Bản án số 599/2024/HCPT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 599/2024/HCPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 599/2024/HCPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 599/2024/HCPT
Tên Bản án: | Bản án số 599/2024/HCPT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 599/2024/HCPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/10/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | quyết định hành chính |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 599/2024/HC-PT
Ngày 30/10/2024
V/v khiếu kiện quyết định hành chính và
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Đoàn;
Các Thẩm phán: Ông Phùng Hải Hiệp
Ông Nguyễn Nam Thành
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Nhạn, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Hà Nội.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Bà Hoàng Thị Hải- Kiểm
sát viên.
Ngày 30 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét
xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 290/2024/TLPT-HC ngày 12
tháng 7 năm 2024 về việc “khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản bản án hành chính sơ thẩm số: 37/2024/HC-ST ngày 15 tháng 5 năm
2024 của Toà án nhân dân thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 11269/2024/QĐ-PT ngày
15 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Bùi Thị T, sinh năm 1980; nơi cư trú: Thôn 4, xã N,
huyện T
1
, thành phố H. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Đỗ Đức K - Luật sư Chi
nhánh Công ty Luật TNHH Quốc tế D tại H; địa chỉ: Số 2, ngõ 69, tổ dân phố số 1,
thị trấn A, huyện A
1
, thành phố H; là người đại diện theo ủy quyền của người khởi
kiện (Hợp đồng ủy quyền ngày 10 tháng 11 năm 2023 và Quyết định về việc cử luật
sư tham gia tố tụng ngày 10 tháng 11 năm 2023). Có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H; địa chỉ: Số 5 Đ, thị
trấn N
1
, huyện T
1
, thành phố H.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Đinh Chính Q - Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H, là người đại diện theo ủy quyền của người
2
bị kiện (Văn bản ủy quyền ngày 10 tháng 01 năm 2024). Vắng mặt và có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 14 tháng 11 năm 2023, đơn khởi kiện bổ sung đề
ngày 14 tháng 12 năm 2023 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
tòa sơ thẩm, người khởi kiện và người đại diện hợp pháp của người khởi kiện thống
nhất trình bày:
Năm 1998, bố đẻ của bà Bùi Thị T là ông Bùi Khắc M nhận chuyển nhượng
của bà Trần Thị N
2
thửa đất số 15, tờ bản đồ số 08, địa chỉ tại thôn 1, xã N, huyện T
1
,
thành phố H với diện tích khoảng 80m
2
để bán hàng và sinh sống. Sau đó, ông M đã
tặng cho mảnh đất trên cho bà T và em gái là Bùi Thị H
1
mỗi người khoảng 40m
2
.
Năm 2022, Ủy ban nhân dân huyện T
1
thực hiện việc thu hồi đất để thực hiện Dự án
đầu tư cải tạo đường tỉnh 359 (trong đó có đoạn qua địa phận xã N). Theo đó thửa đất
của gia đình bà T bị thu hồi 37,4m
2
, bao gồm cả phần đất mà bà T và bà H
1
đang sử
dụng; hiện tại diện tích còn lại mà bà T được sử dụng là khoảng hơn 20m
2
. Việc Ủy
ban nhân dân huyện T
1
ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi
đất và phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ nhưng chỉ ghi tên bà Bùi Thị H
1
là
không đúng quy định của pháp luật vì trong diện tích đất bị thu hồi có một phần
thuộc quyền sử dụng của bà T.
Do đó, ngay sau khi nhận được quyết định cưỡng chế thu hồi đất của Ủy ban
nhân dân huyện T
1
, bà T đã có đơn gửi Ủy ban nhân dân xã N
và Ủy ban nhân dân
huyện T
1
đề nghị cấp đất tái định cư. Theo thông báo về việc bốc thăm cấp đất tái
định cư lần hai do Ủy ban nhân dân xã N ban hành thì bà T có tên trong danh sách
các hộ dân được bốc thăm. Tuy nhiên, ngày 22 tháng 12 năm 2022, bà T được cán bộ
địa chính xã N giao Thông báo số 577/TB-UBND ngày 25 tháng 9 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân huyện T
1
, trong đó có nội dung bà Bùi Thị T không được giao đất tái
định cư. Việc ban hành thông báo nêu trên của Ủy ban nhân dân huyện T
1
đã làm ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Bùi Thị T. Vì vậy, bà T khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy một phần Thông báo số 577/TB-UBND ngày 15 tháng 9 năm 2022 của
Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H về kết quả xét duyệt giao đất ở vào khu tái
định cư của Dự án đầu tư cải tạo đường tỉnh 359 đoạn từ xã T
3
đến đường trục giao
thông khu đô thị và công nghiệp B, qua địa phận xã N đối với bà Bùi Thị T.
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H giao cho bà Bùi Thị T 01 lô
đất tái định cư là đất ở có thu tiền sử dụng đất.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện có ý kiến trình bày:
Theo sổ mục kê năm 1985 và bản đồ giải thửa 299, thửa đất bị thu hồi của
hộ bà H
1
có nguồn gốc là một phần của thửa đất số 622, tờ bản đồ số 04, địa chỉ tại
thôn 1, xã N, huyện T
1
, thành phố H; thửa đất trên có tổng diện tích là 2.760m
2
;
chủ sử dụng ruộng đất ghi “nhà đạm”, loại ruộng đất là “kiến thiết” - là đất xây
3
dựng cơ bản do Ủy ban nhân dân xã N quản lý. Năm 2021, khi Ủy ban nhân dân
huyện T
1
tiến hành thu hồi đất đã xác định người đang trực tiếp sử dụng đất là hộ
bà Bùi Thị H
1
. Do diện tích đất mà hộ bà H
1
sử dụng là đất hành lang giao thông,
không được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, khi lập phương án
bồi thường, hỗ trợ, hộ bà H
1
không được bồi thường, hỗ trợ về đất, chỉ được hỗ trợ
vật kiến trúc trên đất theo Công văn số 601/UBND-TH ngày 29 tháng 4 năm 2016
của Ủy ban nhân dân thành phố H.
Theo Báo cáo kết quả rà soát, đề xuất giao đất ở vào khu tái định cư đối với
các hộ gia đình để thực hiện Dự án đầu tư cải tạo đường tỉnh 359 thì trên thửa đất
bị thu hồi có năm nhân khẩu đăng ký thường trú và ăn ở trên đất gồm ông Trần
Minh L (là chủ hộ), bà Bùi Thị H
1
(là vợ) và các con là Trần Minh C, Trần Minh
A
2
và Trần Duy Q
1
. Qua xác minh, ngoài thửa đất bị thu hồi, hộ bà H
1
không còn
nhà ở, đất ở nào khác trên địa bàn xã N; vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 79 của
Luật Đất đai, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của Dự án đã xét duyệt
giao một lô đất ở có thu tiền sử dụng đất cho hộ bà H
1
. Đối với trường hợp của hộ
bà Bùi Thị T, bà T cùng chồng và các con đăng ký thường trú tại thôn 4, xã N,
huyện T
1
, thành phố H; không ăn ở tại thửa đất bị thu hồi. Vì vậy, Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư của Dự án không có cơ sở để giao cho bà T một lô
đất có thu tiền sử dụng đất.
Từ những căn cứ trên, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà Bùi Thị T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 37/2024/HC-ST ngày 15 tháng 5 năm 2024
về việc khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai của Toà án nhân dân thành phố H, đã quyết định;
Căn cứ vào các điều 30, 32, 116, 157, 162, 163, 187, 193, 194, 206 và 348 của
Luật Tố tụng hành chính;
Các điều 62, 66, 75, 79, 100 và 101 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 18 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất;
Xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị T về các nội dung sau:
- Hủy một phần Thông báo số 577/TB-UBND ngày 15 tháng 9 năm 2022 của
Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H về kết quả xét duyệt giao đất ở vào khu tái
định cư của Dự án đầu tư cải tạo đường tỉnh 359 đoạn từ xã T
3
đến đường trục giao
thông khu đô thị và công nghiệp B, qua địa phận xã N đối với bà Bùi Thị T.
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H giao cho bà Bùi Thị T một
lô đất tái định cư là đất ở có thu tiền sử dụng đất.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/5/2024 người khởi kiện bà Bùi Thị T kháng cáo yêu cầu Toà án cấp
4
phúc thẩm huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố H và yêu cầu
UBND huyện T
1
, thành phố H căn cứ theo quy định của pháp luật và tình hình thực tế
của bà và gia đình hỗ trợ, tạo điều kiện để bà và gia đình được nhận 01 (một) lô đất
tái định cư có thu tiền sử dụng đất.
Tại phiên toà phúc thẩm: Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề
nghị HĐXX phúc thẩm huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp
sơ thẩm giải quyết lại vụ án vì Toà án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng và đánh giá chứng cứ trong vụ án không toàn diện.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên toà:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán và Hội
đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính. Đối với
những người tham gia tố tụng: Các đương sự có mặt từ khi thụ lý đến thời điểm hiện
nay đều đã chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đơn kháng cáo của người kháng cáo làm trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm
ứng án phí hành chính phúc thẩm nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành
chính, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bà Bùi Thị T; giữ nguyên bản án sơ
thẩm của Toà án nhân dân thành phố H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa; căn
cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử
(viết tắt HĐXX) nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của người kháng cáo làm trong hạn luật định và
đã nộp tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm nên được xem xét theo thủ tục phúc
thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm vắng mặt người bị kiện không có kháng cáo đã được
Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ ý
kiến của các đương sự có mặt và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Hà Nội, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính.
[2] Xét đơn kháng cáo của người kháng cáo về việc: yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố H, vì cho rằng Toà
án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và đánh giá chứng cứ không
khách quan, toàn diện.
Về đối tượng khởi kiện, quyền khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thời hiệu
khởi kiện Toà án nhân dân thành phố H đã xác định đối tượng khởi kiện, thời hiệu
khởi kiện đúng theo quy định tại các tại khoản 1 Điều 30 và khoản 4 Điều 32; khoản
1 Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[3] Về thẩm quyền, trình tự thủ tục ban hành các quyết định hành chính bị kiện:
5
Thực hiện Dự án đầu tư cải tạo tỉnh lộ 359 đoạn từ xã T
3
đến trục đường giao
thông Khu đô thị và công nghiệp B huyện T
1
, thành phố H (đoạn qua địa phận xã T
3
và xã N)
Căn cứ vào: khoản 4 Điều 11 Luật đất đai năm 2013. khoản 2 Điều 3; khoản
1, khoản 3 Điều 22; điểm a khoản 2 Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật đất đai. Khoản 1 Điều
6 của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về quy định về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Để ban hành Thông báo số 577/TB-UBND ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H về kết quả xét duyệt giao đất ở vào khu tái định
cư của Dự án đầu tư cải tạo đường tỉnh 359 đoạn từ xã T
3
đến đường trục giao thông
khu đô thị và công nghiệp B, qua địa phận xã N đối với bà Bùi Thị T là đảm bảo
đúng về trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Xét về nguồn gốc diện tích đất bị thu hồi: Theo Sổ mục kê năm 1985 và bản đồ
giải thửa số 299 hiện đang lưu giữ tại Ủy ban nhân dân xã N, diện tích đất mà hộ bà
Bùi Thị H
1
bị thu hồi là một phần của thửa số 622, tờ bản đồ số 04, thôn 1, xã N,
huyện T
1
, thành phố H ghi tên chủ sử dụng là “Nhà đạm”; thửa đất có tổng diện tích
là 2.760m
2
; loại đất “kiến thiết” - là đất công do Ủy ban nhân dân xã N quản lý. Quá
trình giải quyết vụ án, tuy bà T cho rằng thửa đất này do bố đẻ của bà là ông Bùi
Khắc M nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị N
2
nhưng không xuất trình được tài
liệu, chứng cứ chứng minh ông M hoặc bà N
2
là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất
này.
Ngày 26 tháng 5 năm 2020, Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết
định số 1312/QĐ-UBND về việc phê duyệt bổ sung (lần 1) kế hoạch sử dụng đất năm
2020 huyện T
1
. Để triển khai thực hiện quyết định trên của Ủy ban nhân dân thành
phố H, Ủy ban nhân dân huyện T
1
đã ban hành Quyết định số 2488/QĐ-UBND ngày
14 tháng 5 năm 2021 với nội dung thu hồi diện tích 3.848,1m
2
đất của 112 hộ gia
đình, cá nhân có nguồn gốc là đất công do Ủy ban nhân dân xã N quản lý để thực
hiện Dự án đầu tư cải tạo đường tỉnh 359 (trong đó hộ bà Bùi Thị S (Bùi Thị H) bị
thu hồi 37,4m
2
. Diện tích đất bị thu hồi có vị trí tại thửa số 15, tờ bản đồ số 08, thôn
1, xã N, huyện T
1
, thành phố H (theo Bản trích đo địa chính số 03, tỷ lệ 1/500 do
Trung tâm Kỹ thuật - Dữ liệu, Thông tin tài nguyên và môi trường lập, được Sở Tài
nguyên và Môi trường thẩm định ngày 23 tháng 12 năm 2020). Việc thu hồi đất với
mục đích cải tạo đường tỉnh 359 là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 62 của Luật
Đất đai năm 2013.
Do xác định diện tích đất mà hộ bà H
1
đang sử dụng là đất công thuộc phạm
vi bảo vệ đường giao thông. Vì vậy, khi lập phương án bồi thường, hỗ trợ, Ủy ban
nhân dân huyện T
1
không bồi thường, hỗ trợ về đất; chỉ bồi thường, hỗ trợ vật kiến
trúc trên đất theo Công văn số 601/UBND-TH ngày 29 tháng 4 năm 2016 của Ủy ban
nhân dân thành phố H với tổng số tiền là 108.684.201 đồng. Bà Bùi Thị H
1
đã nhận
đủ số tiền trên và không có thắc mắc, khiếu nại gì về số tiền bồi thường, hỗ trợ; đồng
6
thời đã tự nguyện bàn giao đất để thực hiện Dự án.
Sau khi ban hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ, do phát hiện có sai sót về tên chủ sử dụng đất. Vì vậy, ngày 05
tháng 8 năm 2022, Ủy ban nhân dân huyện T
1
ban hành Quyết định số 12791/QĐ-
UBND về việc đính chính tên tại danh sách kèm theo quyết định thu hồi đất và quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ với nội dung: Đính chính tên “Bùi Thị S
(Bùi Thị H)” tại danh sách ban hành kèm theo Quyết định số 2488/QĐ-UBND ngày
14 tháng 5 năm 2021 và tại danh sách ban hành kèm theo Quyết định số 2489/QĐ-
UBND ngày 14 tháng 5 năm 2021 của Ủy ban nhân dân huyện T
1
thành “Bùi Thị H”.
Việc đính chính tên chủ sử dụng đất không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất có đất bị thu hồi.
- Căn cứ Khoản 1 Điều 79 của Luật Đất đai năm 2013: Khi Nhà nước thu hồi
đất ở, điều kiện để hộ gia đình, cá nhân được bồi thường về đất là phải có đủ điều
kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 và không
còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất thu hồi.
Đối với trường hợp của bà Bùi Thị T, hồ sơ vụ án thể hiện bà T không có một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100, Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013 và
hướng dẫn tại Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Chính phủ để chứng minh mình là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất bị thu hồi và có
đủ điều kiện được bồi thường về đất.
Căn cứ Khoản 2 Điều 79 của Luật Đất đai năm 2013: Theo thông tin do Công
an xã N cung cấp, bà T đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn 4, xã N, huyện T
1
, thành
phố H; trước thời điểm Ủy ban nhân dân huyện T
1
ban hành thông báo thu hồi đất
vào tháng 10 năm 2020, không có thông tin bà Bùi Thị T ăn ở, sinh hoạt ở hộ nào
khác. Theo Báo cáo số 76/BC-TNMT ngày 17 tháng 8 năm 2022 của Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện T
1
về việc rà soát, đề xuất giao đất ở vào khu tái định
cư đối với các hộ gia đình, cá nhân có đất bị thu hồi thực hiện Dự án đầu tư cải tạo
đường tỉnh 359 thì tại thời điểm thu hồi đất, trên đất có năm nhân khẩu ăn ở gồm ông
Trần Minh L (là chủ hộ), bà Bùi Thị H
1
(là vợ ông L) và các con là Trần Minh C,
Trần Minh A
2
và Trần Duy Q
1
.
Toà án cấp sơ thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị T là có
căn cứ.
Tại phiên Toà phúc thẩm, người kháng cáo không cung cấp thêm tài liệu chứng
cứ gì mới cho yêu cầu kháng cáo đồng thời trình bày: Việc bố đẻ bà là ông Bùi Khắc
M có nhận chuyển nhượng diện tích đất nêu trên của bà Trần Thị N
2
, sau đó tặng cho
quyền sử dụng đất cho bà khoảng 40m
2
nhưng không cung cấp tài liệu chứng cứ liên
quan đến việc chuyển nhượng tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật và cũng chưa thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của pháp
luật.
Từ những phân tích trên, HĐXX không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà
Bùi Thị T. Quan điểm của kiểm sát viên tham gia phiên toà về việc giải quyết vụ án
7
là có căn cứ chấp nhận.
[4] Về án phí hành chính phúc thẩm: Kháng cáo của bà Bùi Thị T không
được chấp nhận nên bà T phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định của
pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định
về án phí, lệ phí tòa án.
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện là bà Bùi Thị T; giữ nguyên Bản án hành
chính sơ thẩm số 37/2024/HC-ST ngày 15 tháng 5 năm 2024 về việc khiếu kiện quyết
định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Toà án nhân
dân thành phố H.
2. Về án phí phúc thẩm: Bà Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hành
chính phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí hành chính
phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000418 ngày
06/6/2024 của Cục Thi hành án dân sự thành phố H.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tp H;
- Cục THADS tp H;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Trọng Đoàn
Tải về
Bản án số 599/2024/HCPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 599/2024/HCPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm