Bản án số 89/2024/HNGĐ-ST ngày 13/09/2024 của TAND TX. Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 89/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 89/2024/HNGĐ-ST ngày 13/09/2024 của TAND TX. Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Ngã Năm (TAND tỉnh Sóc Trăng)
Số hiệu: 89/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Cù Văn Đ và bà Trần Thị N tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 1999, có tổ chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong thời gian đầu, ông bà chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2021 thì giữa hai người phát sinh bất đồng quan điểm trong lối sống, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vả với nhau. Hiện tại, ông Đ cho rằng quan hệ chung sống như vợ chồng không còn hạnh phúc nên muốn trả lại tự do cho nhau.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ NGÃ NĂM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 89/2024/HNGĐ-ST
Ngày 13 9 2024
V/v Yêu cầu không công nhận quan
hệ vợ chồng, tranh chấp về chia tài
sản chung của nam, nữ chung sống
với nhau như vợ chồng
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Lâm.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Trần Văn Hồng.
2. Bà Đàm Thị Thanh Loan.
- Tphiên tòa: Ông Nguyễn Minh Tân Thư Tòa án nhân dân thị
xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng tham
gia phiên tòa: Lê Ngọc Niềm - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09 và 13 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, xét xử thẩm công khai vụ án thụ số
184/2023/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2023 về việc “Yêu cầu không công
nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp về chia tài sản chung của nam, nữ chung sống
với nhau như vợ chồng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét x số
193/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Văn Đ, sinh năm 1969; địa chỉ: Số E, khóm T,
Phường B, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp về quan hệ tài sản của nguyên đơn: Anh Trà Văn
T, sinh năm 2000. Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng (theo văn bản
ủy quyền ngày 18-3-2024, có mặt).
- Bị đơn: Trần Thị N, sinh năm 1974; địa chỉ: Số E, khóm T, Phường B,
thị xã N; địa chỉ liên hệ: Ấp L, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng Trăng (có mặt).
- Người làm chứng:
1. Ông Văn H, sinh năm 1954; địa chỉ: Ấp P, M, huyện M, tỉnh Sóc
Trăng (có mặt).
2. Cù Thị H1, sinh năm 1956; địa chỉ: Khóm T, Phường B, thị N, tỉnh
Sóc Trăng (có mặt).
2
3. Bà Cù Thị L, sinh năm 1972; địa chỉ: Khóm T, Phường B, thị xã N, tỉnh
Sóc Trăng (có mặt).
4. Anh Phước N1, sinh năm 2000; đa chỉ: Khóm T, Phường B, thị xã N,
tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
5. Anh Phước T1, sinh năm 2000; địa chỉ: Khóm T, Phường B, thị N,
tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
6. Trần Thị Thúy H2, sinh năm 1983; địa chỉ: Ấp M, H, huyện P,
tỉnh Hậu Giang (có mặt).
7. Nguyễn Thị S, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp M, H, huyện P, tỉnh Hậu
Giang (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, lời khai các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án,
nguyên đơn ông Cù Văn Đ trình bày và yêu cầu như sau:
Ông Văn Đ Trần Thị N tự nguyện sống chung với nhau như vợ
chồng từ năm 1999, tổ chức lễ cưới nhưng không đăng kết hôn. Trong
thời gian đầu, ông chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2021 thì giữa hai
người phát sinh bất đồng quan điểm trong lối sống, thường xuyên xảy ra mâu
thuẫn, cãi vả với nhau. Hiện tại, ông Đ cho rằng quan hệ chung sống như vchồng
không còn hạnh phúc nên muốn trả lại tự do cho nhau.
Theo đơn khởi kiện, ông Cù Văn Đ yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng giữa
ông Cù Văn Đ và bà Trần Thị N.
- Về con chung: Trong thời kỳ chung sống, ông Đ và bà N có 02 con chung
tên là Phước T1Cù Phước N1, cùng sinh ngày 16-8-2000 đã thành niên
có gia đình riêng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung, về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo đơn yêu cầu phản tố, các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án tại
phiên tòa bị đơn Trần Thị N trình bày và yêu cầu như sau:
Bà và ông Văn Đ chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1999, có tổ
chức lễ cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, bà và
ông Đ 02 con chung sinh đôi tên Phước T1 Cù Phước N1, sinh ngày
16-8-2000, hiện đã thành niên và có gia đình riêng. Đến cuối năm 2021, giữa hai
người phát sinh mâu thuẫn nên không còn chung sống với nhau như vợ chồng.
Nay đối với yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng của ông Cù Văn Đ thì bà
đồng ý. Về con chung, các con đã trưởng thành nên ông Văn Đ trình bày
không không yêu cầu Tòa án giải quyết là đúng.
Tuy nhiên, về tài sản chung ông Văn Đ trình bày chưa đúng. Trong
thời kỳ chung sống như vợ chồng, bà và ông Đ có tạo lập được phần đất diện
tích chiều ngang khoảng 60m x dài khoảng 52m, thuộc thửa đất số 36, tờ bản đồ
số 95, tọa lạc tại khóm T, Phường B, thị N, tỉnh Sóc Trăng. Nguồn gốc đất là
3
do cha mẹ ông Đ cho. Hiện nay, quyền sử dụng đất do ông Văn Đ đứng tên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Về nợ chung, bà Trần Thị N trình bày có nợ
chung phát sinh trong thời kỳ chung sống như vợ chồng nhưng hiện nay chủ nợ
chưa có yêu cầu nên bà cũng thống nhất với ông Đ không yêu cầu Tòa án giải
quyết vấn đề nợ chung trong vụ án này.
Theo đơn yêu cầu phản tố, bà Trần Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất yêu cầu không công nhận quan hệ v
chồng giữa ông Cù Văn Đ và bà Trần Thị N.
- Về con chung: Thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Yêu cầu chia đôi quyền sdụng phần đất chiều ngang
khoản 60m x dài khoản 52m, thuộc thửa đất số 36, tờ bản đồ số 95, tọa lạc tại
khóm T, Phường B, thị N, tỉnh Sóc Trăng. Khi phân chia tài sản chung, bà Trần
Thị N yêu cầu được nhận bằng hiện vật.
- Về nợ chung: Thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Nguyên đơn vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố về việc phân chia tài sản chung của
nam, nữ chung sống như vợ chồng, đề nghị căn cứ vào số liệu đo đạc thực tế khi
xem xét, thẩm định tại chỗ để giải quyết vụ án.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân thủ và chấp
hành đúng pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng người tham gia tố tụng
trong quá trình giải quyết vụ án. Đồng thời, phát biểu quan điểm vtính n
cứ và hợp pháp của yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử
(HĐXX) tuyên bố không công nhận ông Cù Văn Đ Trần Thị N là vợ chồng,
chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị N, chia cho bà N một
phần công sức đóng góp, giữ gìn, tôn tạo tài sản tương đương 21,2% diện tích đất
tại thửa số 36, tờ bản đồ số 95, tọa lạc tại khóm T, Phường B, thị xã N, tỉnh Sóc
Trăng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nguyên đơn khởi kiện bị đơn địa chỉ trú tại thị N, tỉnh Sóc Trăng;
yêu cầu giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng; giải quyết vấn đtài sản
chung của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng. Tòa án nhân dân thị
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng thụ lý vụ án quan hệ pháp luật giải quyết được xác
định về việc “Yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp về tài sản
chung của nam, nữ chung sống như vợ chồngtheo quy định tại khoản 1, khoản
8 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Văn Đ đã được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. HĐXX
căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân
4
sự, tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo thủ tục chung.
[3] Về quan hệ hôn nhân, nguyên đơn ông Cù Văn Đ và bị đơn bà Trần Thị
N đều thống nhất trình bày giữa hai người mối quan hệ chung sống như vợ
chồng, tổ chức lễ cưới không đăng ký kết hôn từ trước năm 1999. Đây
tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của
Bộ luật Tố tụng dân sự. t thấy, việc nam, nữ chung sống như vchồng
không đăng kết hôn vi phạm khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Nay cuộc sống chung không còn hạnh phúc, cả hai đều đồng thuận cùng yêu cầu
Tòa án không công nhận họ là vợ chồng nên HĐXX chấp nhận, tuyên bố không
công nhận ông Cù Văn Đ và bà Trần Thị N là vợ chồng, theo quy định tại khoản
2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[4] Vcon chung: Nguyên đơn ông Cù Văn Đ bị đơn Trần Thị N thống
nhất trình bày trong thời kỳ chung sống như vợ chồng, ông 02 con chung
tên Cù Phước T1 Phước N1, cùng sinh ngày 16-8-2000, đều đã thành
niên và gia đình riêng, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không đặt
ra xem xét trong vụ án này.
[5] Về tài sản chung: Bị đơn bà Trần Thị N trình bày trong thời kỳ chung
sống như vợ chồng, ông Văn Đ tạo lập được phần đất diện tích
chiều ngang 60m x dài 52m, thuộc thửa đất số 36, tờ bản đồ số 95, tọa lạc tại
khóm T, Phường B, thị N, tỉnh Sóc Trăng. Trong quá trình sử dụng đất
chuyển nhượng cho người khác nên biến động diện tích hiện tại theo đo đạc thực
tế còn 2.366,4 m
2
. Nguồn gốc đất một phần do cha mẹ ông Đ tặng cho, một
phần chiều ngang 15m x dài hết đất là do vợ chồng nhận chuyển nhượng của ông
Văn H (anh ruột của ông Đ). Tuy nhiên, nguyên đơn ông Văn Đ không
đồng ý cho rằng toàn bộ diện tích đất này tài sản riêng của ông được do
cha mẹ tặng cho trước khi cưới, ông đã được Ủy ban nhân dân huyện T, tỉnh Sóc
Trăng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 18-4-1994, đến năm 1999 thì
mới cưới bà N làm vợ.
[6] Tại Công văn s248/CNNN ngày 10-4-2024, Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thị xã N xác nhận nguồn gốc thửa đất số 36, tờ bản đồ số 95 trước đây
thửa số 179, tờ bản đsố 12, nguồn gốc do cụ Văn N2 khai phá sử
dụng; sau đó cho lại ông Văn Đ được UBND huyện T cấp giấy chứng
nhận quyền sdụng đất tên Phước Đ1 ngày 18-4-1994 số giấy B 624290.
Đến năm 2016, ông Cù Văn Đ đính chính giấy chứng nhận từ Cù Phước Đ1 thành
Cù Văn Đ và cấp đổi thửa đất số 179, tờ bản đồ số 12 thành thửa đất số 17, tờ bản
đồ số 95. Đến năm 2022, ông Đ tách thửa đất số 17 thành thửa đất số 34, thửa số
35 cùng tờ bản đồ số 95 để chuyển nhượng cho Trần Thị Thúy H2
Nguyễn Thị S, diện tích còn lại 2.986,9 m
2
(đo thực tế 2.366,4 m2) thuộc thửa số
36 như hiện trạng hiện nay.
[7] Tại biên bản lấy lời khai ngày 05-8-2024 tại phiên tòa thẩm, ông
Văn H trình bày nguồn gốc thửa đất số 179, tờ bản đồ số 12 của cha mẹ khai
phá để lại. Khi cha mẹ chết thì ông Cù Văn Đ được 12 - 13 tuổi. Trước khi cha
mẹ chết đã cho ông một nền nhà ngang 15m thuộc thửa đất số 179, tờ bản đồ số
5
12. Ông Cù Văn Đ đăng ký chuyển tên thửa đất này sang tên ông Đ từ khi nào thì
ông không nhớ, nhưng đến năm 2011, ông có nhu cầu chuyển về bên vtại M,
huyện M sinh sống nên đã thỏa thuận giao nền nhà ngang 15m của ông lại cho vợ
chồng ông Đ ông nhận 1,5 cây vàng 24K của vợ chồng ông Đ như lời N
trình bày là đúng sự thật.
[8] Nội dung ông Văn H trình bày về nguồn gốc, diễn biến quá trình sử
dụng thửa đất tranh chấp nêu trên là phù hợp với lời khai và xác nhận của những
người làm chứng khác tại phiên tòa. Tuy nhiên, bà N thừa nhận sau đám cưới t
bà biết toàn bộ thửa 179 đã sang tên cho ông Điêu đứng t, lúc cưới về bà có xem
cất giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông H cũng thừa nhận tại thời
điểm năm 2011, thỏa thuận chuyển nhượng không làm giấy tmột phần do anh
em ruột, phần vì ông Đ đã đăng ký cấp giấy lại toàn bộ thửa đất số 179 đứng tên
ông Đ nên ông nhận đủ 1,5 cây vàng 24K rồi dọn đi, để đất lại ổn định cho vợ
chồng ông Đ sử dụng cho phù hợp với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp.
Cù Thị H1, Thị L 02 con chung của ông Đ, bà N cũng chỉ xác thực
được việc ông H khi ra riêng có cất nhà trên thửa 179, đến năm 2011 thì dọn đi;
còn việc chuyển nhượng lại cho ông Đ, N với giá 1,5 cây vàng 24K là nghe nói
lại. Đồng thời, việc ông Đ được thừa hưởng từ cha mẹ đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất tại thửa 179 được sự đồng thuận của tất cả anh, chị,
em.
[9] Ngoài ra, bị đơn không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào khác để
chứng minh việc ông Đ, N nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông
Văn H vào năm 2011. HĐXX căn cứ vào chứng cứ hiện có trong hồ sơ vụ án, lời
xác nhận của những người làm chứng, có cơ sở xác định thửa đất số 36, tờ bản đồ
số 95 (trước đây thửa số 179) đã được ông Văn Đ xác lập quyền sử dụng
hợp pháp từ năm 1994, trước khi ông Cù Văn Đ và bà Trần Thị N tổ chức lễ cưới
theo tập quán. Đến năm 2011, ông H có nhận 1,5 cây vàng của ông Đ và bà N để
chuyển đi nơi khác, giao nền nhà lại cho ông Đ quản lý, sử dụng toàn bộ thửa đất
số 179 cho phù hợp với giấy chứng nhận được cấp cho ông Đ; không sở xác
thực đây là giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, số vàng 1,5
cây vàng 24K N ông Đ giao cho ông H để ông H dọn nhà đi, hợp thức quyền
sử dụng đất cho ông Đ toàn bộ thửa đất số 179 là có xảy ra trên thực tế.
[10] HĐXX xét thấy, ông Đ và bà N mặc không đăng ký kết hôn nhưng
có tổ chức lễ cưới theo tập quán và chung sống với nhau như vợ chồng trong một
thời gian rất dài, có 02 con chung, quan hệ vợ chồng được cả hai bên gia đình và
cộng đồng thừa nhận. Trong thời gian chung sống như vợ chồng, N đã cùng
ông Đ quản lý, giữ gìn cải tạo phần đất đưa vào khai thác để tạo ra thu nhập
duy trì đời sống chung. Thực tế, qua lời xác nhận của những người làm chứng, có
sở xác định trong quá trình quản lý, sdụng đất, bà N cùng ông Đ cải tạo từ
đất trồng mía thành đất vườn. Năm 2011, bà N cùng ông Đ bỏ ra 1,5 cây vàng để
thỏa thuận cho ông H di dời căn nhà, giao lại một phần đất ngang 15m để hợp
thức cho ông Đ toàn bộ diện tích thửa đất số 179 đúng như giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã được cấp năm 1994; mặc chưa đủ cơ sở xác thực sự kiện này là
6
chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng cũng công sức đóng góp của N
vào giá trị quyền sử dụng đất.
[11] Tại phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn đều thừa nhận hiện nay ngoài thửa
đất số 36 nêu trên thì ông Đ, N không còn tài sản nào khác. HĐXX xét hoàn
cảnh sau khi chấm dứt quan hệ như vchồng, N cùng với 02 con anh Cù
Phước T1, anh Phước N1 đều đang trọ, nhờ nhu cầu bức thiết về
quyền sử dụng đất ở. Do đó, cần phải phân chia cho N một phần đất bằng hiện
vật tương ứng với công sức đóng góp của bà N tại thửa số 36, tờ bản đ số 95 thì
mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con khi chấm dứt quan h
chung sống như vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Luật Hôn nhân
gia đình. Trên sở đánh giá về diện tích thửa đất còn lại, thời gian công
sức đóng góp của N, diện tích tối thiểu được tách thửa theo quy định, quyền
lợi ích hợp pháp của các bên, HĐXX quyết định chia cho N một phần tương
đương 21,2 % diện tích thửa đất s36, tờ bản đồ số 95, tọa lạc tại khóm T, Phường
B, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có diện tích 501,2 m
2
có tứ cận như sau:
- H giáp Đường L có số đó 6,0 m + 4,06 m;
- Hướng Tây giáp phần đất T2 có số đo 0,71 m + 9,40 m;
- Hướng Nam giáp phần đất P quản lý, sử dụng số đo 37,53 m + 8,16
m + 4,19 m;
- Hướng Bắc giáp phần đất còn lại ca thửa số 36 chia cho ông Cù Văn Đ
số đo 50 m.
[12] Tại phiên tòa, bà Trần Thị Thúy H2, bà Nguyễn Thị S xác nhận ông
Văn Đ thỏa thuận chuyển nhượng cho H2 và bà S phần đất tại thửa số 36
chiều ngang 27 m. Tuy nhiên, quan hệ hợp đồng chưa thực hiện được không
tranh chấp; H2, bà S không yêu cầu trong vụ án này nên HĐXX không
đặt ra xem xét, giải quyết. Sau khi chia cho bà N phần công sức đóng góp 501,2
m
2
thì phần đất còn lại vẫn đảm bảo để ông Đ thực hiện hợp đồng một phần
tương đương 10 m chiều ngang do ông Đ tiếp tục quản lý, sử dụng. Quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên được đảm bảo.
[13] Về nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên HĐXX không đặt ra xem
xét, giải quyết trong vụ án này.
[14] Từ những phân tích nêu trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa
là có cơ sở nên được HĐXX chấp nhận.
[15] Về án phí thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình
sơ thẩm. Đồng thời, nguyên đơn và bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương
ứng với phần tài sản được nhận, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật
Tố tụng dân sự; điểm a, b khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết s
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lphí Tòa
án.
7
[16] Về chi phí tố tụng khác: Nguyên đơn, bị đơn phải chịu chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ theo tỷ lệ giá trị phần tài sản được chia theo quy định tại khoản
2 Điều 157 của B luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1, khoản 8 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39, Điều 92, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 157, Điều 227, Điều 228,
Điều 235, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Điều 9, Điều 16, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân gia đình; Điều 146, điểm
a khoản 2 Điều 220 của Luật Đất đai năm 2024; khoản 6 Điều 26, điểm a, b khoản
5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vQuốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Cù Văn Đ.
Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Cù Văn Đ Trần
Thị N.
2. Chấp nhận mt phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị N.
* Chia cho bà Trần Thị N một phần diện tích 501,2 m
2
thuộc thửa đất số 36,
tờ bản đồ số 95, tọa lạc khóm T, Phường B, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có
số đo tứ cận như sau:
- H giáp Đường L có số đó 6,0 m + 4,06 m;
- Hướng Tây giáp phần đất T2 có số đo 0,71 m + 9,40 m;
- Hướng Nam giáp phần đất P quản lý, sử dụng số đo 37,53 m + 8,16
m + 4,19 m;
- Hướng Bắc giáp phần đất còn lại của thửa s36 chia cho ông Cù Văn Đ
số đo 50 m.
* Chia cho ông Văn Đ một phần diện tích 1.865,2 m
2
thuộc thửa đất số
36, tờ bản đồ số 95, tọa lạc khóm T, Phường B, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất
có số đo tứ cận như sau:
- H giáp Đường L có số đó 17,0 m + 10,0 m + 10,23 m;
- Hướng Tây giáp phần đất T2 quản lý, sử dng có số đo 37,08 m;
- Hướng Nam giáp phần đất chia cho bà N có số đo 50 m;
- Hướng Bắc giáp phần đất thửa 35 có số đo 50,42 m.
(Phiếu xác nhận kết quả đo đạc kèm theo bản án)
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn bà Trần Thị N về
việc chia đôi phần đất có diện tích đo thực tế 2.366,4 m
2
thuộc thửa đất số 36, tờ
8
bản đồ số 95, tọa lạc khóm T, Phường B, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, cho ông
Văn Đ và bà Trần Thị N.
4. Về con chung, nợ chung của nam nữ chung sống như vợ chồng mà không
đăng ký kết hôn: Không xem xét, giải quyết trong vụ án này.
5. Án phí sơ thẩm:
- Nguyên đơn ông Văn Đ phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia
đình thẩm và 33.838.423 đồng án phí dân sự thẩm, tổng cộng 34.138.423
đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên
lai thu tiền số 0011093 ngày 24-10-2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng. Ông Cù Văn Đ còn phải nộp thêm số tiền 33.838.423
đồng.
- Bị đơn Trần Thị N phải chịu 9.991.971 đồng án phí dân sự thẩm.
được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 3.750.000 đồng theo biên lai thu
tiền số 0002523 ngày 22-01-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ngã Năm,
tỉnh Sóc Trăng. Bà Trần Thị N còn phải nộp thêm số tiền 6.241.971 đồng.
6. Chi phí tố tng khác:
- Nguyên đơn phải chu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 5.453.400 đồng.
- Bị đơn phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ 1.465.389 đồng.
Do bị đơn bà Trần Thị N đã nộp tạm ứng trước nên ông Cù Văn Đ có nghĩa
vụ trả lại cho bà Cù Thị N3 số tiền 5.453.400 đồng. Nghĩa v chịu chi phí tố tụng
của bà Trần Thị N trong phần này đã thực hiện xong.
7. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa không người
đại diện thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sthì người được thi hành án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án dân sự, thời
hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND thị xã Ngã Năm;
- Chi cục THADS thị xã Ngã Năm;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thanh Lâm
Tải về
Bản án số 89/2024/HNGĐ-ST Bản án số 89/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 89/2024/HNGĐ-ST Bản án số 89/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất