Bản án số 44/2025/DS-PT ngày 25/05/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 44/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 44/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 44/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 44/2025/DS-PT ngày 25/05/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
Số hiệu: | 44/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ông Ú khởi kiện bà H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 44/2025/DS-PT
Ngày : 04 - 3 - 2025
T/c hợp đồng chuyển nhượng,
hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Kim Chi
Các thẩm phán: Bà Sơn Nữ Phà Ca
Ông Lâm Triệu Hữu
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Ngọc Vệ – Thư ký Toà án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Ông Nguyễn Anh Định
– Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 04 tháng 3 năm 2025, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 280/2024/TLPT – DS ngày 07 tháng 10 năm
2024, về việc “Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất”
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 100/2024/DS-ST ngày 09 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Long Hồ bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 417/2024/QĐPT-DS ngày
12 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Võ Văn Ú, sinh năm 1965, địa chỉ: ấp L, xã H, huyện L,
tỉnh Vĩnh Long (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Quyết Q, địa chỉ:
số B P, phường D, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy
N và bà Nguyễn Thị Bích H là Luật sư Công ty L1 thuộc Đoàn Luật sư Thành phố
H (có mặt).
2. Bị đơn: Bà Trần Thị Hồng H1, sinh năm 1975, địa chỉ: số E, N, Phường B,
thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (có đơn xin vắng).
3. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan
3.1. Bà Lê Ngọc T, sinh năm 1964, địa chỉ: số E, N, Phường B, thành phố V,
tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Ngọc T: Bà Lâm Thị Thu P, địa chỉ:
số A L, phường B, Quận A, thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
3.2. Ông Trần Văn Ẩ, sinh năm 1949, địa chỉ: ấp L, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh
Long.
3.3. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965, địa chỉ: ấp L, xã H, huyện L, tỉnh
Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị L: Ông Nguyễn Quyết Q,
địa chỉ: số B P, phường D, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long (có mặt).
3.4. Ông Lê Văn H2, sinh năm 1977, địa chỉ: E, N, Phường B, thành phố V,
tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Lê Văn H2: Ông Trần Thanh P1, địa
chỉ: số B, H, phường H, Quận D, thành phố Hồ Chí Minh (có đơn xin vắng).
3.5. Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ, địa chỉ: Khóm E, thị trấn L,
huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu T1 – Chức vụ Chi cục
trưởng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thanh P2 – Chấp hành viên, theo
văn bản ủy quyền số: 12/UQ.CCTHADS ngày 08/10/2025 của Chi cục trưởng Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Long Hồ (có mặt).
4. Người kháng cáo: Ông Võ Văn Ú (nguyên đơn) và bà Nguyễn Thị L (người
có quyền, nghĩa vụ liên quan).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 20/11/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 08/3/2022
của nguyên đơn Võ Văn Ú và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn trình bày:
Ngày 02/11/2015 tại Văn phòng C1 giữa ông Ú với bà H1 có thỏa thuận, ông
Ú cầm cố thửa số 286 (thửa cũ 479) diện tích 3.940m2 nay theo chương trình Vlap
là thửa 45, tờ bản đồ số 12, diện tích 4.296,4m2 loại đất LUA tọa lạc ấp L, xã H,
huyện L, tỉnh Vĩnh Long với giá 10 cây (100 chỉ) vàng 24k, tương đương
310.000.000đ vào thời điểm đó và ông Ú đã nhận đủ 10 cây vàng. Thời hạn cầm cố
là 05 năm, tính từ ngày 27/10/2015 đến ngày 27/10/2020. Trước ngày 27/10/2020
ông Ú nhiều lần đến thương lượng với bà H1 để chuộc lại đất nhưng bà H1 cho rằng
chưa đến ngày 27/10/2020 nên không cho chuộc lại đất, lúc này ông Ú mới biết bà
H1 đã chuyển nhượng thửa đất cho bà Lê Ngọc T là chị chồng của bà H1.
Khi thực hiện hợp đồng cầm cố hai bên có ký Giấy xác nhận tại văn phòng
C1 với nội dung: cầm cố thửa đất đến ngày 27/10/2020 thì hết hạn, nếu qua ngày
27/10/2020 mà ông Ú không chuộc lại đất thì bà H1 mới có quyền chuyển nhượng.
Ngoài ra, bà H1 còn yêu cầu ông Ú ký thêm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất thì mới đồng ý cầm cố thửa đất trên nên 05 ngày sau là ngày 02/11/2023
ông Ú với bà H1 ra Văn phòng công chứng ký thêm hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng thửa đất nêu trên với giá 310.000.000 đồng. Thực chất thì ông Ú không có
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà H1 mà là cầm cố trong thời hạn 05 năm.
Bà Lê Ngọc T là chị chồng của bà H1 ở chung nhà với bà H1 biết rõ ông Ú chỉ cầm
cố thửa đất cho bà H1 trong thời hạn 05 năm nhưng vẫn cố tình ký hợp đồng nhận
chuyển nhượng thửa đất là giả tạo nhằm gây khó khăn cho việc ông Ú chuộc lại đất.
Do đó, ông Ú khởi kiện yêu cầu:
1. Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 45 giữa bà H1
với bà T. Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 45 cấp cho bà T
2. Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ú với bà H1
được văn phòng C1 chứng thực ngày 02/11/2015 số chứng thực 4523 quyển số
7.TP/CC-SCC/HĐGD.
3. Buộc bà H1 thực hiện hợp đồng cầm cố với ông Ú theo Giấy xác nhận ký
ngày 02/11/2015 đối với thửa đất số 45 tờ bản đồ số 12, diện tích 4.296,4m2. Ông Ú
đồng ý trả lại bà H1 10 cây vàng 24K.
4. Công nhận cho ông Ú được quyền sử dụng thửa đất 45, tờ bản đồ số 12,
diện tích 4.296,4m2 loại đất lúa, tọa lạc tại ấp L, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện hợp pháp của bà Nguyễn Thị L thống nhất ý kiến trình bày của
ông Ú, bà L không có yêu cầu độc lập trong vụ án.
* Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn bà Trần Thị Hồng H1 trình bày:
Ngày 02/11/2015 tại Văn phòng C1, giữa ông Ú và bà H1 có lập Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số 286 diện tích 3.940m2 với giá 10 cây
vàng 24k (tương đương số tiền 310.000.000đ thời điểm đó) bà đã giao đủ vàng cho
ông Ú. Bà H1 làm thủ tục sang tên và được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/3/2016 thành thửa 45, tờ bản đồ số 12
diện tích 4.296,4m2 loại đất LUA. Đến ngày 14/9/2020, bà chuyển nhượng thửa đất
45 lại cho bà Lê Ngọc T với giá 800.000.000đ, bà T đã trả đủ tiền và được đứng tên
quyền sử dụng đất.
Ông Ú chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà H1, nhưng để giữ thể diện
với láng giềng và các con của ông nên ông yêu cầu bà H1 làm giấy xác nhận cho
ông với nội dung là cầm cố đất, vì vậy vào ngày 02/11/2015 bà H1 có ký giấy xác
nhận với nội dung cho ông Ú chuộc lại đất trong thời hạn 05 năm nhưng thực chất
đây là chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ không phải cầm cố. Con của ông Ú có
đến liên hệ với bà H1 nhưng bà H1 không tiếp chuyện vì chỉ giao dịch với người
đứng tên quyền sử dụng đất là ông Ú, đến ngày 01/10/2020 ông Ú có gặp bà H1 hẹn
đến ngày 27/10/2020 để trao đổi về việc nhận chuyển nhượng lại đất nhưng bà H1
trả lời là đất bà đã mua xong nên không cho ông Ú nhận chuyển nhượng lại. Tại
phần số 2 của Giấy xác nhận ngày 02/11/2015 có ghi: ông Ú không có bất kỳ khiếu
nại hoặc tố cáo nào có liên quan khi bà H1 thực hiện các thủ tục ký tên chuyển
nhượng phần đất nói trên cho người khác.
Do đó, bà H1 không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ú vì hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan bà Lê
Ngọc T trình bày:
Ngày 14/9/2020, bà có nhận chuyển nhượng thửa đất số 45 của bà H1 với giá
800.000.000đ, bà đã giao đủ tiền cho bà H1, bà H1 đã giao đất cho bà và bà T được
đứng tên quyền sử dụng đất, sau đó bà cho ông Trần Văn Ấ (là cha ruột của bà H1)
thuê lại với giá 100 giạ lúa/năm, thời hạn thuê 03 năm tính từ 2021. Bà T không
đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông Ú. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố vô hiệu hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với bà H1 thì bà không yêu cầu giải
quyết phần bồi thường thiệt hại trong vụ án này.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trần Ngọc Ấ1 trình bày: Từ năm 2015, ông Ấ1 thuê thửa đất 286 (thửa cũ 479) nay
là thửa 45 của bà H1 với giá 25 giạ lúa/1.000m2/năm. Sau này bà H1 chuyển nhượng
đất lại cho bà T thì ông tiếp tục thuê đất của bà T. Nếu sau này xử trả đất lại cho ông
Ú thì ông sẽ trả cho ông Ú, ông không yêu cầu gì về hợp đồng thuê đất với bà T.
*Tại bản án sơ thẩm (lần 1) số: 78A/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 của Toà án
nhân dân huyện Long Hồ đã xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ú: Buộc bà H1 trả cho ông
Ú tiền chênh lệch giá đất là 804.698.000 đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Võ Văn Ú về việc: Vô hiệu hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số 45 giữa bà H1 và T, Hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở tài
nguyên & môi trường tỉnh V cấp cho bà Lê Ngọc T ngày 30/9/2020 tại thửa số 45,
vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ú với bà H1,
* Ông Ú kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm số: 78A/2022/DS-ST ngày
08/9/2022 của Toà án nhân dân huyện Long Hồ theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của ông. Tại Bản án phúc thẩm số: 57/2023/DS-PT ngày 14/4/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Long đã xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Ú:
Vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ú với bà H1, vô hiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa số 45 giữa bà H1 và T, công nhận
cho ông Ú được quyền sử dụng đất thửa số 45, buộc ông Ú trả cho bà H1 100 (một
trăm) chỉ vàng 24k, Buộc bà H1, bà T, ông Ấ1 giao cho ông Ú thửa đất số 45, buộc
bà H1 trả cho bà T 800.000.000 đồng, giành cho bà T vụ kiện dân sự khác về yêu
cầu bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu nếu có yêu cầu.
Sau khi Bản án phúc thẩm số: 57/2023/DS-PT ngày 14/4/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Vĩnh Long có hiệu lực pháp luật, bản án đã được thi hành như sau:
Ông Ú nộp 100 chỉ vàng 24K tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ để hoàn
trả cho bà H1 nhưng bà H1 chưa nhận số vàng này và ông Ú đã nộp 24.000.000 đồng
tiền án phí sơ thẩm; Cơ quan thi hành án đã giao thửa 45, cho ông Ú và ông Ú canh
tác đến nay.
Bản án phúc thẩm số: 57/2023/DS-PT ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long sau đó bị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
* Tại Quyết định giám đốc thẩm số: 200/2023/DS-GĐT ngày 13/9/2023 của
Toà án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định huỷ Bản án sơ
thẩm số: 78A/2022/DS-ST ngày 08/9/2022 của Toà án nhân dân huyện Long Hồ và
hủy Bản án phúc thẩm số: 57/2023/DS-PT ngày 14/4/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long, giao hồ sơ về cho Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử lại sơ thẩm
theo quy định pháp luật. Với lý do: Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm vi phạm nghiêm
trọng thủ tục tố tụng khi không đưa ông H2 (chồng bà H1) Tham gia tố tụng với tư
cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, không thu thập đầy đủ các tài liệu
chứng cứ về quan hệ hôn nhân của bà H1 và đánh giá chứng cứ không đầy đủ dẫn
đến việc giải quyết vụ án tại bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm không khách quan,
toàn diện, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự trong vụ án. Cụ thể:
- Về thủ tục tố tụng: ông Ú khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên vô hiệu các hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 45, đề nghị Tòa án công nhận và
buộc bà H1, bà T trả lại cho ông Ú thửa đất số 45. Tuy nhiên, giao dịch về quyền sử
dụng đất giữa ông Ú với bà H1 và giữa bà H1 với bà T phát sinh trong thời kỳ hôn
nhân của bà H1 với ông H2. Ông H2 cho rằng nguồn tiền bà H1 trả cho ông Ú là tài
sản chung của vợ chồng, việc bà H1 đứng tên quyền sử dụng thửa đất số 45 có sự
thống nhất của ông H2, nhưng khi bà H1 chuyển nhượng cho bà T thì ông H2 không
biết. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không đưa ông H2 vào tham gia
tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại khoản 4 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H2.
- Về nội dung: trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số
45 giữa ông Ú với bà H1 ngày 02/11/2015, bà H1 đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất vào năm 2016. Ngày 14/9/2020, bà H1 ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng thửa đất số 45 cho bà T theo đúng trình tự, thủ tục và được
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
30/9/2020. Bà T cung cấp chứng cứ chứng minh đã chuyển trả tiền nhận chuyển
nhượng đất cho bà H1 02 lần tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C2 (ngày 14/9/2020
chuyển 383.000.000đồng, ngày 25/9/2020 chuyển 415.000.000 đồng) và Biên nhận
ngày 25/9/2020 của bà H1 với nội dung đã nhận đủ 800.000.000 đồng từ bà T. Như
vậy, bà T đã nhận đất, giao tiền và đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định. Bà T không biết và không buộc phải biết việc thỏa thuận
cầm cố thửa đất số 45 ngày 02/11/2015 giữa bà H1 với ông Ú. Vì vậy, nếu giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 với bà T được ông H2 chấp nhận và
không có tài liệu, chứng cứ nào khác thì có cơ sở công nhận hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng thửa đất số 45 ngày 14/9/2020, giữa bà H1 với bà T là ngay
tình theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015.
* Sau khi thụ lý lại vụ án để giải quyết theo trình tự sơ thẩm (lần 2).
- Ông Ú, bà L (người đại diện hợp pháp là anh Nguyễn Quyết Q) yêu cầu: vô
hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ú, bà L với bà H1; Vô
hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 với bà T, hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 45 của bà T; Công nhận cho ông Ú được quyền
sử dụng thửa đất số 45, ông Ú đồng ý trả cho bà H1 100 chỉ vàng 24K; Trường hợp
xử không công nhận quyền sử dụng đất cho ông Ú thì bà H1 phải trả giá trị chênh
lệch đất cho ông Ú theo giá 403.000đ/m².
- Tại bản khai đề ngày 01/7/2024, bà H1 trình bày: bà không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của ông Ú vì Tờ xác nhận đề ngày 02/11/ 2015 là do ông Ú nhờ bà ký
để các con ông Ú có hỏi thì ông đưa giấy này ra để trấn an. Bà nghĩ đất đã mua và
là tài sản của vợ chồng nếu không có sự đồng ý của chồng bà là ông H2 thì tờ xác
nhận này không có giá trị. Do đó, bà H1 yêu cầu hủy giấy xác nhận đề ngày
02/11/2015 giữa Bà và ông Ú. Diện tích đất có tăng thêm 356,4m² so với lúc ký hợp
đồng chuyển nhượng với ông Ú là do nhà nước đo cấp theo chương trình V, bà H1
đồng ý trả thêm tiền cho ông Ú diện tích đất tăng thêm theo giá trị Nhà nước quy
định.
- Tại bản tự khai ngày 05/02/2024 và giấy cam kết ngày 06/02/2024 ông Lê
Văn H2 trình bày: ông không đồng ý yêu cầu của ông Ú, bà L, ông yêu cầu công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất 45 giữa bà H1 và bà T, buộc
ông Ú giao trả thửa đất 45 cho bà T, yêu cầu Tòa án hủy giấy xác nhận giữa ông Ú
và bà H1 ký ngày 02/11/2015 tại Văn phòng C1 vì đất là tài sản chung của ông với
bà H1 nhưng giấy xác nhận này ông không ký tên nên không có giá trị pháp lý. Đối
với việc bà H1 chuyển nhượng đất của ông Ú tại thửa 286 tờ bản đồ số 9 địa chỉ tại
ấp L xã H huyện L với giá 100 chỉ vàng 24K vợ chồng ông thống nhất để một mình
bà H1 đứng tên, 100 chỉ vàng 24K này là tài sản chung của vợ chồng.
- Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Ngọc T trình bày: Bà T là người
nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà H1 ngay tình. Các bên đã thực hiện
giao dịch đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 và bà T hợp pháp, buộc ông Ú và bà
L phải giao trả phần đất diện tích đất 4.296,4m² thửa 45, tờ bản đồ số 12, đất tọa lạc
tại xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long cho bà T. Trường hợp, Tòa án tuyên bố vô hiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 với bà T thì bà T không yêu
cầu giải quyết hậu quả giao dịch vô hiệu trong vụ án này.
* Tòa án đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ phần đất tranh chấp. Qua
công tác thẩm định cho thấy phần đất tranh chấp hiện tại là ruộng trồng lúa do ông
Ú đang canh tác, trên đất không có công trình xây dựng, không có cây trồng khác.
* Tại bản án sơ thẩm (lần 2) số:100/DS-ST ngày 09/8/2024 của Tòa án nhân
dân huyện Long Hồ đã xử:
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Ú về việc: vô hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ú, bà L với bà H1 lập ngày 02/11/2015, vô hiệu
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 với bà T lập ngày 14/9/2020,
hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở tài nguyên môi trường tỉnh V cấp cho
bà T ngày 30/9/2020.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Ú về việc buộc bà H1 thực hiện hợp đồng
cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Ú và bà H1.
- Buộc ông Ú, bà L giao trả diện tích đất 4.296,4m² thửa 45, tờ bản đồ số 12,
tại ấp L, xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long cho bà T.
- Ông Ú được nhận lại 100 (một trăm) chỉ vàng 24K và 24.000.000 đồng (tiền
án phí sơ thẩm đã nộp) tại Chi cục thi hành án huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm, quyền
yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ chậm thi hành án, thoả thuận thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án và quyền kháng cáo
của đương sự theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, đến ngày 19/8/2024 ông Võ Văn Ú và bà Nguyễn Thị
L kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Ú.
Các đương sự thống nhất giá chuyển nhượng thực tế tại địa phương đối với
thửa đất tranh chấp hiện nay là 360.000đ/m2, đề nghị Hội đồng xét xử lấy giá này
làm căn cứ giải quyết vụ án.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Ú đề nghị Hội đồng xét xử
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Ú.
Quan điểm Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử thực
hiện đúng trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự
đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308
BLTTDS năm 2015, chấp nhận một phần kháng cáo của ông Ú và bà L, sửa bản án
sơ thẩm theo hướng:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ú, buộc bà H1 và ông H2
liên đới trả cho ông Ú và bà L tiền chênh lệch giá đất là 784.404.000đ.
- Không chấp nhận yêu cầu của ông Ú về việc vô hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất thửa số 45 giữa bà H1 và T, hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thửa số 45 của bà T, vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất giữa ông Ú với bà H1, buộc bà H1 thực hiện hợp đồng cầm cố với ông Ú tại thửa
45.
- Buộc ông Ú, bà L giao trả thửa đất số 45 cho bà T.
- Ông Ú, bà L được nhận lại 100 chỉ vàng 24K và 24.000.000đ tại chi cục thi
hành án huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long.
- Án phí sơ thẩm: buộc ông Ú phải chịu 600.000 đồng, buộc bà H1 và ông H2
phải chịu 35.376.160đ.
- Án phí phúc thẩm: ông Ú, bà L không phải nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả
tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng.
Ngày 09 tháng 8 năm 2024 Tòa án nhân dân huyện Long Hồ tuyên án sơ thẩm
đến ngày 21/8/2024 ông Võ Văn Ú nộp đơn kháng cáo là còn trong thời hạn kháng
cáo theo quy định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét theo thủ
tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Võ Văn Ú, bà
Nguyễn Thị L với bà Trần Thị Hồng H1.
Ông Ú là chủ sử dụng thửa đất ruộng số 286, diện tích 3.940m2 tại xã H,
huyện L, tỉnh Vĩnh Long. Vào ngày 02/11/2015 vợ chồng ông Ú, bà L ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất trên cho bà H1 với giá 310.000.000 đồng,
hợp đồng được công chứng, bà H1 đã giao đủ tiền cho ông Ú, ông Ú đã giao đất cho
bà H1, đến ngày 01/02/2016 bà H1 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh V cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng thành thửa 45, tờ bản đồ số 12 diện tích tăng lên
bằng 4.296,4m2 (do đo đạc lại theo chương trình VLAP).
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Ú với bà H1 tuân thủ
về mặt hình thức và nội dung theo quy định tại các điều 689, 698 Bộ Luật dân sự
năm 2005 và điều 167 Luật Đất đai 2013. Do đó, có hiệu lực theo quy định tại Điều
122 Bộ luật Dân sự 2005.
Qua xác minh tại địa phương (bút lục I) cho thấy thời điểm cuối năm 2015
người dân có đất gần khu đất ông Ú chuyển nhượng cho bà H1 cũng chuyển nhượng
đất với nhau giá 80.000.000đ/công. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Ú và bà
H1 đều thừa nhận giá chuyển nhượng ghi trong hợp đồng 310.000.000đ là đúng với
giá thực tế tại địa phương.
Như vậy, có căn cứ xác định giữa ông Ú, bà L với bà H1 xác lập giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thật. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu
cầu của ông Ú và bà L về việc tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Ú, bà L với bà H1.
[2.2] Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị Hồng
H1 với bà Lê Ngọc T.
Ngày 14/9/2020, bà H1 ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất
45, diện tích 4.296,4m2 cho bà T với giá 800.000.000 đồng, hợp đồng được công
chứng, bà T đã trả đủ tiền cho bà H1 thể hiện tại 02 giấy nộp tiền tại Ngân hàng
TMCP C2 chi nhánh V1 (bút lục 204, 205) và biên nhận ngày 25/9/2020 (bút lục
207), bà H1 đã giao đất cho bà T xong và bà T được Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh V ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 30/9/2020.
Thời điểm bà H1 chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất 45 cho bà T, ông Lê
Văn H2 là chồng bà T, ông H2 trình bày ông thống nhất việc bà H1 chuyển nhượng
đất cho bà T.
Về mặt hình thức và nội dung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa bà H1 và bà T tuân thủ đúng quy định tại các điều 501, 502 Bộ luật Dân sự
2015 và Điều 167 Luật Đất đai 2013. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà H1 với bà T có hiệu lực theo quy định Điều 117 Bộ luật Dân sự
năm 2015.
Xét yêu cầu của ông Ú và bà L về việc tuyên bố vô hiệu hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa bà H1 với bà T là không có căn cứ chấp nhận.
[2.3] Xét giao dịch chuộc lại đất giữa ông Ú với bà H1 theo giấy xác nhận
ngày 02/11/2015.
[2.3.1] Thể hiện tại Giấy xác nhận giữa ông Ú với bà H1 lập ngày 02/11/2015
có nội dung: “Đến ngày 27/10/2020 bà H1 sẽ cho ông Ú chuộc lại phần đất trên với
giá 10 lượng vàng 24k để canh tác, chứ không được quyền cầm cố, chuyển nhượng
cho người khác, mọi chi phí và thuế phát sinh do ông Út C, nếu quá ngày 27/10/2020
mà ông Ú không thực hiện thủ tục nhận chuyển nhượng thì xem như tài sản nêu trên
hoàn tòan thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của bà H1. Ông Ú không có bất kỳ
khiếu nại hoặc tố cáo nào liên quan khi bà H1 thực hiện các thủ tục ký tên chuyển
nhượng phần đất nói trên cho người khác”.
Như đã nhận định tại mục [2.1], việc ông Ú, bà L chuyển nhượng quyền sử
dụng thửa đất 286 (nay là thửa 45) cho bà H1 là sự thật. Tuy nhiên, giữa ông Ú với
bà H1 có thỏa thuận về việc chuộc lại đất, theo thỏa thuận thì trong thời hạn đến
ngày 27/10/2020 bà H1 cho ông Ú chuộc lại đất với giá 10 lượng vàng 24k, bà H1
không được cầm cố, chuyển nhượng cho người khác nếu hết thời hạn trên ông Ú
không chuộc lại đất thì bà H1 có quyền chuyển nhượng thửa đất cho người khác.
Xét thấy, mặc dù giữa bà H1 và ông Ú có thỏa thuận về việc cho chuộc lại đất
theo quy định tại Điều 462 Bộ luật Dân sự 2005 (tương ứng Điều 454 Bộ luật Dân
sự năm 2015). Tuy nhiên, thời điểm bà H1 thỏa thuận cho ông Ú chuộc lại đất thì bà
H1 và ông H2 là vợ chồng. Theo quy định tại Điều 27, Điều 28 Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000 thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài
sản chung của vợ chồng; vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung, việc xác lập giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản chung có giá trị lớn phải được vợ, chồng bàn bạc thỏa thuận. Ông H2
trình bày, nguồn tiền mua đất của ông Ú là tài sản chung của vợ chồng, ông đồng ý
việc bà H1 đứng tên quyền sử dụng đất nhưng không đồng ý việc bà H1 thỏa thuận
cho ông Ú chuộc lại đất. Như vậy, Giấy xác nhận ngày 02/11/2015 về việc bà H1
cho ông Ú chuộc lại đất nhưng không có sự đồng ý của ông H2 nên bị vô hiệu theo
quy định tại Điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng Điều 123 Bộ luật Dân
sự năm 2015).
Do đó, xét yêu cầu của ông Ú về việc công nhận giao dịch chuộc lại đất giữa
ông Ú với bà H1 theo giấy xác nhận ngày 02/11/2015 có hiệu lực, buộc bà H1 giao
đất cho ông, ông giao trả bà H1 10 lượng vàng 24k là không có căn cứ chấp nhận.
[2.3.2] Giải quyết hậu quả giao dịch dân sự vô hiệu.
Theo quy định tại Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015, hậu quả pháp lý của
giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập, bên có lỗi gây thiệt hại
thì phải bồi thường.
Thiệt hại là số tiền chênh lệch giữa giá trị của 10 lượng vàng 24k với giá trị
quyền sử dụng thửa đất (giá thị trường) tại thời điểm xét xử sơ thẩm, được tính như
sau:
- Giá vàng tại thời điểm xét xử sơ thẩm (theo xác nhận của Sở Tài chính tỉnh
V tại công văn số 240/STC-GCS&TCDN ngày 21/01/2025) thì vàng 99% là
7.623.000 đồng/chỉ (100 chỉ bằng 762.3000.000 đồng).
- Giá đất các đương sự thống nhất là 360.000 đồng/m2 (4.926,4m2 bằng
1.546.704.000 đồng).
Vậy chênh lệch giữa giá vàng và giá đất là 784.404.000đ (1.546.704.000đ –
762.300.000đ = 784.404.000đ).
Như đã phân tích trên, thửa đất số 45 là tài sản chung của ông H2 và bà H1
trong thời kỳ hôn nhân, việc ông Ú và bà H1 ký giấy thỏa thuận cho ông Ú chuộc lại
đất nhưng không được sự đồng ý của ông H2 nên giao dịch vô hiệu. Như vậy, lỗi
dẫn đến giao dịch vô hiệu là của ông Ú và bà H1, cả hai đều có lỗi ngang nha nên
mỗi người phải chịu 50% thiệt hại. Do đó, bà H1 phải bồi thường 50% thiệt hại cho
ông Ú và bà L bằng số tiền 392.202.000 đồng (784.404.000đ: 2 = 392.202.000đ).
Tòa án cấp sơ thẩm xử không buộc bà H1 bồi thường thiệt hại cho vợ chồng
ông Ú là chưa đúng quy định.
Từ phân tích, chứng minh trên, xét yêu cầu kháng cáo của ông Ú và bà L có
căn cứ cháp nhận một phần. Quan điểm Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho ông Ú có căn cứ chấp nhận một phần.
[3] Về án phí:
Do sửa án sơ thẩm nên sửa lại án phí sơ thẩm: ông Ú phải chịu án phí sơ thẩm
không giá ngạch đối với yêu cầu vô hiệu hợp đồng không được chấp nhận. Bà H1
phải chịu án phí sơ thẩm tương ứng trên phần bồi thường thiệt hại cho ông Ú. Các
đương sự khác không phải chịu án phí sơ thẩm.
Án phí phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm nên người kháng cáo không phải chịu
án phí phúc thẩm.
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long có căn cứ chấp nhận
một phần.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự:
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Võ Văn Út
Sửa bản án sơ thẩm số:100/2024/DS-ST ngày 09 tháng 8 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Long Hồ.
Áp dụng: các điều 122, 128, 462, 689, 698 Bộ luật Dân sự 2005; các điều 117,
123, 131, 133, 454, 468, 501, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 167 Luật Đất đai
năm 2013, các điều 26, 31 Luật đất đai 2024; các điều 26, 29 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Ú về việc tuyên bố vô
hiệu: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết ngày 02/11/2015
giữa ông Võ Văn Ú, bà Nguyễn Thị L với bà Trần Thị Hồng H1 đối với thửa đất số
286, tờ bản đồ số 4, diện tích 3.940m2 đất ruộng, tại xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long
(nay là thửa 45, tờ bản đồ số 12, diện tích 4.296,4m2) và Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được ký kết ngày 14/9/2020 giữa bà Trần Thị Hồng H1 với bà Lê
Ngọc T đối với thửa đất số 45, tờ bản đồ số 12, diện tích 4.296,4m2 đất trồng lúa,
tại xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long .
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Ú về việc hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 45, tờ bản đồ số 12, diện tích 4.296,4m2 đất
trồng lúa, tại xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
V ký cấp cho bà Lê Ngọc T ngày 30/9/2020.
3. Công nhận phần đất thửa số 45, tờ bản đồ số 12, diện tích 4.296,4m2 đất
trồng lúa, tại xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long thuộc quyền sử dụng của bà Lê Ngọc
T.
Buộc ông Võ Văn Ú và bà Nguyễn Thị L giao trả thửa đất 45 nêu trên cho bà
Lê Ngọc T (Sơ đồ vị trí thửa đất theo trích đo bản đồ địa chính khu đất ngày
03/11/2021 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L).
Bà Lê Ngọc T có quyền, nghĩa vụ đăng ký biến động đất đai theo quy định
pháp luật.
4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Ú về việc: công nhận
cho ông quyền sử dụng thửa đất số 45, tờ bản đồ số 12, diện tích 4.296,4m2 đất trồng
lúa, tại xã H, huyện L, tỉnh Vĩnh Long, ông sẽ hoàn trả bà Trần Thị Hồng H1 10
lượng vàng (100 chỉ) 24k.
5. Tuyên bố vô hiệu giao dịch chuộc lại đất giữa ông Võ Văn Ú với bà Trần
Thị Hồng H1 theo giấy xác nhận ngày 02/11/2015.
Buộc bà Trần Thị Hồng H1 bồi thường thiệt hại cho ông Võ Văn Ú và bà
Nguyễn Thị L số tiền 392.202.000 đồng (ba trăm chín mươi hai triệu hai trăm lẻ hai
ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định Điều 357 và khoản 2
Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
6. Ông Võ Văn Ú và bà Nguyễn Thị L được nhận lại 100 chỉ vàng 24k đã nộp
tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ.
5. Án phí sơ thẩm:
5.1. Buộc ông Võ Văn Ú chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn), nhưng được trừ
vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004232
ngày 08/9/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ. Ông Ú đã nộp đủ
án phí sơ thẩm.
5.2. Hoàn trả ông Võ Văn Ú: 900.000 đồng (chín trăm ngàn) tiền tạm ứng án
phí sơ thẩm nộp ngày 17/6/2021 theo biên lai thu số 0006790 của Chi cục thi hành
án dân sự huyện Long Hồ và 24.100.000 đồng (hai mươi bốn triệu một trăm ngàn)
tiền án phí nộp theo phiếu thu ngày 24/4/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Long Hồ.
5.3. Buộc bà Trần Thị Hồng H1 chịu 19.610.000 đồng (mười chín triệu sáu
trăm mười ngàn), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm 300.000
đồng đã nộp theo biên lai thu số 0004241 ngày 21/9/2022 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Long Hồ. Bà H1 còn phải nộp thêm 19.310.000 đồng (mười chín triệu
ba trăm mười ngàn).
6. Án phí phúc thẩm: Ông Võ Văn Ú và bà Nguyễn Thị L không phải chịu án
phí phúc thẩm.
Hoàn trả ông Võ Văn Ú 300.000 đồng (ba trăm ngàn) tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm nộp ngày 21/8/2024 theo biên lai thu số 0001388 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Long Hồ.
Hoàn trả bà Nguyễn Thị L 300.000 đồng (ba trăm ngàn) tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm nộp ngày 21/8/2024 theo biên lai thu số 0001387 của Chi cục thi hành án
dân sự huyện Long Hồ.
7. Các phần khác của bản án sơ thẩm như: chi phí tố tụng không có kháng cáo,
không có kháng nghị nghị nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết lại, có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án
dân sự được sửa đổi bổ sung 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung 2014.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- VP TAND tỉnh VL;
- TAND huyện Long Hồ;
- Chi cục THADS huyện Long Hồ;
- Đương sự: Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Kim Chi
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 02/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 02/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm