Bản án số 52/2023/DS-ST ngày 05/07/2023 của TAND TX. Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp tiền hụi
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 52/2023/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 52/2023/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 52/2023/DS-ST ngày 05/07/2023 của TAND TX. Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp tiền hụi |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TX. Giá Rai (TAND tỉnh Bạc Liêu) |
| Số hiệu: | 52/2023/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 05/07/2023 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | vvv |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ GIÁ RAI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BẠC LIÊU
Bản án số: 52/2023/DS-ST
Ngày: 05-7-2023
“V/v tranh chấp tiền hụi”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GIÁ RAI
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
* Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Yến Ngọc
* Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Thành Nhạn
2. Bà Cao Thị Mỹ Phượng
- Thư ký Toà án ghi biên bản phiên tòa: Ông Lê Khắc Hải – Thư ký Tòa án nhân dân
thị xã Giá Rai
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai- tỉnh Bạc Liêu: Bà Nguyễn Mộng
Đẹp–Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 6 năm 2023 và ngày 05 tháng 07 năm 2023, tại trụ sở Tòa án
nhân dân thị xã Giá Rai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 87/2022/TLST- DS
ngày 25 tháng 02 năm 2022 về việc “tranh chấp tiền hụi” theo quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 18/2023/QĐXX -DS ngày 25 tháng 01 năm 2023 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị P, sinh năm 1970.
Địa chỉ: Ấp 7, xã PTT, thị xã G R, tỉnh B L.
Bị đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm 1961
Địa chỉ: Ấp 7, xã PTT, thị xã GR, tỉnh BL
(Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN :
Theo đơn khởi kiện ngày và bản tự khai bà Lê Thị P trình bày: Bà làm chủ hụi, bà
H làm hụi viên, bà H tham gia chơi một chưng hụi khui ngày 30/01/2020, dây hụi 30
chưng, loại 2.000.000 đồng, một tháng khui một lần, tôi có tham gia một chưng, tôi hốt
đầu. Bà H là người hốt thứ hai, ngày hốt là 30/02/2020 al, bà H bỏ hụi 620.000 đồng, bà
P đã chung tiền cho bà H số tiền 39.640.000 đồng, bà H có đóng hụi chết nhưng không
đầy đủ. Sau khi hốt hụi, bà H đóng hụi chết chỉ được 20.920.000 đồng, còn thiếu
15.080.000 đồng, đến tháng 06/2021 thì ngưng không đóng nữa là còn thiếu 12 lần hụi
chết nguyên là 24.000.000 đồng, cộng với 15.080.000 đồng là 39.080.000 đồng. Bà P đã
cung cấp danh sách hụi cho tòa là chứng cứ của tôi, các hụi viên cũng có danh sách hụi
do tôi đưa, bà H chơi hụi ghi tên là “chị 3 Tùng”, có bà Trần Thị Tiếng, Nguyễn Thị
Hằng, Nguyễn Thị Kiều Mi… làm nhân chứng. Tại phiên tòa, bà P xác định trong đơn
khởi kiện do tính toán chưa chính xác số tiền yêu cầu, nay bà P yêu cầu bà H trả tiền hụi
2
còn thiếu là 35.080.000 đồng. Bà P không đồng ý với yêu cầu phản tố của bà H, hụi năm
2018 đã mãn trước năm 2020. Bà H đóng hụi còn thiếu thì không có chuyện bà H đóng
dư, bà H khai không đúng sự thật.
Bà Huỳnh Thị H trình bày: Bà không đồng ý yêu cầu của bà P vì bà không có
tham gia chơi dây hụi năm 2020, bà chỉ tham gia các dây hụi năm 2016, 2017 và năm
2018, bà có đóng hụi đến năm 2020 là đóng hụi chết cho dây hụi năm 2016, 2017, 2018,
bà xác định còn nợ hụi chết của bà P là 12.000.000 đồng. Bà H phản tố yêu cầu bà P trả
36.000.000 đồng tiền đóng hụi chết cho bà P gom lố (gom dư tiền khi hụi đã mãn). Bà P
đã gom lố tiền của bà dây hụi năm 2016 là 15 lần với số tiền 30.000.000đồng và gôm lố
dây hụi năm 2017 là 5 lần với số tiền 5.000.000 đồng, ban đầu bà đòi 36.000.000 đồng
do bà tính sai, bà yêu cầu bà P trả lại 35.000.000 đồng. Bà P trả tiền cho bà thì bà sẽ trả
12.000.000 đồng tiền hụi còn thiếu của dây hụi năm 2018.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai phát biểu ý
kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, thẩm phán đã thực hiện đúng quy định tại điều 48
Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo
quy định địa các Điều 70, 71, 234 BLTTDS. Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về
nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 471 của
Bộ luật dân sự; Các Điều 16,17,24,25 Nghị định 19/2006/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của
Chính phủ. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị P về việc yêu cầu bà Huỳnh Thị
H có trách nhiệm trả tiền nợ hụi.
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P số tiền nợ hụi 35.080.000đ.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Huỳnh Thị H về việc yêu cầu bà Lê Thị
P trả số tiền hụi đã gom dư là 35.000.000đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1]Về tố tụng:Từ khi Tòa án thụ lý vụ việc đến nay nguyên đơn, bị đơn đã chấp
hành đúng, đầy đủ quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan về quyền và nghĩa vụ của đương sự.
[2]Hội đồng xét xử xem xét đơn khởi kiện, lời trình bày của nguyên đơn tại phiên
tòa, bà Lê Thị P yêu cầu bà Huỳnh Thị H trả số tiền hụi còn nợ lại của những lần đóng
hụi còn thiếu là 11.080.000đ và 12 lần hụi chết số tiền 24.000.000đ tổng cộng
35.080.000đ. Của dây hụi khui ngày 30/01/2020 do bà P làm chủ hụi. Bà P giải thích
việc tính sai do quên nên cộng lần hụi sống bà H đóng rồi và 1 lần hụi bà H hốt được trừ
ra, trừ hai kỳ hụi, bà H có đóng 16 kỳ hụi chết tiếp theo nhưng đóng không đầy đủ, chỉ
đóng 20.920.000đồng, còn thiếu 11.080.000đồng và cộng 12 lần hụi chết là
24.000.000đồng, tổng cộng bà H còn thiếu bà P là 35.080.000 đồng.
Bà Huỳnh Thị H không đồng ý theo yêu cầu của bà P, lý do bà H đưa ra là do bà H
không có tham gia dây hụi này. Bà H cho rằng bà P gom hụi của bà dây hụi năm 2016 lố là
3
15 kỳ số tiền 30.000.000 đồng, dây hụi năm 2017 bà P gom lố 05 kỳ số tiền 5000.000đồng.
Nay bà H yêu cầu bà P trả lại số tiền 35.000.000đồng thì bà sẽ trả 12.000.000 đồng tiền
hụi còn thiếu của dây hụi năm 2018.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xác minh thu thập lời khai của những
người cùng tham gia dây hụi 30/01/2020.Tại biên bản ghi lời khai người hiểu biết sự
việc chị Nguyễn Thị Hằng, chị Hằng xác định bà H có tham gia hụi và hốt đầu, nên
không gặp bà H đi khui hụi; Chị Nguyễn Thị H Mi, xác định có gặp bà H đi khui hụi
một hai lần đầu, sao đó không gặp nữa vì bà H đã hốt đầu; Bà Trần Thị Tiếng xác định
bà H có tham gia 01 chưng hụi, tên trong danh sách hụi là “chị 3 Tùng”, là người hốt thứ
2. Ngoài ra, bà Tiếng còn khai rằng bà H có nhờ bà Tiếng nói sai sự thật nhưng bà Tiếng
không nghe.
Thấy rằng lời khai của chị Hằng, chị Mi và bà Tiếng là phù hợp với lời trình bày
của bà P, cũng như đủ cơ sở chứng minh bà H có tham dây dây hụi ngày 30/01/2020,
loại hụi 2.000.000đ, dưới tên “chị 3 Tùng” và đã hốt hụi. Bà H cũng thừa nhận tại phiên
tòa là khi chơi hụi cũng như ngoài xã hội thường được mọi người gọi là “chị 3 Tùng”, bà
H không chứng minh được mình đã đóng hụi lại đầy đủ cho bà P.
Hội đồng xét xử xét thấy lời khai của bà P là có cơ sở, quá trình giao dịch chơi hụi
giữa bà P và bà H là có xảy ra đúng trên thực tế. Giao dịch hụi là hình thức giao dịch về
tài sản theo tập quán, trên cơ sở thỏa thuận của một nhóm người tập hợp nhau lại cùng
định ra số người, thời gian, địa điểm, thể thức góp…và quyền, nghĩa vụ các thành viên
nhằm mục đích tương trợ nhau. Chủ hụi (bà P ) có trách nhiệm thu phần hụi của các
thành viên góp hụi để giao lại cho các thành viên được lãnh hụi, thành viên được lãnh
hụi phải trả lãi cho các thành viên khác và một khoản tiền cho chủ hụi. Như vậy, giao
dịch hụi giữa bà P và bà H là giao dịch hụi đầu thảo có lãi.
Từ nhận định trên, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P đối với bà H,
buộc bà H có nghĩa vụ trả tiền nợ hụi cho bà P số tiền nợ hụi 35.080.000đồng.
Đối với yêu cầu phản tố của bà H về việc yêu cầu bà P trả lại số tiền gom lố dây
hụi năm 2016, 15 kỳ số tiền 30.000.000đ, dây hụi năm 2017 là 05 kỳ số tiền 5000.000đ. Bà
H là người yêu cầu nhưng bà không đưa ra được căn cứ chứng minh cho lời trình bày của
mình và bà P cũng không thừa nhận sự việc đã gom dư các phần hụi. Nên không có căn cứ
để chấp nhận yêu cầu phản tố của bà H
Xét thấy, ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Giá Rai là phù hợp
nên được ghi nhận.
Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:Bà P không phải chịu án phí, số tiền án phí
bà P đã dự nộp được hoàn lại đủ. Bà H phải chịu án phí có giá ngạch trên số tiền phải
thanh toán cho bà P và án phí đối với yêu cầu phản tố không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 471 Bộ luật dân sự; Các Điều 16,17,24,25 Nghị định số
19/2006/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ.

4
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 măm 2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị P về việc yêu cầu bà Huỳnh Thị H
có trách nhiệm trả tiền nợ hụi.
Buộc bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị P số tiền nợ hụi
35.080.000đồng (Ba mươi lăm triệu không trăm tám mươi ngàn đồng).
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Huỳnh Thị H về việc yêu cầu bà Lê Thị
P trả số tiền hụi đã gom dư là 35.000.000đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án
có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành
án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án)
cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành còn
phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản
2 điều 468 Bộ luật dân sự 2015.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:
+Bà Huỳnh Thị H phải chịu án phí đối với số tiền phải thanh toán cho bà P là
1.754.000đồng và án phí phải chịu đối với yêu cầu phản tố không được chấp nhận là
1.750.000đồng, tổng cộng là 3.504.000đồng. Đối trừ số tiền bà H nộp tạm ứng là
900.000đồng tại biên lai thu số 0004199 ngày 25/7/2022 thì bà Huỳnh Thị H còn phải
nộp tiếp là 2.604.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Giá Rai.
+ Bà P không phải chịu án phí, số tiền dự nộp tạm ứng 977.000 đồng do bà P đã
nộp theo biên lai thu số 0003871ngày 25/02/2022 được hoàn lại đủ tại Chi cục thi hành
án dân sự thị xã Giá Rai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án. Thời
hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên
án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản
án hoặc được tống đạt bản án hợp lệ.
Nơi nhận TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- Đương sự; Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
- TAND tỉnh Bạc Liêu;
- VKSND thị xã Giá Rai
- Chi cục THA thị xã Giá Rai ( đã ký)
- Lưu.
Lê Yến Ngọc
5
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm