Bản án số 599/2024/HCPT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 599/2024/HCPT

Tên Bản án: Bản án số 599/2024/HCPT ngày 30/10/2024 của TAND cấp cao tại Hà Nội
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 599/2024/HCPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/10/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: quyết định hành chính
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 599/2024/HC-PT
Ngày 30/10/2024
V/v khiếu kiện quyết định hành chính
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Đoàn;
Các Thẩm phán: Ông Phùng Hải Hiệp
Ông Nguyễn Nam Thành
- Thư ký phiên tòa: Phạm ThNhn, Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
ti Hà Ni.
- Đi diện Viện Kim sát nhân n cấp cao tại Hà Nội: Bà Hoàng Thị Hải- Kiểm
sát viên.
Ngày 30 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Nội xét
xử phúc thẩm công khai vụ án nh chính thụ số 290/2024/TLPT-HC ngày 12
tháng 7 năm 2024 về việc “khiếu kiện quyết định hành chính hành vi nh chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản bản án hành chính thẩm số: 37/2024/HC-ST ngày 15 tháng 5 năm
2024 của Toà án nhân dân thành phố H bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 11269/2024/QĐ-PT ngày
15 tháng 10 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bùi Thị T, sinh m 1980; nơi trú: Thôn 4, N,
huyện T
1
, thành phố H. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Đỗ Đức K - Luật Chi
nhánh Công ty Luật TNHH Quốc tế D tại H; địa chỉ: Số 2, ngõ 69, tổ dân phố số 1,
thị trấn A, huyện A
1
, thành phố H; là người đại diện theo ủy quyền của người khởi
kiện (Hợp đồng ủy quyền ngày 10 tháng 11 năm 2023 Quyết định về việc cử luật
sư tham gia tố tụng ngày 10 tháng 11 năm 2023). Có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H; địa chỉ: Số 5 Đ, thị
trấn N
1
, huyện T
1
, thành phố H.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Đinh Chính Q - Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân n huyện T
1
, thành phố H, là người đại diện theo ủy quyền của người
2
bị kiện (Văn bản ủy quyền ngày 10 tháng 01 năm 2024). Vắng mặt và có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt.
NI DUNG V ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 14 tháng 11 năm 2023, đơn khởi kiện bổ sung đề
ngày 14 tháng 12 năm 2023 trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
tòa thẩm, người khởi kiện và người đại diện hợp pháp của người khởi kiện thống
nhất trình bày:
Năm 1998, bố đẻ của Bùi Thị T ông Bùi Khắc M nhận chuyển nhượng
của bà Trần Thị N
2
thửa đất số 15, tờ bản đồ số 08, địa chỉ tại thôn 1, xã N, huyện T
1
,
thành phố H với diện tích khoảng 80m
2
đbán hàng và sinh sống. Sau đó, ông M đã
tặng cho mảnh đất trên cho T và em gái là i Thị H
1
mỗi người khoảng 40m
2
.
Năm 2022, y ban nhân dân huyện T
1
thực hiện việc thu hồi đất đthực hiện Dự án
đầu tư cải tạo đường tỉnh 359 (trong đó có đoạn qua địa phận xã N). Theo đó thửa đất
của gia đình T bị thu hồi 37,4m
2
, bao gồm cả phần đất mà T H
1
đang sử
dụng; hiện tại diện tích còn lại T được sử dụng khoảng hơn 20m
2
. Việc Ủy
ban nhân dân huyện T
1
ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi
đất phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ nhưng chỉ ghi tên Bùi Thị H
1
không đúng quy định của pháp luật trong diện tích đất bị thu hồi một phần
thuộc quyền sử dụng của bà T.
Do đó, ngay sau khi nhận được quyết định cưỡng chế thu hồi đất của Ủy ban
nhân dân huyện T
1
, T đã đơn gửi Ủy ban nhân dân N
Ủy ban nhân dân
huyện T
1
đề nghị cấp đất tái định cư. Theo thông báo về việc bốc thăm cấp đất tái
định lần hai do Ủy ban nhân dân N ban hành thì T tên trong danh sách
các hộ dân được bốc thăm. Tuy nhiên, ngày 22 tháng 12 năm 2022, bà T được cán bộ
địa chính N giao Thông báo số 577/TB-UBND ngày 25 tháng 9 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân huyện T
1
, trong đó nội dung bà Bùi Thị T không được giao đất tái
định cư. Việc ban hành thông báo nêu trên của Ủy ban nhân dân huyện T
1
đã làm ảnh
hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của Bùi Thị T. vậy, T khởi kiện yêu
cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy một phần Thông o số 577/TB-UBND ngày 15 tháng 9 năm 2022 của
Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H về kết quả xét duyệt giao đất vào khu tái
định của Dán đầu cải tạo đường tỉnh 359 đoạn từ T
3
đến đường trục giao
thông khu đô thị và công nghiệp B, qua địa phận xã N đối với bà Bùi Thị T.
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H giao cho bà Bùi Thị T 01 lô
đất tái định cư là đất ở có thu tiền sử dụng đất.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện có ý kiến trình bày:
Theo sổ mục kê năm 1985 và bản đồ giải thửa 299, thửa đất b thu hồi của
hộ bà H
1
nguồn gốc là một phần của thửa đất số 622, t bản đồ s 04, địa ch tại
thôn 1, xã N, huyện T
1
, thành phố H; thửa đất trên có tổng din ch là 2.760m
2
;
chsử dụng ruộng đất ghi “nhà đm”, loại ruộng đất là “kiến thiết - đất y
3
dựng bản do y ban nhân dân xã N quản lý. m 2021, khi y ban nn dân
huyện T
1
tiến hành thu hồi đất đã c định người đang trực tiếp sử dụng đất là hộ
i Th H
1
. Do din ch đất hộ H
1
sử dụng là đất hành lang giao thông,
không được Nhà nước công nhận quyền sdụng đất. Vì vy, khi lập pơng án
bồi thường, hỗ trợ, h bà H
1
không được bồi thường, hỗ trợ vđất, ch được h trợ
vật kiến tc trên đất theo Công văn số 601/UBND-TH ngày 29 tháng 4 năm 2016
của Ủy ban nhân dân thành phố H.
Theo Báo cáo kết quả soát, đ xut giao đất vào khu tái định cư đối với
c h gia đình đ thực hiện Dự án đầu cải tạo đường tỉnh 359 thì trên thửa đất
bị thu hồi năm nhân khẩu đăng ký thường t và ăn trên đất gồm ông Trần
Minh L (là chhộ), i Thị H
1
(là vợ) và các con Trần Minh C, Trần Minh
A
2
Trần Duy Q
1
. Qua c minh, ngoài tha đất bị thu hồi, hbà H
1
không n
nhà , đất nào khác tn địa bàn xã N; vậy, căn cứ o khoản 2 Điều 79 của
Luật Đất đai, Hội đồng bồi tờng, htr tái định cư của Dán đã xét duyệt
giao một lô đt thu tiền sử dụng đất cho hộ H
1
. Đối với trường hợp của hộ
Bùi Thị T, bà T cùng chồng và c con đăng ký thường trú ti tn 4, xã N,
huyện T
1
, thành phH; kng ăn tại thửa đất bị thu hồi. vy, Hội đồng bồi
thường, htr và i định của Dự án kng cơ sđ giao cho bà T một
đất thu tiền sdụng đất.
Từ những n ctrên, đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà i Th T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 37/2024/HC-ST ngày 15 tháng 5 năm 2024
về việc khiếu kiện quyết định hành chính hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai của Toà án nhân dân thành phố H, đã quyết định;
Căn cứ vào các điều 30, 32, 116, 157, 162, 163, 187, 193, 194, 206 và 348 của
Luật Tố tụng hành chính;
Các điều 62, 66, 75, 79, 100 101 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 18 Nghị
định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ
trợ, tái định khi Nnước thu hồi đất; Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định khi Nhà nước
thu hồi đất;
Xử: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị T về các nội dung sau:
- Hủy một phần Thông báo số 577/TB-UBND ngày 15 tháng 9 năm 2022 của
Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H về kết quả xét duyệt giao đất vào khu tái
định của D án đầu cải tạo đường tỉnh 359 đoạn từ T
3
đến đường trục giao
thông khu đô thị và công nghiệp B, qua địa phận xã N đối với bà Bùi Thị T.
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T
1
, thành phH giao cho Bùi Thị T một
lô đất tái định cư là đất ở có thu tiền sử dụng đất.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 29/5/2024 người khởi kiện Bùi Thị T kháng cáo yêu cầu Toà án cấp
4
phúc thẩm huỷ toàn bộ bản án thẩm của Toà án nhân dân thành phố H yêu cầu
UBND huyện T
1
, thành phố H căn cứ theo quy định của pháp luật và tình hình thực tế
của gia đình htrợ, tạo điều kiện để gia đình được nhận 01 (một) đất
tái định cư có thu tiền sử dụng đất.
Tại phiên toà phúc thẩm: Người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề
nghị HĐXX phúc thẩm huỷ toàn bộ bản án thẩm giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp
thẩm giải quyết lại vụ án Toà án cấp thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục
tố tụng và đánh giá chứng cứ trong vụ án không toàn diện.
Ý kiến của Đi diện Viện kim sát nhân dân cp cao ti Hà Ni tham gia phiên t:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán và Hội
đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính. Đối với
những người tham gia tố tụng: Các đương sự có mặt từ khi thụ đến thời điểm hiện
nay đều đã chấp hành đúng các quy định ca Luật Tố tụng hành chính.
Đơn kháng cáo của người kháng cáo làm trong hạn luật định và đã nộp tiền tạm
ứng án phí hành chính phúc thẩm nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành
chính, đề nghị không chấp nhận kháng cáo của Bùi Thị T; giữ nguyên bản án
thẩm của Toà án nhân dân thành phố H.
NHẬN ĐỊNH CỦA A ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa; căn
cvào kết quả tranh tụng tại phiên tòa ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử
(viết tắt HĐXX) nhận thấy:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của người kháng cáo làm trong hạn luật định và
đã nộp tiền tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm nên được xem xét theo thủ tục phúc
thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm vắng mặt người bị kiện không kháng cáo đã được
Toà án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ ý
kiến của các đương sự có mặt và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
tại Nội, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử theo quy định tại khoản 2
Điều 225 Luật Tố tụng hành chính.
[2] Xét đơn kháng cáo của người kháng cáo về việc: yêu cầu Toà án cấp phúc
thẩm huỷ toàn bộ bản án thẩm của Toà án nhân dân thành phố H, cho rằng Toà
án cấp thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng đánh giá chứng cứ không
khách quan, toàn diện.
Về đối tượng khởi kiện, quyền khởi kiện, thẩm quyền giải quyết thời hiệu
khởi kiện Toà án nhân dân thành phố H đã xác định đối tượng khởi kiện, thời hiệu
khởi kiện đúng theo quy định tại các tại khoản 1 Điều 30 khoản 4 Điều 32; khoản
1 Điều 115, điểm a khoản 2 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[3] V thm quyn, trình tth tục ban nh các quyết định hành chính bkiện:
5
Thực hiện Dự án đầu cải tạo tỉnh lộ 359 đoạn tT
3
đến trục đường giao
thông Khu đô thị và công nghiệp B huyện T
1
, thành phố H (đoạn qua địa phận T
3
và xã N)
Căn cứ vào: khoản 4 Điều 11 Luật đất đai năm 2013. khoản 2 Điu 3; khoản
1, khoản 3 Điều 22; điểm a khoản 2 Điều 70 của Ngh định s 43/2014/-CP ny
15/5/2014 của Chính phủ về quy định chi tiết thi hành Luật đất đai. Khoản 1 Điều
6 của Nghị định s 47/2014/-CP ngày 15/5/2014 của Cnh phủ về quy định về
bồi thường, hỗ trợ, i định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Để ban hành Thông báo s577/TB-UBND ngày 15 tháng 9 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân huyện T
1
, thành phố H về kết quả xét duyệt giao đất vào khu tái định
của Dự án đầu cải tạo đường tỉnh 359 đoạn từ xã T
3
đến đường trục giao thông
khu đô thị công nghiệp B, qua địa phận N đối với Bùi Thị T là đảm bảo
đúng về trình tự thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Xét về nguồn gốc diện tích đất bị thu hồi: Theo Sổ mục kê năm 1985 và bản đồ
giải thửa số 299 hiện đang lưu gitại Ủy ban nhân dân N, diện tích đất hộ
Bùi Thị H
1
bị thu hồi một phần của thửa số 622, tờ bản đồ s04, thôn 1, N,
huyện T
1
, thành phố H ghi tên chủ sdụng “Nhà đạm”; thửa đất tổng diện tích
2.760m
2
; loại đất “kiến thiết” - đất công do Ủy ban nhân dân N quản lý. Quá
trình giải quyết vụ án, tuy T cho rằng thửa đất này do bố đẻ ca ông Bùi
Khắc M nhận chuyển nhượng của bà Trần Thị N
2
nhưng không xuất trình được tài
liệu, chứng cứ chứng minh ông M hoặc N
2
chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất
này.
Ngày 26 tháng 5 năm 2020, Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành Quyết
định số 1312/-UBND về việc phê duyệt bổ sung (lần 1) kế hoạch sử dụng đất năm
2020 huyện T
1
. Để triển khai thực hiện quyết định trên của Ủy ban nhân dân thành
phố H, Ủy ban nhân dân huyện T
1
đã ban hành Quyết định số 2488/QĐ-UBND ngày
14 tháng 5 năm 2021 với nội dung thu hồi diện tích 3.848,1m
2
đất của 112 hộ gia
đình, nhân nguồn gốc đất công do Ủy ban nhân dân xã N quản để thực
hiện Dự án đầu cải tạo đường tỉnh 359 (trong đó hộ Bùi Thị S (Bùi Thị H) bị
thu hồi 37,4m
2
. Diện tích đất bị thu hồi vị ttại thửa số 15, tờ bản đồ số 08, thôn
1, N, huyện T
1
, thành phố H (theo Bản trích đo địa chính số 03, tỷ lệ 1/500 do
Trung tâm Kỹ thuật - Dữ liệu, Thông tin tài nguyên môi trường lập, được Sở Tài
nguyên Môi trường thẩm định ngày 23 tháng 12 năm 2020). Việc thu hồi đất với
mục đích cải tạo đường tỉnh 359 là phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 62 của Luật
Đất đai m 2013.
Do xác định diện tích đất hộ H
1
đang sử dụng đất công thuộc phạm
vi bảo vệ đường giao thông. vậy, khi lập phương án bồi thường, hỗ trợ, Ủy ban
nhân dân huyện T
1
không bồi thường, hỗ trợ vđất; chỉ bồi thường, hỗ trợ vật kiến
trúc trên đất theo Công văn số 601/UBND-TH ngày 29 tháng 4 năm 2016 của Ủy ban
nhân dân thành phố H với tổng số tiền là 108.684.201 đồng. Bùi Thị H
1
đã nhận
đủ số tiền trên không thắc mắc, khiếu nại về số tiền bồi thường, hỗ trợ; đồng
6
thời đã tnguyn n giao đất để thực hiện Dự án.
Sau khi ban hành quyết định thu hồi đất quyết định phê duyệt phương án
bồi thường, hỗ trợ, do phát hiện sai sót về tên chủ sử dụng đất. vậy, ngày 05
tháng 8 năm 2022, Ủy ban nhân dân huyện T
1
ban hành Quyết định số 12791/QĐ-
UBND về việc đính chính tên tại danh sách kèm theo quyết định thu hồi đất quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ với nội dung: Đính chính tên “Bùi Thị S
(Bùi Thị H)tại danh sách ban hành kèm theo Quyết định số 2488/QĐ-UBND ngày
14 tháng 5 năm 2021 tại danh sách ban hành kèm theo Quyết định số 2489/QĐ-
UBND ngày 14 tháng 5 năm 2021 của Ủy ban nhân dân huyện T
1
thành “Bùi Thị H.
Việc đính chính tên chủ sử dụng đất không làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp
pháp của người sử dụng đất có đất b thu hồi.
- Căn cứ Khoản 1 Điều 79 của Luật Đất đai năm 2013: Khi Nhà nước thu hồi
đất ở, điều kiện đhộ gia đình, nhân được bồi thường vđất phải đủ điều
kiện được bồi thường theo quy định tại Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 và không
còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi đất thu hồi.
Đối với trường hợp của Bùi Thị T, hồ vụ án thể hiện T không một
trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100, Điều 101 của Luật Đất đai năm 2013
hướng dẫn tại Điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của
Chính phủ để chứng minh mình là chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất bị thu hồi và có
đủ điều kiện được bồi thường về đất.
Căn cứ Khoản 2 Điều 79 của Luật Đất đai năm 2013: Theo thông tin do Công
an N cung cấp, bà T đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn 4, xã N, huyện T
1
, thành
phố H; trước thời điểm Ủy ban nhân dân huyện T
1
ban hành thông báo thu hồi đất
vào tháng 10 năm 2020, không thông tin Bùi Thị T ăn ở, sinh hoạt hộ nào
khác. Theo Báo cáo s 76/BC-TNMT ngày 17 tháng 8 năm 2022 của Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện T
1
về việc soát, đề xuất giao đất vào khu tái định
đối với các hộ gia đình, nhân đất bị thu hồi thực hiện Dự án đầu cải tạo
đường tỉnh 359 thì tại thời điểm thu hồi đất, trên đất có năm nhân khẩu ăn ở gồm ông
Trần Minh L (là chủ hộ), Bùi Thị H
1
(là vợ ông L) và các con Trần Minh C,
Trần Minh A
2
và Trần Duy Q
1
.
Toà án cấp thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Bùi Thị T
căn cứ.
Tại phiên Toà phúc thẩm, người kháng cáo không cung cấp thêm tài liệu chứng
cứ mới cho yêu cầu kháng cáo đồng thời trình bày: Việc bố đẻ bà là ông Bùi Khắc
M có nhận chuyển nhượng diện tích đất nêu trên của bà Trần Thị N
2
, sau đó tặng cho
quyền sdụng đất cho khoảng 40m
2
nhưng không cung cấp tài liệu chứng cứ liên
quan đến việc chuyển nhượng tặng cho quyền sử dụng đất theo quy định của pháp
luật cũng chưa thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của pháp
luật.
Từ những phân tích trên, HĐXX không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của
Bùi Thị T. Quan điểm của kiểm sát viên tham gia phiên toà về việc giải quyết vụ án
7
là có căn cứ chấp nhận.
[4] Ván phí hành chính phúc thẩm: Kng o của Bùi Thị T không
được chấp nhận nên T phải chịu án phí hành cnh pc thẩm theo quy định của
pháp luật.
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định
về án phí, lệ phí tòa án.
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện là bà Bùi Thị T; giữ nguyên Bản án hành
chính sơ thẩm số 37/2024/HC-ST ngày 15 tháng 5 năm 2024 về việc khiếu kiện quyết
định hành chính và hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai của Toà án nhân
dân thành phố H.
2. Về án phí phúc thẩm: Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hành
chính phúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phành chính
phúc thẩm đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000418 ngày
06/6/2024 của Cục Thi hành án dân sự thành phố H.
3. Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, không bị
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tp H;
- Cục THADS tp H;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã )
Nguyễn Trọng Đoàn
Tải về
Bản án số 599/2024/HCPT Bản án số 599/2024/HCPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 599/2024/HCPT Bản án số 599/2024/HCPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất