãy nhà công nhân 10 phòng (trong đó 03 phòng không còn mái tôn) tường xây
gạch táp lô, nền láng xi măng, cửa sắt, mái tôn kẽm, diện tích 120m
2
, gtrị còn
lại: 40%; mái che (thuộc dãy nhà công nhân), mái che kèo gỗ, mái n, nền xi
măng, diện tích 60m
2
, giá trị còn lại 60%.
Bị đơn phải chịu 2.000.000 (hai triệu) đồng án phí kinh doanh thương mại
phúc thẩm, được trừ vào số tiền 2.000.000 (hai triệu) đồng tạm ứng án phí đã
nộp (Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0013781 ngày 05/7/2017 của
Cục thi hành án dân sự tỉnh Ninh Thuận).
Các quyết định khác của Bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án, hàng tháng bên phải thi hành án
phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành
theo lãi suất được quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 9
Luật Thi hành án dân s; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định ti
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân ti cao;
- Vin kim sát nhân dân cp cao ti Thành
ph H Chí Minh;
- Tòa án nhân dân tnh Ninh Thun;
- Vin kim sát nhân dân tnh Ninh Thun;
- Những người tham gia t tng (3);
- Cc Thi hành án dân s tnh Ninh Thun;
- S Tư pháp tỉnh Ninh Thun;
- Lưu VP (3), hồ sơ vụ án, HTKN, 13.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đặng An Thanh
Tải về
Bản án số 01/2018/KDTM-PT Bản án số 01/2018/KDTM-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất