Bản án số 624/2024/HC-PT ngày 22/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 624/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 624/2024/HC-PT ngày 22/11/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 624/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/11/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Không chấp nhận yêu cầu
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 626/2024/HC-PT
Ngày: 22-11-2024
V/v: Khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về đất đai
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phan Thị Vân Hương.
Các Thẩm phán: Ông Hồ Sỹ Hưng;
Ông Trần Quang Minh.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Hoàng Long, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Bà Vi Thị Tuyết
Minh, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 22 tháng 11 năm 2024 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Nội
xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ số: 424/2024/TLPT-HC ngày
20 tháng 9 năm 2024 về Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai”.
Do bản án hành chính sơ thẩm số 06/2024/HC-ST ngày 24 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 12413/2024/QĐPT-HC
ngày 04 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Trần Văn N, sinh năm 1976.
Đăng thường trú: S B, đường E, N, phưng P, qun B, thành ph
Ni.
Địa ch liên h: 353 đường T, phường L, thành ph N, tnh H.
2. Người bị kiện: S Tài nguyên và Môi trường tnh N.
Địa chỉ: Số A T, phường P, thành phố N, tỉnh H.
Người đại din theo pháp lut: Ông Phạm Văn S - Giám đốc
Người đại din theo y quyn: Ông Đỗ Trung K - Phó Giám đốc
(Văn bản y quyn s 21/UQ-STNMT ngày 03/01/2024)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Văn phòng Đăng đất đai thuộc S Tài nguyên Môi trường tnh
N;
Địa chỉ: Số A T, phường P, thành phố N, tỉnh H;
Người đại din theo pháp lut: Ông Đoàn Đại T - Giám đốc;
Người đại din theo y quyn: Ông Vũ Quc H - Phó Giám đốc;
(Văn bản y quyn s 46/UQ-VPĐK ngày 15/01/2024).
3.2. Giám đốc S i nguyên và Môi trường tnh N
Người đại din theo y quyn: Ông Đỗ Trung K - Phó Giám đốc;
(Văn bản y quyn s 2604/UQ-STNMT ngày 25/6/2024).
3.3. Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố N
Địa chỉ: Số A T, phường B, thành phố N, tỉnh H;
Người đại din Chi nhánh: Ông Hoàng T1 - Giám đốc.
3.4. Chi cc Thi hành án dân s thành ph H, tnh H
Địa chỉ: Số 1 Đào Duy Từ, phường Thống Nhất, thành phố H, tnh H;
Người đại din theo pháp lut: Ông Đỗ Đăng B - Chi cục trưởng;
Người đi din theo y quyn: Nguyn Th Ngc T2 - Chp hành viên
trung cp;
(Văn bản y quyn s 81/VBUQ-THADS ngày 08/12/2023).
3.5. Ngân hàng Thương mại C phn Á
Địa chỉ: Số D N, phường E, quận C, thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại din theo pháp lut: Ông T Tiến P - Tng Giám đốc;
Người đại din theo y quyn: Ông Phm T3 - Giám đốc x n
ông Trần Đăng H1 - Chuyên viên x lý n;
(Văn bản y quyn s 149/UQ-QLN.24 ngày 24/01/2024).
3.6. Phòng C thuc S Tư pháp tỉnh H
Địa chỉ: Số C đường T, phường Q, thành phố N, tỉnh H;
Người đại din theo pháp lut: Bà Phan Thanh H2 - Trưởng phòng;
Người đại din theo y quyn: Bà Nguyn Thanh V - Chuyên viên;
(Văn bản y quyn ngày 09/01/2024).
3.7. Ủy ban nhân dân phường Q, thành ph N: Địa ch: S A ph H, phường
Q, thành ph N, tnh H;
Người đại din theo pháp lut: Ông Trần Đức H3 - Ch tch UBND phường
Q;
Người đại din theo y quyn: Ông Nguyễn Đức T4 - Phó Ch tch UBND
3
phưng Q.
3.8. Bà Nguyn Th B1, sinh năm 1972;
Địa ch trước khi xut cnh: Số C T, phường T, thành phố N, tỉnh H;
Địa ch hin nay: O - W.3
01796 Pirna - Cộng hòa liên bang Đ;
Người đại din theo y quyn: Ông Phm Tiến T5;
Địa chỉ: Số E P, phường B, thành phố N, tỉnh H;
(Văn bản y quyn ngày 07/02/2024).
3. 9. Công ty trách nhim hu hn T8
Địa chỉ cũ: Số E H, phường Q, thành phố N, tỉnh H;
Địa ch liên h: Ông Trn Thanh T6, s G đường T, phường T, thành ph
N, tnh H;
Người đại din theo pháp lut: Ông Trần Văn N - Giám đốc.
3.10. Bà Trn Th K1, sinh năm 1982;
Đăng ký thường trú: S C, Ô, phường H, thành ph N, tnh H;
Địa ch liên h: S A đường T, phường T, thành ph N, tnh H;
Người đi din theo y quyền (Văn bản y quyn ngày 05/4/2024): Trn
Th B2, sinh năm .
Địa chỉ: B, Ô, phường H, TP N, tỉnh H;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện sửa đổi bổ sung, đơn trình bày quá
trình tham gia tố tụng tại Tòa án, ông Trần Văn N trình bày:
Năm 2012, ông Trần Thị K1 thế chấp 03 quyền sử dụng đất các
tài sản gắn liền với đất tại số nhà E H, phường Q, thành phố N (viết tắt là số nhà
E H) và 01 quyền sử dụng đất tại xóm G M thành phố N để đảm bảo cho khoản
vay của Công ty TNHH T8 (viết tắt là Công ty T8) tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Á chi nhánh N1 (viết tắt là Ngân hàng Á).
Do Công ty T8 gặp khó khăn và không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ nên
Ngân hàng Á đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố H để yêu cầu Công ty
T8 trả nợ. Tại Toà án, Công ty T8 và Ngân hàng Á đã thoả thuận và được Tòa án
ra Quyết định công nhận sự thoả thuận vào ngày 04/5/2015.
Năm 2016, K1 đã bỏ tiền giải chấp 01 quyền sử dụng đất tại xóm G
M thành phố N. Sau đó Ngân hàng Á đã yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sthành
phố H (viết tắt là Chi cục T) thi hành một phần Quyết định của Tòa án. Chi cục
THADS ra Quyết định thi hành án theo yêu cầu số 06/QĐ-CCTHADS ngày
09/11/2016 thì Công ty T8 là người phải thi hành án. Các tài sản phải thi hành án
4
là: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 701110 do Ủy ban nhân dân thành
phố N cấp ngày 12/7/2005, diện tích 44,5 trong đó diện tích chung 23,4 m²,
diện tích riêng 21,1 đứng tên Trần Văn N ngày 12/5/2010 tại số E H (viết tắt
GCNQSDĐ số AC 701110); GCNQSDĐ số AK 894879 do Ủy ban nhân dân
thành phố N, tỉnh H cấp ngày 05/11/2007, diện tích 65,86 trong đó diện tích
chung 45,08 diện tích riêng 20,78 đứng tên Trần Văn N ngày 12/5/2010 tại
51 H (viết tắt GCNQSDĐ số AK 894879); GCNQSDĐ số AO 332922 do Ủy
ban nhân dân thành phố N cấp ngày 18/02/2009, diện tích 61,4 trong đó diện
tích chung 38,8 diện tích riêng 22,6 đứng tên Trần Văn N ngày 12/5/2010
tại 51 H (viết tắt là GCNQSDĐ số AO 332922).
Ngày 24/11/2016, Chấp hành viên Chi cục THADS lập Biên bản về việc
xác minh điều kiện thi hành án.
Ngày 22/12/2016, Chấp hành viên Chi cục THADS ra Thông báo về kết
quả thẩm định giá tài sản số 71/TB-THADS. Ngày 22/05/2017, Chấp hành viên
Chi cục THADS ra Thông báo số 161/TB-THADS về việc bán đấu giá không
thành lần 3.
Ngày 23/5/2017, Ngân hàng Á đơn đề nghị về việc nhận tài sản để trừ
vào tiền thi hành án, nhưng không nêu rõ giá trị tài sản trừ vào tiền thi hành án.
Ngày 30/6/2017, Chấp hành viên Chi cục THADS ra Quyết định về việc
giao tài sản cho người được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS.
Ngày 10/7/2017, K1 đơn đăng mua tài sản với giá thị trường
4.200.000.000 đồng (Bốn tỷ hai trăm triệu đồng).
Ngày 17/7/2017, Chấp hành viên Chi cục THADS lập Biên bản về việc giải
quyết việc thi hành án với Ngân hàng Á với nội dung: “Ngân hàng Á không đồng
ý với đơn đăng mua tài sản của K1. Đề nghị Chi cục THADS xử theo
quy định của pháp luật”.
Ngày 11/8/2017, Chấp hành viên Chi cục THADS ra Thông báo về việc
cưỡng chế thi hành án số 223/TB-THADS với nội dung: “Bằng biện pháp: Giao
nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất tại sE H cho Ngân hàng Á. Tài sản gồm:
Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất có diện tích 128,18 m², thửa đất số
4, 7, 8 tờ bản đồ số 12; thửa đất số 29, tờ bản đồ số 13, tại số E H theo các
GCNQSDĐ số AK 894879 và GCNQSDĐ sAO 332922 mà chưa Thông báo
cưỡng chế đối với GCNQSDĐ số AC 701110.
Ngày 29/8/2017, Chi cục T công văn số 132/CV-CCTHADS gửi Sở Tài
nguyên và môi trường tỉnh N về việc cấp GCNQSDĐ cho Ngân hàng Á do nhận
tài sản cần trừ nợ tại thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12, và thửa thửa đất số 29 t
bản đồ số 13 tại số E H.
Ngày 21/9/2017, Sở Tài nguyên môi trường tỉnh N công văn số
2499/STNMT-VPĐK với nội dung: "Đề đảm bảo quyền lợi cho Ngân hàng Á khi
việc phát mại quyền sử dụng đất chưa thành, Chi nhánh Văn phòng đăng đất
đai thành phố N (viết tắt là Chi nhánh VPĐKĐĐ) thực hiện xác nhận trên trang 4
5
GCN đã cấp; Trong thời hạn 03 năm kể từ ngày quyết định xử lý tài sản đảm bảo
là bất động sản, Ngân hàng Á tiếp tục thực hiện việc phát mại quyền sử dụng đất
thực hiện cấp đổi GCNQSDĐ theo quy định. Việc cấp đổi GCNQSDĐ được
thực hiện sau khi đã phát mại tài sản hoàn thành”.
Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, Chấp hành viên Chi cục THADS đã
hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành
án. Ngày 02/5/2019, Cục THADS tỉnh N đã ra Quyết định số 59/QĐ-CTHADS
xử kỷ luật công chức THADS với các hình thức: Kỷ luật khiển trách đối với
Chấp hành viên trung cấp Chi cục THADS với do vi phạm các quy định của
pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án và phê bình trong cơ quan, phê bình
trong toàn ngành đối với một số cá nhân khác.
Ông N cho rằng Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N đã căn cứ hồ thi
hành án vi phạm các quy định của pháp luật để xác nhận trên trang 4 GCNQSDĐ
số AC 701110 ttên ông chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Á theo Quyết
định về việc giao tài sản cho người được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS ngày
30/6/2017 của Chi cục THADS và sau đó tiến hành việc cấp đổi GCNQSDĐ
trái quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngày 02/11/2017, bà K1 có đơn đề nghị về
việc sang tên đổi chủ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gửi UBND thành phố
N, Phòng T9, Văn phòng đăng ký đất đai thành phố N. Đồng thời, K1 có đơn
khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn với ông N tại Tòa án, trong đó có tài
sản GCNQSDĐ số AC 701110. Trong vụ án này, Ngân hàng Á người
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, tài sản đang tranh chấp và đang được
Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc thẩm thì ngày 22/01/2020, Ngân hàng Á đã
chuyển nhượng quyền sử dụng đất GCNQSDĐ số AC 701110 cho bà Nguyễn Thị
B1, sinh năm 1972, trú tại C T, phường T, thành phố N, tỉnh H. Với do nêu trên
thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản gắn liền với đất giữa
Ngân hàng Á và Nguyễn Thị B1 tại Phòng C1 tỉnh H, số công chứng 315,
quyển số 19/TP/CC-SCC/HĐGD là vô hiệu.
Mặt khác, cho đến nay ông K1 chưa tự nguyện bàn giao tài sản
ông cũng không được tống đạt Thông báo cưỡng chế thi hành án đối với tài sản
là GCNQSDĐ số AC 701110. Sau khi có Bản án phúc thẩm của Tòa án nhân dân
tỉnh H giải quyết tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn giữa ông N K1
thì ông mới biết được việc xác nhận biến động, ngày 29/10/2020 ông đã đơn
khiếu nại đến sTài nguyên Môi trường tỉnh N tiếp tục có đơn khiếu nại
đến lần thứ 10 nhưng vẫn không được giải quyết. Thời điểm ông biết GCNQSDĐ
số AC 701110 được chuyển quyền cho bà B1 vào khoảng cuối năm 2022.
Do vậy, ông N yêu cầu Tòa án: Tuyên bố Hành vi hành chính của Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh N về việc đăng biến động chuyển đổi quyền sử
dụng GCNQSDĐ số AC 701110 được UBND thành phố N cấp ngày 12/7/2005,
đăng biến động thay đổi chủ sở hữu sang tên Trần Văn N được Phòng tài
nguyên môi trường xác nhận ngày 12/5/2010, diện ch 44,5 (sử dụng chung:
23,4 m², sdụng riêng 21,1 m², chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng TMCP
Á ngày 10/11/2017 theo Quyết định về việc giao tài sản cho người được thi hành
6
án số 01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố H là hành vi hành chính trái pháp luật; Hủy GCNQSDĐ số AC 701110 được
UBND thành phố N cấp ngày 12/7/2005, phần xác nhận trên trang 4, chuyển
quyền sử dụng đất cho Ngân hàng thương mại cổ phần Á ngày 10/11/2017; Hủy
GCNQSDĐ số CU 330743 được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh N cấp ngày
26/8/2020 cho bà Nguyễn Thị Bích .
Về quan điểm của ông đối với các yêu cầu độc lập của bà K1: Các yêu cầu
độc lập của K1 như đã trình bày trong đơn là có cơ sở pháp lý. Đề nghị Tòa án
xem xét giải quyết theo pháp luật.
Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N trình bày về yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn:
Hộ ông Phạm Anh T7, Nguyễn Thị L được UBND thành phố N cấp
GCNQSD đất số AC 701110 ngày 12/7/2005, với diện tích 44,5 (sử dụng
riêng: 21,1 m², sử dụng chung: 23,4 m²) tại số nhà E H, phường Q, thành phố N.
Năm 2010, ông T7, L chuyển nhượng cho ông Trần Văn N, được Phòng Tài
nguyên và Môi trường thành phố T9 xác nhận tại trang 4 GCNQSDĐ.
Hộ ông Trần Mạnh D, bà Đặng Thị Kim D1 được UBND thành phố N cấp
GCNQSDĐ số AK 894879 ngày 05/11/2007 với diện tích 65,86 (sử dụng riêng
20,78 m² sử dụng chung 45,08 m²), tài sản gắn liền với đất nhà cấp 4 diện
tích 15 m² và GCNQSDĐ số AO 332922 ngày 18/02/2009 diện tích 61,4 m² (sử
dụng riêng 22,6 sử dụng chung 38,8 m²), tài sản gắn liền với đất TNền
diện tích 20 m² tại số nhà E H, phường Q, thành phố N. Năm 2010, ông D
D1 chuyển nhượng cho ông Trần Văn N, được Phòng Tài nguyên và Môi trường
thành phố T9 xác nhận tại trang 4 GCNQSDĐ.
Ngày 05/01/2012, ông Trần Văn N làm thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất
tài sản đăng trong GCNQSDĐ với Ngân hàng Á cho Công ty T8 được
Ngân hàng cấp tín dụng theo Hợp đồng thế chấp số: NAD.BĐDN.01040112; Văn
phòng Đăng thông tin nhà đất thành phố N đã xác nhận đăng thế chấp
trên trang 4 các GCNQSDĐ.
Do Công ty T8 không trả được khoản nợ vay tại Ngân hàng Á; ngày
09/11/2016, Ngân hàng có đơn yêu cầu thi hành án với nội dung: Ngân hàng Á
đề nghị Chi cục THADS phát mãi tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất của ông Trần Văn N Trần Thị K1 tại số E H, phường Q,
thành phố N theo Hợp đồng thế chấp số NAD BĐDN.01040112/PL-01 cam
kết thế chấp ngày 05/01/2012 của ông và bà K1 để thu hồi nợ”.
Ngày 09/11/2016, Chi cục THADS ra Quyết định số 06/QĐ-CCTHADS về
việc thi hành án đối với Công ty T8. Ngày 01/12/2016, Chi cục THADS ra Quyết
định số 02/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của ông N và
K1, địa chỉ tại số E H tài sản thế chấp cho khoản vay của Công ty T8 để đảm
bảo thi hành án; đồng thời có Thông báo s45/TB-THADS vviệc cưỡng chế thi
hành án gửi các đương sự. Ngày 09/12/2016, Chi cục T, Chi nhánh VPĐKĐĐ và
7
Phòng Quản lý nhà thuộc sở hữu Nhà nước, Công ty cổ phần C2 cùng với Ngân
hàng Á lập biên bản về việc kê biên, xử lý tài sản (ông N và K1 đã được thông
báo nhưng vắng mặt không có lý do).
Ngày 22/12/2016, Chi cục T Thông báo số 71/TB-THADS vkết quả
thẩm định giá tài sản đối với tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và giá trị nhà tại
số E H.
Ngày 29/12/2016, chấp hành viên Hợp đồng bán đấu giá số
02/2016/HĐ-ĐGXV với Công ty CP D2; tài sản bán đấu giá giá trị quyền sử
dụng đất và công trình xây dựng trên đất tại số E H. Ngày 20/5/2017, Công ty Cổ
phần D2 có thông báo tới Chi cục THADS và chấp hành viên về việc bán đấu giá
nhà 51 phố H lần thứ 3 đã không thành không có khách hàng mua và nộp hồ sơ
tham gia đấu giá. Do việc bán đấu giá không thành; ngày 23/5/2017 Ngân hàng Á
đơn đnghị được nhận lại tài sản “toàn bộ ngôi nhà 3 tầng quyền sử dụng
đất có diện tích 128,18 m², thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12, thừa H; thửa đất s
29 tờ bản đồ số 13, tại số E H. Với lý do để trừ vào số tiền được thi hành án”.
Ngày 23/5/2017 Chi cục T có Thông báo số 164/TB-THADS gửi ông Trần
Văn N về việc Ngân hàng Á đồng ý nhận các tài sản đã kê biên để trừ vào số tiền
được thi hành án; tài sản gồm: “Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất có
diện tích 128,18 m², thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12, thửa đất số 29 tờ bản đồ
số 13 tại địa chỉ số E H”.
Ngày 30/6/2017, Chi cục THADS ra Quyết định số 01/QĐ-CCTHADS về
việc giao i sản cho người được thi hành án Ngân hàng Á. Ngày 11/8/2017,
Chi cục THADS ra Quyết định số 10/-CCTHADS về việc cưỡng chế giao nhà,
chuyển quyền sử dụng đất; cụ thể: Cưỡng chế thi hành án đối với ông N K1,
địa chỉ số E H là người có tài sản thế chấp ngân hàng cho khoản vay của Công ty
T8; Giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất tại số E H cho Ngân hàng Á.., tài sản
gồm: “Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất có diện tích 128,18m², thửa
đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12, thửa đất số 29 tờ bản đồ số 13 tại địa chỉ số E H
theo các GCNQSD đất...”.
Ngày 22/8/2017, Chi cục T cùng đại diện các cơ quan liên quan thực hiện
cưỡng chế bàn giao tài sản; bàn giao tài sản cho Ngân hàng Á (ông N K1
vắng mặt không có lý do chính đáng).
Sau khi nhận bàn giao tài sản từ Chi cục T, ngày 05/10/2017, Ngân hàng Á
đơn đề nghị Chi nhánh VPĐKĐĐ xác nhận biến động trang 4 GCNQSD đất
số AC 710110; số AK 894879; số AO 332922. Ngày 10/11/2017, Chi nhánh
VPĐKĐĐ xác nhận trang 4 GCNQSDĐ số AC 710110; GCNQSDĐ số AK
894879; GCNQSDĐ số AO 332922 với nội dung: Chuyển quyền sử dụng đất cho
Ngân hàng thương mại cổ phần Á theo Quyết định về việc giao tài sản cho người
được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017 của Chi cục T. Việc Chi
nhánh VPĐKĐĐ xác nhận trên trang 4 các GCNQSDĐ đúng quy định của pháp
luật.
8
Theo quy định tại Điều 19 Thông số 23/2014/TT-BTNMT ngày
19/5/2014 của Bộ T10 thì VPĐKĐĐ, Chi nhánh VPĐKĐĐ thẩm quyền xác
nhận biến động vào GCNQSDĐ đã cấp. Vì vậy, ông N, bà K1 khiếu kiện hành vi
xác nhận biến động trên trang 4 các GCNQSDĐ đối với Sở Tài nguyên Môi
trường tỉnh N là không đúng quy định của pháp luật.
Về việc Sở T cấp GCNQSDĐ số CU 330743; số CU 330744; số CU 330699
cho bà Nguyễn Thị B1 ngày 26/8/2020:
Ngày 22/01/2020, Ngân hàng Á lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất tài sản gắn liền với đất, địa chỉ số E H, phường Q, thành phố N cho
Nguyễn Thị Bích . Thành phần hồ đề nghị cấp GCNQSDĐ gồm: Bản gốc
các GCNQSD đất số AC 710110; số AK 894879; số AO 332922; Đơn đăng
biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất ngày 20/01/2020; Đơn đề nghị cấp lại,
cấp đổi GCNQSDĐ quyền sở hữu nhà tài sản gắn liền với đất của bà Nguyễn
Thị B1 ngày 22/01/2020; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất giữa Ngân hàng Á Nguyễn Thị B1 ngày 22/01/2020 được
Phòng C tỉnh H ng chứng; Số công chứng số 315, 316, 317 quyền số 19TP/CC-
SCC/HDGD.
Trên sở hồ sơ, tài liệu liên quan Sở T đã cấp GCNQSDĐ số CU
330743; số CU 330744; số CU 330699 cho Nguyễn Thị B1 ngày 26/8/2020
theo đúng quy định của pháp luật. Do vậy, ST đề nghị Tòa án bác toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của ông Trần Văn N và yêu cầu độc lập của bà Trần Thị K1. Trong
quá trình tiếp nhận hồ cấp GCNQSD đất cho Nguyễn Thị B1, Sở T không
nhận được bất kỳ văn bản nào liên quan đến việc tạm dừng giao dịch đối với nhà
đất tại số E H. Sở T đề nghị Tòa án bác toàn byêu cầu khởi kiện của ông Trần
Văn N và yêu cầu độc lập của bà Trần Thị K1.
Quan điểm đôi với Văn bản s 3734/STNMT-VPĐK tr li khiếu ni ca
ông N: Ngày 30/10/2020 S Tài nguyên Môi trường tnh N nhận được Đơn
khiếu nại đề ngày 29/10/2020 ca ông Trần Văn N ni dung: Khiếu ni v vic
Chi nhánh Văn phòng đăng đt thành ph N xác nhn biến động trên trang 4
GCNQSDĐ số AC 701110 ngày 10/11/2017 cho Ngân hàng Á trái pháp luật.
Ngoài ra đơn còn phn ánh vic ông N đã gửi đơn khiếu nại đến Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai thành phố N nhưng chưa được xem xét th gii quyết
khiếu ni trong thi hn luật định.
Thy rằng đây v vic tính cht phc tp t giai đon t chc thi hành
án ti Chi cc Thi hành án dân s thành ph H đến vic giao nhn tài sản để tr
vào s tin phi thi hành án. S T đã nghiên cứu tài liu, h v vic do Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố N cung cp. Ngày 02/12/2020 S T
đã ban hành Văn bản s 3734/STNMT-VPĐK trả li khiếu ni ca ông N vi ni
dung: Vic khiếu ni ca ông Trần Văn N không n cứ. Chi nhánh Văn
phòng đăng đt thành ph N xác nhn biến động trang 4 GCNQSDĐ số AC
701110 ngày 10/11/2017 là đúng quy định.
9
Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh N, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
tỉnh N trình bày cùng nội dung và cùng quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của
người khởi kiện:
Hộ ông Phạm Anh T7, Nguyễn Thị L được UBND thành phố N cấp
GCNQSD đất số AC 701110 ngày 12/7/2005, diện tích 44,5 (sử dụng riêng:
21,1, sử dụng chung: 23,4 ) tại số nhà E H. Năm 2010, ông T7, bà L chuyển
nhượng cho ông Trần Văn N toàn bộ diện tích đất nói trên và được Phòng T9 xác
nhận tại trang 4 GCNQSD ngày 12/5/2010. Hộ ông Trần Mạnh D, bà Đặng Thị
Kim D1 được UBND thành phố N cấp GCNQSD đất số AK 894879 ngày
05/11/2007 diện tích 65,86 (sử dụng riêng 20,78 sử dụng chung 45,08
), tài sản gắn liền với đất là nhà cấp 4 diện tích 15 m² và GCNQSD đất số AO
332922 ngày 18/02/2009 diện tích 61,4 (sử dụng riêng 22,6 và sdụng
chung 38,8), tài sản gắn liền với đất TNền diện tích 20 tại số nhà E H.
Năm 2010, ông D D1 chuyển nhượng cho ông Trần Văn N toàn bộ diện tích
02 thửa đất nói trên, được Phòng i nguyên Môi trường thành phố T9 xác
nhận tại trang 4 GCNQSD đất.
Ngày 05/01/2012, ông Trần Văn N làm thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất
tài sản đăng trong GCN với Ngân hàng TMCP Á bảo đảm cho khoản vay
của Công ty T8 được Ngân hàng cấp tín dụng theo Hợp đồng thế chấp số:
NADBĐDN.01040112; được Văn phòng Đăng ký và thông tin nhà đất thành phố
N xác nhận đăng thế chấp trên trang 4 các GCNQSD số AC 701110; số AK
894879; số AO 332922. Do Công ty T8 không trả được khoản nợ vay tại Ngân
hàng Á, ngày 09/11/2016, Ngân hàng đơn yêu cầu thi hành án với nội dung:
Ngân hàng Á đnghị Chi cục THADS phát mãi tài sản bảo đảm là quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất của ông Trần Văn N và bà Trần Thị K1 tại số
E H theo hợp đồng thế chấp số NAD.BĐDN.01040112/PL-01 ngày 11/5/2012
cam kết thế chấp ngày 05/01/2012 của ông Trần Văn N và bà Trần Thị K1 để thu
hồi nợ”.
Ngày 09/11/2016, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H có Quyết định
số 06/QĐ-CCTHADS(DS) về việc thi hành án đối với Công ty TNHH T8. Ngày
01/12/2016, Chi cục THADS ra Quyết định số 02/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng
chế kê biên, xử lý tài sản của ông Trần Văn N và bà Trần Thị K1, địa chỉ tại số E
H là tài sản thế chấp cho khoản vay của Công ty T8 để đảm bảo thi hành án, đồng
thời Thông báo số 45/TB-THADS về việc cưỡng chế thi hành án gửi các đương
sự. Ngày 09/12/2016, Chi cục T, Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành phố
N Phòng Quản nhà thuộc sở hữu Nhà nước, Công ty cổ phần C2 cùng với
Ngân hàng Á lập biên bản về việc biên, xử tài sản (ông Trần Văn N
Trần Thị K1 đã được thông báo nhưng vắng mặt không có lý do). Ngày
22/12/2016, Chi cục T có Thông báo số 71/TB-THADS về kết quả thẩm định giá
tài sản đối với tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và giá trị nhà tại số E H.
Ngày 29/12/2016, chấp hành viên Hợp đồng bán đấu giá số
02/2016/HĐ-ĐGXV với Công ty CP D2; tài sản bán đấu giá là giá trị QSD đất
công trình xây dựng trên đất tại số E H. Ngày 20/5/2017, Công ty Cổ phần D2
10
thông báo tới Chi cục THADS và chấp hành viên về việc bán đấu giá nhà 51 phố
H lần thứ 3 nhưng không thành không có khách hàng mua và nộp hồ tham
gia đấu giá.
Do việc bán đấu giá nhà tại số E H không thành; ngày 23/5/2017 Ngân hàng
Á có đơn gửi Chi cục T đề nghị được nhận lại tài sản là “toàn bộ ngôi nhà 3 tầng
QSD đất diện tích 128,18 , thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ s12, thửa đất
số 29 tờ bản đồ số 13, tại số E H, với lý do: để trừ vào số tiền được thi hành án”.
Ngày 23/5/2017 Chi cục T Thông o số 164/TB-THADS gửi đương sự về
việc Ngân hàng Á đồng ý nhận các tài sản đã biên để trừ vào số tiền được thi
hành án; tài sản gồm: “Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng QSD đất diện tích 128,18
, thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12, thửa đất số 29 tờ bản đồ số 13 tại số E H.
Ngày 30/6/2017, Chi cục T Quyết định số 01/QĐ-CCTHADS về việc
giao tài sản cho người được thi hành án Ngân hàng Á. Ngày 11/8/2017, Chi cục
T có Quyết định số 10/QĐ-CCTHADS về việc cưỡng chế giao nhà, chuyển QSD
đất; cụ thể: Cưỡng chế thi hành án đối với ông Trần Văn N Trần Thị K1,
địa chỉ số E H là người có tài sản thế chấp ngân hàng cho khoản vay của Công ty
T8; Giao nhà, chuyển QSD đất tại số E H cho Ngân hàng Á, tài sản gồm: “Toàn
bộ ngôi nhà 3 tầng và QSD đất có diện tích 128,18 m², thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản
đồ số 12, thửa đất số 29 tờ bản đồ số 13 tại số E H, theo các GCNQSD đất...”.
Ngày 22/8/2017, Chi cục T cùng đại diện các cơ quan liên quan thực hiện
cưỡng chế bàn giao tài sản; bàn giao tài sản cho Ngân hàng Á (ông Trần Văn N
và bà Trần Thị K1 vắng mặt không có lý do chính đáng).
Sau khi nhận bàn giao tài sản từ Chi cục THADS, ngày 05/10/2017 Ngân
hàng Á đơn đề nghị Chi nhánh VPĐKĐĐ xác nhận biến động trang 4 các
GCNQSDĐ số AC 701110; số AK 894879; số AO 332922. Ngày 10/11/2017,
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố N xác nhận trang 4 GCNQSD số
AC 701110; số AK 894879; số AO 332922, với nội dung: Chuyển QSD đất cho
Ngân hàng Á theo Quyết định về việc giao tài sản cho người được thi hành án số
01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H.
Ngày 22/01/2020, Ngân hàng Á chuyển nhượng thửa đất trên cho
Nguyễn Thị B1; Hợp đồng chuyển nhượng được Phòng C tỉnh H ng chứng; S
công chứng số 315, quyển số 19TP/CC-SCC/HĐGD. Trên sở hồ sơ, tài liệu
liên quan quy định của pháp luật; ngày 26/8/2020 Sở T cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số CU 330743; số CU 330744; số CU 330699
cho bà Nguyễn Thị Bích .
Quá trình thực hiện thủ tục, Chi nhánh và Văn phòng Đ và Văn phòng đều
không nhận bất kỳ văn bản nào yêu cầu đề nghị tạm dừng giao dịch nđất về
việc không sang tên đổi chủ đối với nhà đất số E H, phường Q, TP N. Đề nghị
Tòa án xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị Toà án xét xử vụ án
theo quy định của pháp luật.
Chi cc Thi hành án dân s thành ph H trình bày:
11
Sau khi thụ đơn yêu cầu thi hành án của Ngân hàng Á đối với Quyết định
công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 07/2015/QĐST-KDTM ngày
04/6/2015 Quyết định sửa chữa, bổ sung số 01/2016/QĐ-SCBA ngày
07/11/2016 của Tòa án nhân dân thành phố H. Chi cụcTHADS đã ra Quyết định
thi hành án số 06/QĐ-CCTHADS ngày 09/11/2016 cho thi hành đối với người
phải thi hành án là Công ty T8. Công ty T8 phải trả cho Ngân hàng Á toàn bộ các
khoản tiền nợ theo đúng hợp đồng tín dụng đã là: 8.792.295.741 đồng (Tám
tỷ, bảy trăm chín mươi hai triệu, hai trăm chín ơi lăm nghìn, bảy trăm bốn
mươi mốt đồng). Nếu Công ty T8 không thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng Á,
Chi cục T sẽ phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi nợ, đó là: Quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất tại số E H, phường Q, thành phố N, tỉnh H thuộc quyền sở
hữu, sử dụng của ông Trần Văn N Trần Thị K1 tài sản chung của vợ
chồng đã thế chấp với Ngân hàng Á theo hợp đồng thế chấp số
NAD.BĐDN.01040112 ngày 05/01/2012, Phụ lục hợp đồng thế chấp số
NAD.BĐDN.01040112/PL-01 ngày 11/5/2012 Cam kết thế chấp ngày
05/01/2012 của ông Trần Văn N và bà Trần Thị K1 với Ngân hàng Á.
Sau khi nhận hồ Chấp hành viên đã thực hiện việc thông báo, tống đạt
quyết định thi hành án cho các đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
và yêu cầu Công ty T8 tự nguyện thi hành án.
Hết thời hạn tự nguyện thi hành án nhưng Công ty vẫn không tự nguyện thi
hành mặc đã được động viên, thuyết phục. Sau khi tiến hành khảo sát hiện
trạng tài sản thế chấp, ngày 09/12/2016 Chi cục THADS đã tiến hành kê biên, xử
tài sản của ông N K1, tại số nhà E H tài sản thế chấp ngân hàng cho
khoản vay của Công ty T8 để đảm bảo thi hành án. Tài sản biên, xử gồm:
Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất có diện tích 128,18 , thửa đất số
4, 7, 8 tờ bản đồ số 12; thửa đất số 29, tờ bản đồ số 13, tại số nhà E H, phường Q,
thành phố N, tỉnh H theo các GCNQSDĐ số AK 894879 do UBND thành phố N
cấp ngày 05/11/2007; GCNQSDĐ số AO 332922 do UBND thành phố N cấp
ngày 18/02/2009; GCNQSDĐ sAC 701110 do UBND thành phố N cấp ngày
12/7/2005.
Sau hai lần giảm giá 3 lần bán đấu giá tài sản không thành, ngày
23/5/2017 Ngân hàng Á có đơn đề nghị nhận tài sản với g đã định
5.331.855.620 đồng đtrừ vào tiền thi hành án. Căn cứ khoản 2 Điều 104 Luật
Thi hành án dân sự Chi cục đã ra Thông báo số 164/TB-THADS ngày 23/5/2017
thông báo cho người phải thi hành án, người tài sản đảm bảo n định 30
ngày để người phải thi hành án nộp đủ số tiền thi hành án và chi phí để lấy lại tài
sản.
Hết thời hạn 30 ngày, người phải thi hành án, người tài sản đảm bảo
không có ý kiến về việc nhận lại tài sản căn cứ Điều 104 Luật Thi hành án dân sự
Chi cục đã ra Quyết định số 01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017 vviệc giao tài
sản cho người được thi hành án Ngân hàng Á tiến hành các thủ tục thu phí
thi hành án, các chi phí theo quy định của pháp luật. Chi cục đã ra thông báo số
192/TB-THADS ngày 03/7/2017 về việc chuyển tài sản ấn định thời hạn cho
12
người tài sản đảm bảo là ông Trần Văn N và bà Trần Thị K1 trách nhiệm
chuyển toàn bộ tài sản ra khỏi nhà sE H trước khi bàn giao nhà cho bên được
thi hành án.
Mặc dù, đã được thông báo hợp lệ nhưng ông N, K1 cố tình vắng mặt
không giao tài sản, nhà số E H đóng cửa. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật, đảm bảo quyền lợi cho đương sự Chi cục áp dụng biện pháp cưỡng chế giao
nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất đã kê biên cho Ngân hàng Á theo Quyết định
số 10/QĐ- CCTHADS ngày 11/8/2017 vào ngày 22/8/2017. Toàn bộ tài sản trong
nhà gồm các thiết bị đồ điện đã bị han rỉ, hỏng do để lâu ngày, ngoài ra còn
một số vật dụng khác như bình ga, két sắt đã rỉ được Chi cục THADS đóng gói
chuyển về kho quan THADS thành phố H để bảo quản chờ xử lý theo quy định
tại Điều 115 Luật Thi hành án dân sự. Chi cục đã thông báo cho người được
thi hành án, người phải thi hành án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về số tài sản trong nhà số
E H trụ sở của Công ty TNHH T8 ai chủ sở hữu thì liên hệ với Chi cục
THADS thành phố N để được giải quyết. Nội dung thông báo đã được đăng trên
báo pháp luật sB3 243 ngày 30 31/8/2017. Đồng thời Chi cục cũng đã
thông báo cho các đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết.
Hết thời hạn trên, do không nhân và tổ chức nào chứng minh được tài
sản đã thu giữ là tài sản của mình, vì vậy Chi cục THADS thành phố N xác nhận
tài sản mà Chi cục đưa về kho là tài sản của Công ty T8 tài sản đó được thu giữ
tại trụ sở của Công ty T8 và phù hợp với mặt hàng Công ty kinh doanh được thể
hiện tại Mục 10 của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của ng ty T8.
Ngày 23/10/2017, Chi cục ra Quyết định số 02/QĐ-CCTHADS kê biên tài
sản trong nhà số E H để tiếp tục xử lý. Chi cục đã tiến hành các thủ tục biên,
mở niêm phong, xác định giá, bán đấu giá công khai theo quy định của pháp luật.
Trong quá trình xử lý tài sản trong nhà số E H do lỗi sơ suất khi soạn thảo Quyết
định kê biên và biên bản mở gói mở khóa Chấp hành viên và thư ký đã đánh máy
nhầm 562 thùng đựng đồ” thành “362 thùng đựng đồ” dẫn đến việc đương sự
khiếu nại, tố cáo cho rằng Chấp hành viên “gây thiệt hại tài sản xâm phạm
nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”. Cục Thi hành án dân
sự tỉnh; Viện kiểm sát tỉnh H; Chi cục Thi hành án dân sự thành phố; Viện kiểm
sát nhân dân thành phố đã tiến hành xác minh làm về việc: Chấp hành viên
cùng đại diện các Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Phòng tài chính kế hoạch
thành phố N, Sở khoa học công nghệ tỉnh H đã mniêm phong, biên xác
định giá theo theo phiếu xuất kho ngày 25/10/2017 562 thùng”, tài sản vẫn
còn nguyên số lượng, chủng loại và niêm phong. Như vậy, tài sản không bị mất.
Chi cục THADS ban hành Kết luận nội dung tố cáo số 02/KL-CCTHA ngày
20/7/2020 đã kết luận là tố cáo sai sự thật, không có cơ sở để xem xét chấp nhận.
Do Chấp hành viên sai sót khi đánh máy dẫn đến đương sự đơn thư khiếu
nại kéo dài. Ngày 02/5/2019 Cục trưởng Cục THADS tỉnh N đã ban hành Quyết
định xử kỷ luật công chức thi hành án dân sự số 59/QĐ-CTHADS đối với Chấp
hành viên vì lý do vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức thi
13
hành án bằng hình thức kỷ luật “Khiển trách”. Sau khi nhận Đơn của ông N,
K1, Công ty T8 về việc đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản
án phúc thẩm về việc chia tài sản chung sau ly hôn của Tòa án nhân dân tỉnh H,
Tòa án nhân dân cấp cao tại Nội đã các Thông báo số 83/TB-TA ngày
27/8/2021; số 84/TB-TA ngày 27/8/2021; số 36/TB-TA ngày 13/5/2022; số
475/TB-TA ngày 20/9/2022; số 614/TB-TA ngày 19/12/2022 đã xác định không
có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
Như vậy, toàn bộ quá trình Chấp hành viên xtài sản thế chấp để thu
hồi nợ cho Ngân hàng Á theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự số 07/2015/QĐST-KDTM ngày 04/6/2015 của Tòa án nhân dân thành phố H
đúng quy định của Luật Thi hành án dân sự. Chi cục THADS đề nghị giải quyết
vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại các Văn bản trình bày ý kiến và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án,
Ngân hàng Thương mại C phn Á trình bày:
Ngày 05/01/2012, vchồng ông Trần Văn N, Trần Thị K1 thế chấp toàn
bộ Thửa đất 51 H để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ của Công ty T8 với Ngân
hàng Á, theo Hợp đồng thế chấp số NAD.BĐDN.01040112 được công chứng tại
Phòng C tỉnh H, đăng thế chấp tại n phòng đăng và thông tin nhà đất
thành phố N. Đồng thời, vợ chồng ông N còn cam kết thế chấp toàn bộ căn nhà
hai tầng một tum được xây dựng trên ba Thửa đất số AC701110, số AK894879,
số AO392922, tại số E (35 cũ) H.
Ngày 04/6/2015 ngày 07/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố H ra
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 07/2015/QĐST- KDTM
và Quyết định sửa chữa, bổ sung số 01/2016/QĐ-SCBA về việc giải quyết vụ án
“Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, trong đó Công ty T8 nghĩa vụ trả cho Ngân
hàng Á toàn bộ số tiền gốc, lãi 8.792.295.741 đồng tiền lãi phát sinh theo
hợp đồng tín dụng; trường hợp Công ty T8 không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ trả nợ thì xử lý quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại số
E H theo Hợp đồng thế chấp số NAD.BĐDN.01040112 Cam kết thế chấp tài
sản ngày 05/01/2012 để đảm bảo thu hồi nợ.
Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chi cục THADS đã tiến hành kê biên
và đưa ra bán đấu giá các tài sản thế chấp, theo Quyết định cưỡng chế thi hành án
số 02/QĐ-CCTHADS ngày 01/12/2016, Thông báo vviệc cưỡng chế thi hành
án số 45/TB-THADS ngày 01/12/2016 và Biên bản về việc kê biên, xử lý tài sản
ngày 09/12/2016. Các tài sản thế chấp được xác định các Thửa đất số 4,7,8 cùng
tờ bản đồ số 12 và Thửa đất số 29 tờ bản đồ số 13, tại địa chỉ số E H. Khi tài sản
thế chấp được đưa ra bán đấu giá và đủ điều kiện để Ngân hàng Á được nhận tài
sản để trừ vào số tiền thi hành án.
Ngày 23/5/2017, Ngân hàng Á đơn đề nghị nhận gán nợ đối với các tài
sản thế chấp. Sau khi hết thời hạn 30 ngày theo quy định tại khoản 2 Điều 104
Luật Thi hành án dân sự và theo thông báo của Chi cục T nhưng vợ chồng ông N
không nộp đủ số tiền thi hành án chi phí thi hành án để nhận lại tài sản. Do đó,
14
Chi cục THADS ra Quyết định số 01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017, Thông báo
số 223/TB-THADS ngày 11/8/2017 về việc giao tài sản cho Ngân hàng Á để nhận
gán nợ. Ngày 22/8/2017, Chi cục T tổ chức bàn giao tài sản cho Ngân hàng Á
theo Biên bản về việc giao, nhận tài sản thi hành án.
Ngày 10/11/2017, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố N cập
nhật sang tên tài sản cho Ngân hàng Á trên GCNQSDĐ số AC 701110, số AK
894879 và số AO 392922.
Ngày 22/01/2020, Ngân hàng Á chuyển nhượng các tài sản này cho
Nguyễn Thị Bích . Đến ngày 26/8/2020, B1 được Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh N cấp ba Giấy chứng nhận mới.
Sau khi ly hôn, K1 khởi kiện vụ án dân sự về việc chia tài sản chung
sau khi ly hôn” với bị đơn ông N, K1 yêu cầu chia tài sản chung gồm nhà,
đất tại 51 Hàng Tiện…Ngày 20/11/2019, Tòa án nhân dân thành phố H xét xử
thẩm ván bằng Bản án s631/2019/HNGĐ-ST. Theo đó, Tòa án cấp thẩm
tuyên không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của K1 do tại thời điểm bà K1
khởi kiện thì nhà đất 51 Hàng Tiện không còn là tài sản chung của K1, ông N
thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của Ngân hàng Á đã được cấp Giấy
chứng nhận như nêu trên. Ngày 04/9/2020, Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc
thẩm vụ án bằng Bản án phúc thẩm số 17/2020/DS-ST và tuyên giữ nguyên Bản
án sơ thẩm số 631/2019/HNGĐ-ST với cùng nhận định như Tòa án cấp sơ thẩm.
Từ hai sự việc nêu trên, ông N khởi kiện vụ án hành chính, cho rằng:
quan Thi hành án chưa có thông báo cưỡng chế đối với nhà đất theo Giấy chứng
nhận số AC701110. Đồng thời, Chấp hành viên Nguyễn Thị Ngọc T2 đã bị xử lý
kỷ luật do vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án.
Ông N yêu cầu Tòa án: Tuyên bố hành vi hành chính của Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh N vviệc đăng biến động chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân
hàng Á trên Giấy chứng nhận sAC 701110 hành vi trái pháp luật; Hủy cập
nhật biến động trên Giấy chứng nhận số AC 701110 cho Ngân hàng Á; Hủy Giấy
chứng nhận số CU 330743 cấp cho bà Nguyễn Thị Bích .
Ngân hàng Á thấy rằng: Trong suốt quá trình thi hành án, tài sản thi hành
án đều được xác định các Thửa đất số 4,7,8 cùng tờ bản đồ số 12 Thửa đất
số 29 tờ bản đồ số 13, tại địa chỉ số E H cùng với căn nhà hai tầng và một tum (ba
tầng) được xây dựng trên các Thửa đất này. Tại Thông báo số 223/TB-THADS
ngày 11/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H về việc cưỡng chế
giao nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất có ghi nhận nội dung: “giao nhà, chuyển
giao quyền sử dụng đất tại: số E H, phường Q, thành phố N, tỉnh H cho A (...).
Tài sản gồm: toàn bộ ngôi nhà ba tầng và quyền sử dụng đất có diện tích 128,18
m², thửa đất số 4, 7, 8, tờ bản đsố 12; thửa đất số 29, tờ bản đồ số 13, tại địa chỉ:
số E H,... theo Giấy chứng nhận số AK 894879, số AO 392922”.
Như vậy, Thông báo số 223/TB-THADS đã thể hiện rất quan Thi
hành án giao cho Ngân hàng Á toàn bộ các Thửa đất số 4,7,8 cùng tờ bản đồ số
12 và Thửa đất số 29 tờ bản đồ số 13, tại địa chỉ số E H ng với căn nhà hai tầng
15
một tum (ba tầng) được xây dựng trên các Thửa đất này. Việc Thông báo số
223/TB-THADS ghi thiếu “Giấy chứng nhận số AC 701110” như ông N trình bày
sai sót về kỹ thuật đánh máy của Chấp hành viên, không làm thay đổi kết quả
xử lý tài sản và kết quả nhận gán nợ của Ngân hàng Á.
Do đó, việc ông N cho rằng Cơ quan Thi hành án chưa thông báo cưỡng
chế đối với Nhà đất theo Giấy chứng nhận số AC 701110 là vi phạm quy định về
thi hành án là không sở; Tại Công văn số 752/CCTHADS-GQKNTC v
việc thi hành án, giải quyết đơn liên quan đến ông Trần Văn N ngày 19/10/2020
của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh H có nội dung: “Chấp hành viên đã
đánh nhầm “562 thùng đựng đồ” thành “362 thùng đựng đồ”. vậy, dẫn đến việc
đương sự hiểu lầm rằng quan Thi hành án làm thất thoát 200 thùng tài sản
(thực tế thì tài sản vẫn còn ở trong kho và bị niêm phong)”. Như vậy, các tài sản
sai sót (nội thất, đồ dùng trong nhà số E H) cũng không phải tài sản Ngân
hàng Á nhận gán nợ.
Mặc dù Chấp hành viên có sai sót về nghiệp vụ (lỗi vô ý như kết luận của
quan thi hành án) nhưng không làm ảnh hưởng đến kết quả thi hành án. Do
đó, việc ông N căn cứ vào quyết định xử lý kỷ luật Chấp hành viên để từ đó cho
rằng kết quả thi hành án không đúng quy định pháp luật là không có cơ sở; Tranh
chấp giữa ông N K1 không ảnh hưởng đến quyền sở hữu, sử dụng nhà đất
51 Hàng Tiện của Ngân hàng Á và việc Ngân hàng Á chuyển nhượng tài sản này
cho bà Nguyễn Thị B1 là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật về đất đai vì
Giao dịch thế chấp đã được công chứng, đăng theo quy định và đã được Tòa
án công nhận bằng Quyết định số 07/2015/QĐST- KDTM đã hiệu lực thi hành.
Vậy nên, các tài sản này phải được đảm bảo để thi hành án theo quy định của pháp
luật; ngày 10/11/2017, Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố N đã xác
nhận biến động chuyển quyền cho Ngân hàng Á. Tại thời điểm này, K1 ông
N chưa có tranh chấp chia tài sản chung sau khi ly hôn.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai 2013 thì kể từ thời điểm
được cấp Giấy chứng nhận, Ngân hàng Á là chủ sở hữu, sử dụng các tài sản nhận
gán nợ. Vậy nên, Ngân hàng Á quyền chuyển nhượng các tài sản này theo quy
định tại khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai 2013 khoản 3 Điều 132 Luật các Tổ
chức tín dụng. Vợ chồng ông N không còn chủ sở hữu, sử dụng các tài sản Ngân
hàng Á đã nhận gán nợ, trong đó Giấy chứng nhận số AC 701110; số AK
894879; số AO 332922. Tại khoản 1 Điều 103 Luật Thi hành án dân sự quy định
“người mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án được bảo
vệ quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó”.
Do vậy Ngân hàng Á đnghị Tòa án không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông Trần Văn N và yêu cầu độc lập của bà Trần Thị K1.
Tại các Văn bản trình bày ý kiến và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án,
Phòng C thuc S Tư pháp tỉnh H trình bày:
Ngày 22/01/2020, Phòng C tỉnh H đã nhận được Phiếu yêu cầu công chứng
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất đối
16
với thửa đất tại số E (35 cũ) H, phường Q, thành phố N, giữa bên chuyển nhượng
Ngân hàng Á và bên nhận chuyển nhượng là Nguyễn Thị B1, địa chỉ: C T,
phường T, thành phN, tỉnh H theo các GCNQSDĐ số AC 701110 do UBND
thành phố N, cấp ngày 12/7/2005; GCNQSDĐ số AK 894879 do UBND thành
phố N, cấp ngày 05/11/2007; GCNQSDĐ số AO 332922 do UBND thành phố N,
cấp ngày 18/02/2009.
Sau khi kiểm tra hồ giấy tờ các bên cung cấp đầy đủ, cùng ngày
22/01/2020 Phòng C tỉnh H đã công chứng đối với 03 Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản khác gắn liền với đất, số công chứng: 315, 316, 317
tại quyển số: 19TP/CC-SCC/HĐGD là đảm bảo đúng theo quy định tại Điều 40,
Điều 41 Luật Công chứng năm 2014 và Điều 166, Điều 167, Điều 168, Điều 169
Luật Đất đai năm 2013 quy định chung về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất. Trong suốt quá trình giải quyết yêu cầu công chứng Hợp đồng, Phòng không
nhận được bất kỳ văn bản thông báo ngăn chặn nào đối với các GCNQSDĐ số
AC 701110; số AK 894879; số AO 332922.
Phòng C tỉnh H đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật.
Tại đơn trình bày và bản tự khai và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án,
người đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH T8 trình bày:
Năm 2012, Công ty T8 ợc các tài sản là 03 quyền sử dụng đất các tài
sản gắn liền với đất tại số nhà E H, phường Q, thành phố N và 01 quyền sử dụng
đất tại xóm G xã M thành phố N của cá nhân ông Trần Văn N và bà Trần Thị K1
để thế chấp đảm bảo cho khoản vay của công ty tại Ngân hàng Á. Cụ thể là:
GCNQSDĐ số AC 701110, số AK 894879, số AO 332922. Do Công ty G khó
khăn trong kinh doanh không thực hiện được nghĩa vtrả nợ nên Ngân hàng
Á đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố H để yêu cầu Công ty T8 phải trả
nợ. Công ty T8 Ngân hàng Á đã thoả thuận và Tòa án nhân dân thành phố H
ra Quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự ngày 04/5/2015.
Năm 2016, bà K1 đã bỏ tiền giải chấp tài sản01 quyền sử dụng đất tại
xóm G M thành phố N. Sau đó, Ngân hàng Á đã yêu cầu Chi cục THADS
thành phố N thi hành một phần Quyết định công nhận sự thoả thuận vào ngày
04/5/2015. Công ty T8 là người phải thi hành án theo Quyết định thi hành án theo
yêu cầu số 06/QĐ-CCTHADS ngày 09/11/2016 của Chi cục Thi hành án n sự
thành phố H. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, Chấp hành viên Chi cục
THADS đã vi phạm các quy định của pháp luật, như: Tự hợp thửa của 03 Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất dẫn đến xác định sai diện tích, tài sản gắn liền trên
đất. Do đó ảnh hưởng đến việc định giá, giải quyết chủ sở hữu tài sản xin nộp tiền
nhận lại tài sản và việc nhận tài sản để trừ vào tiền thi hành án, nhưng không nêu
rõ giá trị tài sản trừ vào tiền thi hành án.
Ngày 11/8/2017, Chấp hành viên Chi cục THADS ra Thông báo về việc
cưỡng chế thi hành án số 223/TB-THADS với nội dung: Bằng biện pháp: Giao
nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất tại: Số E H, phường Q, thành phố N, tỉnh H
17
cho Ngân hàng Á, tài sản gồm: Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất có
diện tích 128,18 , thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12; thửa đất số 29, tờ bản đồ
số 13, tại số E H, phường Q, thành phố N, tỉnh H theo các GCNQSDĐ số AK
894879 số AO 332922 mà chưa thông báo cưỡng chế đối với GCNQSDĐ
số AC 701110. Ngày 29/8/2017, Chi cục T công văn số 132/CV- CCTHADS
gửi Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh N về việc cấp GCNQSDĐ cho Ngân hàng
Á, do nhận tài sản cần trừ nợ tại thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản dồ số 12, và thửa thửa
đất số 29 tờ bản đồ số 13 tại địa chỉ: số E H, phường Q, thành phố N.
Ngày 02/5/2019, Cục THADS tỉnh N đã ban hành Quyết định số 59/QĐ-
CTHADS xử lý kỷ luật công chức THADS với các hình thức: Kluật khiển trách
đối với Chấp hành viên trung cấp Chi cục THADS với do vi phạm các quy định
của pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án và phê bình trong cơ quan, phê
bình trong toàn ngành đối với một số cá nhân khác.
Như vậy cho thấy các sai phạm của cơ quan thi hành án trong quá trình thi
hành án. Tuy nhiên, Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh N đã căn cứ hồ thi hành
án vi phạm các quy định của pháp luật để thực hiện xác nhận trên trang 4
GCNQSDĐ đã cấp và cấp đổi GCNQSDĐ được thực hiện sau khi đã phát mại tài
sản hoàn thành, từ GCNQSDĐ số AC 701110, số AK 894879, số AO 332922 để
chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Á theo Quyết định về việc giao tài sản
cho người được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017 của Chi cục
thi hành án dân sự thành phố H là trái quy định của pháp luật.
Ngoài ra, bà Trần Thị K1 cũng có đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau ly
hôn với ông Trần Văn N tại Tòa án nhân dân thành phố H, trong đó tài sản là các
GCNQSDĐ số AC 701110, số AK 894879 số AO 332922. Trong vụ án này,
Ngân hàng Á người quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, tài sản đang
tranh chấp đang được Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc thẩm thì ngày
22/01/2020, Ngân hàng Á đã thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại
GCNQSDĐ số AC 701110, số AK 894879 và số AO 332922 cho bà Nguyễn Thị
B1, sinh năm 1972, trú tại C T, phường T, thành phố N, tỉnh H. Các Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thực hiện tại Phòng
công chứng số A tỉnh H. Với do nêu trên thì các Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa Ngân hàng Á và Nguyễn Thị B1 tại Phòng C1 tỉnh H
là vô hiệu.
Đối với các yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn N và các yêu cầu độc lập
của bà Trần Thị K1 là chính đáng, có căn cứ và phù hợp với pháp luật hiện hành.
Công ty T8 đề nghị Tòa án: Hủy Quyết định về việc cưỡng chế giao nhà, chuyển
giao quyền sử dụng đất số 10/QĐ- CCTHADS ngày 11/8/2017 của Chi cục
THADS thành phố N; Hủy Thông báo về việc cưỡng chế thi hành án số 223/TB-
THADS ngày 11/8/2017 của Chi cục THADS thành phố N; Nếu đề nghị của bên
Công ty T8 được Tòa án chấp nhận, Tòa án xem xét thẩm định giá tại chỗ để Công
ty T8 mua lại tài sản thế chấp theo giá trị thị trường hiện tại để công ty T8 hoàn
trả tài sản cho ông Trần Văn N và bà Trần Thị K1.
18
Nguyễn Thị B1 trình bày:
Ngân hàng Á đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với
đất tại số E H, phường Q, thành phố N cho bà Nguyễn Thị B1, Hợp đồng đã được
Phòng C thuộc Sở Tư pháp tỉnh H công chứng hợp pháp, bà B1 đã thực hiện đầy
đủ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất với nhà nước. Ngày 26/8/2020 Sở T
đã cấp GCNQSDĐ đất cho bà B1 theo đúng quy định của pháp luật. Do vậy yêu
cầu khởi kiện của ông N yêu cầu độc lập của bà K1 không căn cứ, làm
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà B1. Đề nghị Tòa án bác các yêu
cầu cầu của ông N và bà K1 và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại các đơn trình bày, đơn đề nghị, đơn yêu cầu độc lập, đơn yêu cầu độc
lập bổ sung quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án cấp thẩm, Trần Thị K1
trình bày:
Năm 2012, bà ông Trần Văn N đã thế chấp các i sản là 03 quyền sử
dụng đất và các tài sản gắn liền với đất tại số nhà E H, phường Q, thành phố N
01 quyền sử dụng đất thửa 24A, tờ 12.1 tại xóm G, M, xã M, thành phố N, tỉnh H
để đảm bảo cho khoản vay của Công ty T8 tại Ngân hàng Á.
Theo bản cam kết thế chấp ngày 05/01/2012 của và ông Trần Văn N với
Ngân hàng Á là thế chấp 135,7 m² đất và tài sản gắn liền với đất là nhà ở kết cấu
tường gạch, mái bê tông cốt thép, nền gạch men, nhà xây 2 tầng 1 tum, diện tích
340 m², các giấy tờ pháp lý là GCNQSDĐ số AC 701110, số AK 894879, số AO
332922.
Do Công ty T8 gặp khó khăn và không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ nên
Ngân hàng Á đã khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố H để yêu cầu Công ty
T8 trả nợ. Công ty T8 Ngân hàng Á đã thoả thuận được Tòa án ra Quyết
định công nhận sự thoả thuận vào ngày 04/5/2015.
Năm 2016, bà đã bỏ tiền giải chấp tài sản là 01 quyền sử dụng đất tại xóm
G xã M thành phố N. Sau đó Ngân hàng Á đã có đơn yêu cầu Chi cục T thi hành
một phần Quyết định của Tòa án. Công ty T8 người phải thi hành án theo Quyết
định thi hành án theo yêu cầu số 06/QĐ-CCTHADS ngày 09/11/2016 của Chi cục
THADS. Các tài sản phải thi hành án là: GCNQSDĐ số AC 701110, số AK
894879, số AO 332922. Ngày 24/11/2016, Chấp hành viên Chi cục THADS lập
Biên bản về việc xác minh điều kiện thi hành án.
Ngày 22/12/2016, Chấp hành viên Chi cục THADS ra Thông báo về kết
quả thẩm định giá tài sản số 71/TB-THADS. Ngày 22/5/2017, Chấp hành viên
Chi cục THADS ra Thông báo 161/TB-THADS về việc bán đấu giá không thành
lần 3. Ngày 23/5/2017, Ngân hàng Á Đơn đề nghị về việc nhận tài sản để trừ
vào tiền thi hành án, nhưng không nêu giá trị tài sản trừ vào tiền thi hành án.
Ngày 30/6/2017, Chấp hành viên Chi cục THADS ra Quyết định về việc giao tài
sản cho người được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS.
Ngày 10/7/2017, Đơn đăng mua tài sản với giá thị trường
4.200.000.000 đồng (Bốn tỷ hai trăm triệu đồng).
19
Ngày 17/7/2017, Chấp hành viên Chi cục THADS lập Biên bản về việc giải
quyết việc thi hành án với Ngân hàng Á. Biên bản nội dung: Ngân hàng Á
không đồng ý với đơn đăng mua tài sản của Trần Thị K1 ghi ngày 10/7/2017
với giá mua là 4.200.000.000 đồng. Đề nghị Chi cục THADS thành phố N xử lý
theo quy định của pháp luật”.
Ngày 11/8/2017, Chấp hành viên Chi cục T đã ra Thông báo về việc cưỡng
chế thi hành án số 223/TB-THADS với nội dung: Giao nhà, chuyển giao quyền
sử dụng đất tại: Số E H, phường Q, thành phố N, tỉnh H cho Ngân hàng thương
mại cổ phần Á. Tài sản gồm: Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất
diện tích 128,18 , thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12; thửa đất số 29, tờ bản đồ
số 13, tại số E H, phường Q, thành phố N, tỉnh H theo các GCNQSDĐ số AK
894879, số AO 332922.
Như vậy tài sản GCNQSDĐ số AC 701110 chưa thông báo cưỡng
chế. cũng đã có đơn khiếu nại đối với Thông báo về việc cưỡng chế thi hành
án số 223/TB-THADS Quyết định số 10/QĐ-CCTHADS đến Chi cục T, không
đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại bà tiếp tục khiếu nại đến Cục THADS tỉnh
N nhưng bị từ chối tiếp công dân.
Ngày 29/8/2017, Chi cục T công văn số 132/CV- CCTHADS gửi Sở Tài
nguyên và môi trường tỉnh N về việc cấp GCNQSDĐ cho Ngân hàng Á do nhận
tài sản cấn trừ nợ tại thửa đất số 4, 7, 8 tờ bản đồ số 12, và thửa thửa đất số 29 t
bản đồ số 13 tại số E H, phường Q, thành phố N.
Ngày 21/9/2017, Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh N đã công văn số
2499/STNMT-VPĐK với nội dung: Để đảm bảo quyền lợi cho Ngân hàng Á khi
việc phát mại quyền sử dụng đất chưa thành, Chi nhánh Văn phòng đăng đất
đai thành phố N thực hiện xác nhận trên trang 4 GCNQSDĐ đã cấp; Trong thời
hạn 03 năm kể từ ngày quyết định xử tài sản đảm bảo bất động sản, Ngân
hàng Á tiếp tục thực hiện việc phát mại quyền sdụng đất thực hiện cấp đổi
GCN theo quy định.
Việc cấp đổi GCNQSDĐ được thực hiện sau khi đã phát mại tài sản hoàn
thành. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, Chấp hành viên viên trung cấp Chi
cục THADS đã có hành vi vi phạm các quy định của pháp luật trong quá trình tổ
chức thi hành án. Ngày 02/5/2019, Cục THADS tỉnh N đã ban hành Quyết định
số 59/QĐ-CTHADS quyết định xử lý kỷ luật công chức THADS.
Như vậy cho thấy, hành vi của Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh N đã căn
cứ hồ sơ thi hành án vi phạm các quy định của pháp luật để “thực hiện xác nhận
trên trang 4 GCNQSDĐ đã cấp” và “cấp đổi GCNQSDĐ được thực hiện sau khi
đã phát mại tài sản hoàn thành” tGCNQSDĐ số AK 894879, số AO 332922
chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Á theo Quyết định về việc giao tài sản
cho người được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017 của Chi cục
THADS là trái quy định của pháp luật.
20
Ngoài ra, ngày 02/11/2017, bà đã có đơn đề nghị về việc sang tên đổi chủ
giấy chứng nhận quyền sdụng đất gửi UBND thành phố N, Phòng tài nguyên
môi trường, Văn phòng đăng ký đất đai thành phố N. Đồng thời, bà cũng có đơn
khởi kiện yêu cầu chia tài sản sau ly hôn với ông Trần Văn N, trong đó có tài sản
là GCNQSDĐ số AK 894879, số AO 332922. Trong vụ án này, Ngân hàng Á
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, tài sản đang tranh chấp và
đang được Tòa án nhân dân tỉnh H xét xử phúc thẩm thì ngày 22/01/2020, Ngân
hàng Á đã thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo GCNQSDĐ sAK
894879 số AO 332922 cho Nguyễn Thị B1, sinh năm 1972, trú tại C T,
phường T, thành phố N, tỉnh H. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tài sản gắn liền trên đất thực hiện tại Phòng công chứng số A tỉnh H.
Với do nêu trên thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Ngân hàng Á Nguyễn Thị B1 tại Phòng C1 tỉnh H hiệu. Việc Ngân
hàng Á chuyển nhượng cho bà B1 không biết nên đến ngày 17/02/2021 vẫn
đơn đính chính giá tiền xin mua lại tài sản có các đơn đề nghị ngăn chặn
không chuyển nhượng tài sản gửi đến các cơ quan chức năng.
K1 yêu cầu Tòa án: Tuyên bố Hành vi hành chính của Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh N về việc đăng ký biến động chuyển đổi quyền sử dụng Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 894879, do UBND thành phố N cấp ngày
05/11/2007, đăng ký sang tên cho Ông Trần Văn N tại Phòng tài nguyên và Môi
trường Thành phố T9 ngày 12/05/2010, tại số E H, phường Q, thành phố N.
Chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng TMCP Á ngày 10/11/2017 theo Quyết
định về việc giao tài sản cho người được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS ngày
30/6/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H là hành vi hành chính trái
pháp luật; Tuyên bHành vi hành chính của Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh N
về việc đăng ký biến động chuyển đổi quyền sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AO 332922, do UBND thành phố N cấp ngày 18/02/2009, đăng
sang tên cho Ông Trần Văn N tại Phòng tài nguyên và Môi trường Thành phố T9
ngày 12/05/2010 tại số E H, phường Q, thành phố N. Chuyển quyền sử dụng đất
cho Ngân hàng TMCP Á ngày 10/11/2017 theo Quyết định về việc giao tài sản
cho người được thi hành án số 01/QĐ-CCTHADS ngày 30/6/2017 của Chi cục
thi hành án dân sự thành phố H hành vi hành chính trái pháp luật; Hủy
GCNQSDĐ số AK 894879 được UBND thành phố N cấp ngày 05/11/2007, phần
xác nhận trên trang 4 GCN chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng thương mại
cổ phần Á ngày 10/11/2017; Hủy GCNQSDĐ số AO 332922 được UBND thành
phố N cấp ngày 18/02/2009, phần xác nhận trên trang 4 GCN chuyển quyền sử
dụng đất cho Ngân hàng thương mại cổ phần Á ngày10/11/2017; Hủy 02
GCNQSDĐ đã được Sở Tài nguyên môi trường tỉnh N cấp cho bà Nguyễn Th
B1 từ 02 Giấy chứng nhận quyền sdụng đất sAK 894879 và số AO 332922,
phần xác nhận trên trang 4 GCN chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng TMCP
Á ngày 10/11/2017.
UBND phường Q, thành ph N trình bày: Đ nghị tòa án giải quyết theo
quy định của pháp luật.
21
Tại Bản án Hành chính sơ thẩm số 06/2024/HC-ST ngày 24/7/2024, Tòa án
nhân dân tỉnh H đã quyết định:
Căn cứ Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 3 Điều 32; Điều 116; điểm a khoản
2 Điều 193; điểm b khoản 2 Điều 298; điểm e khoản 1 Điều 303; khoản 1 Điều
307; Điều 348; Điều 351 Luật tố tụng hành chính;
Căn cứ điểm k khoản 4 Điều 95; điểm k khoản 1 Điều 99; khoản 3 Điều 105;
khoản 1 Điều 167; khoản 1 Điều 168; Điều 188 Luật Đất đai năm 2013; Căn cứ
Điều 5; khoản 1 Điều 37 Nghị định 43/2014/NĐ-CP; Căn cứ điểm a khoản 1 Điều
17; Điều 19 Thông 23/2014/TT-BTNMT;Căn cứ khoản 1 Điều 10 Thông
24/2014/TT-BTNMT;
n cứ khoản 1 Điều 103; khoản 2 Điều 104 Luật Thi hành án dân sự 2008
(khoản 35; khoản 36 Điều 1 Luật SĐBS năm 2014)
Căn cứ khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số 326/2006/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Bác toàn b yêu cu khi kin ca ông Trần Văn N v vic yêu cu Tòa
án hy các Quyết định hành chính gm:
1.1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 701110 của UBND thành
phố N cấp ngày 12/7/2005, đối với phần xác nhận trên trang 4 về việc xác nhận
biến động chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á ngày
10/11/2017.
1.2. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 330743 của Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh N cấp ngày 26/8/2020 cho bà Nguyễn Thị Bích . Địa chỉ: C T,
phường T, thành phố N, tỉnh H.
2. Bác toàn bộ yêu cầu độc lập của bà Trần Thị K1 về vic yêu cu Tòa án
hy các Quyết định hành chính gm:
2.1. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 894879 của UBND thành
phố N cấp ngày 05/11/2007, đối với phần xác nhận trên trang 4 về việc xác nhận
biến động chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á ngày
10/11/2017.
2.2. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 332922 của UBND thành
phố N cấp ngày 18/02/2009, đối với phần xác nhận trên trang 4 về việc xác nhận
biến động chuyển quyền sử dụng đất cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á ngày
10/11/2017.
2.3. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 330699 của Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh N cấp ngày 26/8/2020 cho bà Nguyễn Thị Bích . Địa chỉ: C T,
phường T, thành phố N, tỉnh H.
2.4. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CU 330744 của Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh N cấp ngày 26/8/2020 cho bà Nguyễn Thị Bích . Địa chỉ: C T,
phường T, thành phố N, tỉnh H.
22
3. Về án phí: Ông Trần Văn N, bà Trần Thị K1 mỗi người phải chịu 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng án phí hành chính sơ thẩm. Số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng ông Trần Văn N đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0005670 ngày
23/11/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh H số tiền tạm ứng án phí 300.000
(ba trăm nghìn) đồng Trần Thị K1 đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0005733 ngày
09/4/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh H đều được đối trừ.
Bản án còn thông báo quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 03/8/20224, ông Trần Văn N đơn kháng cáo đề nghị Tòa án cấp
phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm.
Ngày 07/8/2024, Trần Thị K1 đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, đnghị
Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại..
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ông Trần Văn N giữ nguyên kháng cáo, trình bày quan điểm cho rằng Tòa
án cấp thẩm đã nhiều vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; về nội dung
giải quyết không đúng quy định và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo
của ông và xem xét kháng cáo của K1 theo đúng quy định của pháp luật.
Đại diện Ngân hàng Á trình bày giữ nguyên các ý kiến tại Tòa án cấp
thẩm đề nghị không chấp nhận kháng cáo của ông N, K1 và giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội phát biểu ý kiến về
việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm đã
được thực hiện đúng quy định.; xác định việc giải quyết vụ án đã đảm bảo đúng
quy định của pháp luật, không vi phạm về thủ tục tố tụng và nội dung nên đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân
sự, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả thẩm
tra chứng cứ và tranh tụng tại phiên tòa; sau khi thảo luận và nghị án;
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Tòa án nhân dân tnh H th gii quyết yêu cu khi kin ca ông
Trần Văn N yêu cầu độc lp ca Trn Th K1 đúng quy định ti khon 1, 2,
3, 4 Điều 3; khoản 1 Điều 30; khoản 3 Điều 32; điều 116 Lut T tng hành chính;
đã xác định đúng và đầy đủ đương sự trong v án.
V yêu cu khi kin ca ông N, yêu cầu độc lp ca bà K1:
Năm 2010 ông Trần Văn N nhn chuyển nhượng quyn s dụng đất tài sn
trên đất có địa ch ti s nhà E H ca 3 ch s hu s dng (các ch s dng này
đều được UBND thành phố N cấp GCNQSD đất và quyn s hu nhà :
GCNQSDĐ số AC 701110 cấp ngày 12/7/2005; GCNQSDĐ số AK 894879 cấp
ngày 05/11/2007) và việc chuyển nhượng này đã được xác nhận biến động đứng
23
tên ông N trên trang 4 của các GCNQSD nêu trên. Năm 2011 ông kết hôn với bà
K1 (năm 2013 thuận tình ly hôn). Năm 2012, ông N và vợ là K1 cùng ký hợp
đồng thế chấp tài sản nhà quyền sử dụng đất tại nhà số E H cho Ngân hàng
Á sau đó do Công ty T8 vi phạm nghĩa vụ, nên tài sản bảo đảm đã được
quan Thi hành án giao cho Ngân hàng Á. Cùng ngày 17/10/2017, Sở TNMT tỉnh
N đã xác nhận biến động tại trang 4 của cả 3 GCNQSDĐ cho N2; sau đó NH đã
chuyển nhượng toàn bộ đất và nhà trên đất theo 3 GCN nêu trên cho Nguyễn
Thị B1 B1 được S Tài nguyên Môi tng cấp mới 3 GCNQSD đất
cùng ngày 26/8/2020 (Giy chng nhn quyn s dụng đất s CU 330699, CU
330743 và CU 330744).
Ông N khi kin yêu cu Toà án tuyên b hành vi hành chính trái pháp lut về
việc xác nhận biến động trên trang 4 GCNQSDĐ số AC 701110, đồng thời u
cầu hủy phần xác nhận trên trang 4 GCN này; K1 yêu cu Toà án tuyên b
hành vi hành chính trái pháp lut về việc xác nhận biến động trên trang 4
GCNQSDĐ số AK 894879 số AO 332922, đồng thời yêu cầu hủy phần xác
nhận trên trang 4 của hai GCN này. Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông N và bà K1
đều yêu cầu Tòa án vừa tuyên bố hành vi hành chính trái pháp luật vviệc xác
nhận trên trang 4, vừa yêu cầu hủy phần xác nhận trên trang 4 của GCNQSDĐ -
trùng nhau; thực chất thì hai yêu cầu này chlà yêu cầu huỷ phần xác nhận biến
động trên trang 4 của các GCNQSDĐ. Do vậy, Toà án cấp sơ thẩm xem xét, giải
quyết yêu cầu khởi kiện (yêu cầu huỷ phần xác nhận biến động trên trang 4 của 3
GCNQSDĐ nêu trên) theo điểm a, b Khoản 3 Điều 191 Luật Tố tụng hành chính,
là đúng.
Trần Thị K1 có yêu cầu khác (yêu cầu Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
H thực hiện việc xác định tài sản theo GCNQSDĐ số AC 701110 tại số E H,
phường Q, TP N, từ đó thẩm định giá theo giá thị trường hiện tại để bà nộp tiền
nhận lại tài sản); Đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH T8 cũng đưa ra
các yêu cầu khác (đề nghị Toà án: Huỷ Quyết định về việc cưỡng chế giao nhà,
chuyển giao quyền sử dụng đất số 10/QĐCCTHADS ngày 11/8/2017 của Chi cục
Thi hành án dân sự thành phố H; Huỷ Thông báo về việc cưỡng chế thi hành án
số 223/TB-THADS ngày 11/82017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H;
nếu đnghị của Công ty được chấp nhận thì đề nghị Toà án xem xét thẩm định
giá tại chỗ để Công ty T8 thực hiện nghĩa vụ mua lại tài sản thế chấp theo giá trị
thị trường hiện tại để Công ty hoàn trả tài sản cho ông Trần Văn N Trần
Thị K1) theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính, các yêu
cầu này đều không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính chính, do vậy Tòa
án cấp sơ thẩm không xem xét giải quyết là đúng.
Văn bn s 2494//STNMT-VPĐK ngày 21/9/2017 của S Tài nguyên
Môi trường tnh N: Tòa án cấp thẩm xác định không phải là Văn bản hành
chính liên quan đến Quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện nên
không xem xét giải quyết là đúng quy định của Luật tố tụng hành chính.
[1.2] Kháng cáo của ông N, của bà K1 hợp lệ.
24
[2] Về nội dung kháng cáo của ông Trần Văn N, bà Trần Thị K1:
[2.1] Về diện tích đất cấp tại 3 GCNQSD của số nhà E H (bao gồm diện tích sử
dụng chung và diện tích sử dụng riêng): Diện tích cấp tại 03 GCNQSD đất đứng
tên 3 chủ sử dụng trước đây và sau này được điều chỉnh biến động sang cho ông
N năm 2010; năm 2017 điều chỉnh biến động sang cho Ngân hàng và sau đó cấp
mới vào năm 2020 cho bà B1) - đều không có sự thay đổi.
[2.2] Tại Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
của người thứ ba ký ngày 05/01/2012, vợ chồng ông Trần Văn N Trần Thị
K1 thế chấp tài sản tại địa chỉ E H, phường Q, thành phố N 3 thửa đất, nhà
trên đất (tài sản thế chấp đã 3 GCNQSDĐ số AC 701110; số AK 894879; số
AO 332922) cho Ngân hàng Á để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho Công ty T8 (trụ
sở tại 51 H) do ông Trần Văn N là Giám đốc.
Tại bản Cam kết thế chấp đề ngày 05/01/2012 ông N K1 đều cam kết:
... tài sản thế chấp thửa đất ngắn liền với đất tại 51 H (diện tích đất
135,7m2, nhà xây có 2 tầng 1 tum diện tích 340m2) có giấy tờ 3 GCNQSDĐ
số AC 701110; số AK 894879; số AO 332922; cam kết thế chấp toàn bộ diện tích
đất, diện tích y dựng trên; Khi xử tài sản thế chấp nếu diện tích đất, diện tích
xây dựng được thế chấp thay đổi bất cứ do (lớn hơn hoặc nhỏ hơn)….thì
Ngân hàng hoặc cơ quan có thẩm quyền có toàn quyền xử lý tài sản thế chấp để
thu hồi nợ…;
Công ty T8 không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng Á đã khởi
kiện. Tại Tòa án, hai bên xác nhận Công ty T8 còn nợ Ngân hàng Á tổng các
khoản tiền gốc, lãi, lãi phạt, lãi qhạn 9.272.295.741 đồng thỏa thuận
trường hợp Công ty T8 vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì Ngân hàng Á quyền
yêu cầu cơ quan Thi hành án phát mại tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp để
thu hồi nợ (Quyết định Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số
07/2015/QĐST-KDTM ngày 04/6/20150).
Quá trình thi hành án, bà K1 thanh toán 480 triệu đồng nên đã được Ngân
hàng giải chấp trả lại GCNQSD thửa đất tại xóm G, M, thành phố N, khoản
còn lại Công ty T8 không trả được nên ngày 09/11/2016 Ngân hàng Á đã nộp Đơn
yêu cầu Thi hành án theo Quyết định của Tòa án để thu hồi nợ.
Chi cục THADS Quyết định thi hành án đối với Công ty T8; đã tiến hành
các thủ tục xác minh điều kiện thi hành án, Quyết định số 02/QĐ-về việc cưỡng
chế kê biên, xử lý tài sản tại địa chỉ tại số E H của ông N và K1 để đảm bảo thi
hành án, Thông báo số 45/TB-THADS về việc cưỡng chế thi hành án; ngày
09/12/2016 đã lập Biên bản kê biên xử lý tài sản (Ông N và bà K1 đã được thông
báo hợp lệ nhưng đều vắng mặt không do) tiến hành thẩm định giá tài
sản; sau đó có Thông báo về kết quả thẩm định giá tài sản đối với tài sản là giá trị
quyền sử dụng đất và giá trị nhà tại sE H (tổng trị giá nhà đất được thẩm định
giá là 6,16 tỷ đồng) - cũng đã tống đạt hợp lệ cho các bên đương sự.
Chi cục THADS ký Hợp đồng bán đấu giá với Công ty CP D2, tài sản bán
25
đấu giá giá trquyền sdụng đất công trình xây dựng trên đất tại số E H;
qua 3 lần đấu giá không thành (không có khách hàng mua), Ngân hàng Á đề nghị
được nhận lại tài sản là toàn bộ ngôi nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất tại số E H.
Ngày 23/5/2017 Chi cục T ra Thông báo số 164/TB-THADS gửi ông N và K1
về việc Ngân hàng Á đồng ý nhận các tài sản đã biên đtrừ vào số tiền được
thi hành án; tài sản gồm: Toàn bộ ngôi nhà 3 tầng quyền sử dụng đất diện
tích 128.18 , tại số E H, phường Q, thành phố N.
Ngày 30/6/2017, Chi cục THADS ra Quyết định số 01/QĐ-CCTHADS về
việc giao tài sản cho người được thi hành án là Ngân hàng Á.
Tại các Quyết định giao tài sản cho người được thi hành án và Quyết định
cưỡng chế giao nhà, chuyển quyền sử dụng đất đều ghi: Giao nhà, chuyển
quyền sử dụng đất tại số E H cho Ngân hàng Á. Tài sản gồm: Toàn bộ ngôi nhà 3
tầng và quyền sử dụng đất có diện tích 128.18 m², tại sE H theo các GCNQSDĐ
số AC701110, số AK 894879, số AO 332922.
Ngày 17/7/2017 Chi cục T11 nhận được đơn đăng ký xin mua lại tài sản tại
E H với giá đề nghị 4,2 tỷ của K1 (đơn đề ngày 10/7/2027), nhưng không
được Ngân hàng Á nhất trí bán cho bà với giá này.
Thông báo cưỡng chế số 223/TB-THA ngày 11/8/2017 của Chi cục T11 đã
ghi căn cứ Quyết định số 10 nêu trên và ghi tài sản cưỡng chế giao là tài sản thế
chấp tại địa ch E H (gồm căn nhà 3 tầng và quyền sử dụng đất diện tích
128,18m
2
thửa đất số 4,7,8 tbản đồ số 12 thửa 29 tờ bản đsố 13) nhưng
phần ghi các GCNQSD đất chỉ ghi 2 GCNQSD đất, thiếu GCNQSDĐ số
AC701110, là do lỗi đánh máy thiếu.
Ngày 22/8/2017, Chi cục T cùng đại diện các quan liên quan đã thực
hiện cưỡng chế bàn giao tài sản cho Ngân hàng Á. Các Ông N và bà K1 đã được
thông báo hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do.
Ông N, bà K1 cho rằng chưa bàn giao tài sản là GCNQSDĐ số AC 701110;
cho rằng tự hợp ba thửa đất dẫn đến xác định sai diện tích và không nêu rõ giá tr
tài sản để trừ vào tiền thi hành án,...nhưng không có chứng minh.
Với các lý do trên, bản án sơ thẩm đã xác định Chi nhánh Văn phòng Đăng
đất đai thành phố N xác nhận biến động trên trang 4 chuyển quyền sử dụng đất
từ tên ông Trần Văn N sang tên cho Ngân hàng Á theo các GCNQSDĐ số AC
701110, sAK 894879, số AO 332922 đúng quy định vthẩm quyền, trình
tự, thủ tục, có căn cứ về nội dung - từ đó không chấp nhận yêu cầu khởi kiện (về
việc hủy phn xác nhn biến động trên trang 4 đối với các GCNQSDĐ số AC
701110; số AK 894879; số AO 332922 về việc chuyển đổi quyền sử dụng đất từ
tên ông Trần Văn N cho Ngân hàng Á ngày 10/11/2017), là có căn cứ.
Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn
N và kháng cáo của bà Trần Thị K1.
[2.3] Do vic xác nhn biến động trên trang 4 GCNQSDĐ số AC 701110
ngày 10/11/2017 cho Ngân hàng Á căn cứ, đúng pháp luật nên S Tài nguyên
26
Môi trường tnh N văn bản Văn bn s 3734/STNMT-VPĐK ngày
02/12/2020 tr li khiếu ni ca ông Trần Văn N, là đúng.
[2.4] V yêu cu hy 03 GCNQSD đất ngày 26/8/2020 do S T cp cho bà
Nguyn Th B1:
- Ngân hàng đã được cơ quan Thi hành án bàn giao tài sản và đã đứng tên
trong 3 GCNQSD đất, nên có quyền chuyển nhượng tài sản.
Ngày 22/01/2020, Ngân hàng Á đã ký 03 Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất tài sản gắn liền với đất tại số 51 Hàng tiện cho bà Nguyễn Thị Bích
. Bà B1 đã nộp các hồ sơ đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền với đất và đề
nghị cấp mới GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất.
Các hồ cấp đều có: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tài sản
gắn liền với đất giữa Ngân hàng TMCP Á chuyển nhượng cho Nguyễn Thị B1
đã được Phòng C tỉnh H công chứng ngày 22/01/2020; Đơn đăng biến động
đất đai, tài sản gắn liền với đất ngày 22/01/2020 ý kiến xác nhận của Chi nhánh
Văn phòng Đăng đất đai thành phố N; Đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi GCNQSDĐ,
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất ngày 22/01/2020 ý kiến
xác nhận của Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai thành ph N Văn phòng
Đăng ký đất đai tỉnh N; Bản gốc các GCNQSDĐ số AC 701110, số AO 332922
và GCNQSD số AC 701110 tại trang 4 các GCN đã xác nhận biến động đứng tên
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á ngày 10/11/2017.
- Thc tế t năm 2013, K1 và ông N đã ly hôn. Đến năm 2017 sau Thi
hành án x lý tài sn thế chp ti s nhà E H và nhà đất ti E H đã được giao cho
Ngân hàng NH đã được cấp GCNQSD đất (3 GCNQSD), bà K1 mới đơn
yêu cu chia tài sn chung sau ly hôn vi ông N, c bà K1 ông N đều xác
định có tài sn chung ti 51 Hàng Hiu do ông N đứng tên ti 3 GCNQSD và đều
đề nghị giao cho ông N 2 GCNQSD đất số AK 894879, số AO 332922 và cho bà
K1 GCNQSD số AC 701110. Tại bản án dân sự thẩm số 631/DS-ST ngày
20/11/2019 của TAND thành phố H đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
K1 về việc yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất tại 51 Hàng tiện với do: Tài sản đã thuộc quyền sử dụng, sở hữu hợp
pháp của Ngân hàng Á; Bản án dân sự phúc thẩm số 17/2020/DS-PT ngày
04/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh H (bản án hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị) đã giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Như vậy, đủsở xác định: Việc chấp nhận đăng ký biến động cấp lại
GCNQSD đất nêu trên đúng quy định tại Điều 103 Luật Thi hành án dân sự 2008
(SĐBS năm 2014) và Khoản 3 Điều 132 Luật Các Tổ chức tín dụng. Do vậy, Sở
T đã cấp các Giy chng nhn quyn s dụng đt, quyn s hu nhà và tài sn
khác gn lin với đất s CU 33074, CU 330699 CU 330744 cho Nguyn
Th Bích L1 đảm bảo về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, đúng nội dung quy định tại
điểm k khoản 1 Điều 99; khoản 3 Điều 105 luật Đất đai năm 2013; khoản 1 Điều
37 Nghị định 43/2014/NĐ-CP; khoản 1 Điều 10 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT.
Trong quá trình xem xét cấp GCNQSDĐ cho B1, Sở T không nhận được bất
27
kỳ văn bản nào của quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai về việc
đã tiếp nhận đơn đề nghị giải quyết tranh chấp đất đai nên không có căn cứ để từ
chối hồ sơ cấp GCNQSDĐ theo quy định tại khoản 11 Điều 7 Thông tư
33/2017/TT-BTNMT.
Bản án thẩm đã bác yêu cầu khởi kiện của ông N yêu cầu độc lập của
K1, là có căn cứ.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông N đưa ra một stài liệu mới (trong đó
văn bản số 174 ngày 08/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự,...), nhưng các tài
liệu này cũng không đủ cơ sở xem xét.
[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Trần Văn N, Trần Thị
K1 phải chịu án phi phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241, khoản 1 Điều 349 Luật Tố tụng hành chính; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí lệ
phí Tòa án:
1. Bác kháng cáo của ông Trần Văn N, Trần Thị K1 giữ nguyên quyết
định của Bản án hành chính sơ thẩm số 06/2024/HC-ST ngày 24/7/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh H.
2. Án phí hành chính phúc thẩm: Ồng Trần Văn N phải chịu 300.000 đồng,
được trừ tạm ứng án phí 300.000 đồng tại biên lai số ngày 0005772 ngày
13/8/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh H. Bà Trần Thị K1 phải chịu 300.000
đồng, được trừ tạm ứng án phí 300.000 đồng tại biên lai số ngày 0005773 ngày
13/8/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh H.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 22/11/2024.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh H;
- VKSND tỉnh H;
- Cục THADS tỉnh H.
- Lưu hồ sơ vụ án, TANDCC.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Phan Thị Vân Hương
28
Tải về
Bản án số 624/2024/HC-PT Bản án số 624/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 624/2024/HC-PT Bản án số 624/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất