Bản án số 287/2025/DS-PT ngày 10/06/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 287/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 287/2025/DS-PT ngày 10/06/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Hà Nội
Số hiệu: 287/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 10/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số: 257/2025/DS-PT
Ngày 10 tháng 6 năm 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất,
yêu cầu hủy giấy chứng nhận QSD đất,
yêu cu tuyên bgiao dch dân svô hiệu
và bồi thường thiệt hại về tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa:
Ông Nguyễn Xuân Điền
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Phan Nam
Bà Nguyễn Ngọc Hoa
Thư ký phiên tòa: Bà Chu Thị Du, Thư ký Tòa án nhân n cấp cao tại Nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thu Trang, Kiểm sát viên.
Ngày 10 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 649/2024/TLPT-DS ngày 09 tháng
12 năm 2024 v việc “Tranh chấp quyn s dụng đất; yêu cu hy giy chng nhn
quyn s dụng đất, yêu cu tuyên b giao dch dân s hiu yêu cu bồi thường
thit hi v tài sản”, do Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x s 5592/2025/QĐ-PT ngày 22 tháng 5
năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Văn Ư, sinh năm 1967, địa chỉ: thôn P, xã K, huyện
L, tỉnh Lạng Sơn.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Triệu Quang
H, Luật của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên G thuộc Đoàn Luật
sư tỉnh L.
2. Bị đơn: Ông Dương Văn K, sinh năm 1971; địa chỉ: thôn P, xã K, huyện L,
tỉnh Lạng Sơn.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Bế Quang H1 ông
Chu Thế V, Luật sư của Văn phòng L2 thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L.
2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Xuân M, Trưởng phòng Phòng Tài
nguyên và Môi trường huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
3.2. Bà Nguyễn Thị N;
3.3. Anh Dương Văn T, sinh năm 1994;
3.4. Anh Dương Văn L; vắng mặt.
Cùng địa chỉ: thôn P, xã K, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
3.5. Bà Lý Thị T1, sinh năm 1967;
3.6. Anh Tô Văn H2, sinh năm 1988;
3.7. Chị Hoàng Thị V1, sinh năm 1997;
3.8. Chị Tô Thị M1, sinh năm 1991
Cùng địa chỉ: thôn P, xã K, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
3.9. Chị Thanh T2, sinh năm 1996, địa chỉ: thôn A, T, huyện C, tỉnh
Lạng Sơn.
3.10. Chị Hồng H3, sinh năm 1990; địa chỉ: thôn N, K, huyện L, tỉnh
Lạng Sơn.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Văn H2, chị Hoàng Thị V1, chị
Thị M1, chị Thanh T2, chị Hồng H3: Ông Văn Ư, sinh năm 1967, địa chỉ:
thôn P, xã K, huyện L, tỉnh Lạng Sơn (Giấy ủy quyền ngày 09/01/2025).
4. Người làm chứng:
4.1. Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982 (Trưởng thôn Pò Khoang);
4.2. Ông Dương Văn N1, sinh năm 1986 (Công an viên thôn P);
4.3. Ông Hà Văn S, sinh năm 1959 (người uy tín trong thôn P);
4.4. Ông Tô Văn C, sinh năm 1991 (Trưởng ban CT mặt trận thôn P)
Cùng địa chỉ: thôn P, xã K, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
4.5. Ông Hoàng Văn H4, địa chỉ: Khu P, thị trấn L, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
4.6. Ông Hoàng Văn P, địa chỉ: Thôn P, xã K, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
4.7-4.15. Ông Văn L1, bà Thị B, Thị T3, ông Hoàng Văn N2,
ông Văn H5, ông Văn S1, ông Tô Văn C1, ông Văn T4, Hà Thị H6;
cùng địa chỉ: thôn P, xã K, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
5. Người kháng cáo: Ông Dương Văn K (là b đơn).
Tại phiên tòa phúc thẩm: Ông Văn Ư, ông Triệu Quang H, ông Dương
Văn K, ông Bế Quang H1, ông Chu Thế V, anh Dương Văn T, Thị T1, chị
Tô Thị M1 có mặt; các đương sự khác vắng mặt.
3
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Theo Đơn khởi kiện đề ngày 04/10/2023 và trong quá trình tố tụng tại Tòa
án, nguyên đơn là ông Tô Văn Ư trình bày:
Ông Văn Ư ông Dương Văn K tranh chấp quyền sử dụng diện tích
858,4m
2
đất, thuộc một phần thửa đất số 605 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp s
121 K (trước đây B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn; hiện trên đất không tài
sản, chỉ có các gốc thông đã khai thác gồm 26 cây đường kính gốc 14cm có giá trị
1.820.000 đồng, 22 cây đường kính gốc 28cm gtrị là 2.574.000 đồng; địa
chỉ đất tại: K, thôn P (trước đây thôn K), xã K (trước đây là xã B), huyện L, tỉnh
Lạng Sơn. Đất tranh chp vị trí: phía Bắc giáp đất rừng của ông Văn Ư đã
khai thác hết thông (ranh giới rãnh đào ngày 15/8/2023 do ông Dương Văn K tạo
lập), phía Đông giáp đất rừng ông Hoàng Văn P ranh giới rãnh đào từ lâu,
phía Nam giáp đất rừng ông Dương Văn K đã khai thác hết thông (sát lối bị đơn đi
lên rừng và đường đất bị đơn mới mở), phía Tây giáp đường dân sinh.
Đất tranh chấp nguồn gốc do bố mẹ ông Tô Văn Ư khai phá, sdụng từ lâu
giao lại cho ông Ư sử dụng từ năm 1980 để trồng sắn. Năm 1982, ông Văn
Ư, Thị T1 kết hôn cùng quản lý, sử dụng đất tranh chấp. Năm 1997, vợ
chồng ông Ư cuốc hố, trồng thông theo dự án V, trong đó trồng cả trên diện tích
đất nay đang tranh chấp nhưng không ai ý kiến hoặc tranh chấp gì; hàng năm
gia đình ông Ư trồng dặm thêm các cây thông trên đất. Ranh giới ban đầu giữa
đất do gia đình ông Ư sử dụng và đất do gia đình ông K sử dụng là phần diện tích
đất sát với lối đi lên rừng của ông K, là phần đất để trống, hai bên gia đình không
sử dụng gì. Năm 2000, gia đình ông K tự ý trồng 02 hàng cây sở trên phần đất trống
ranh giới đất của hai gia đình nên phát sinh tranh chấp. Gia đình ông Ư không
nhất trí nên đào rãnh làm ranh giới. Gia đình ông K cũng không nhất trí với rãnh
đào của gia đình ông Ư nên lấp rãnh đào của gia đình Ư, đào rãnh khác. Do hai bên
gia đình không thống nhất được ranh giới nên phát sinh tranh chấp nhưng cũng
không yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết.
Năm 2011, hộ ông Văn Ư bà Thị T1 được Uỷ ban nhân dân (UBND)
huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng (GCNQSD) đất số
BC 386141, số vào sổ cấp GCN: CH00213 ngày 10/8/2011 đối với thửa đất số 591,
tờ bản đồ số 01, diện tích 1.070m
2
, địa chỉ: thôn K, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
Đến năm 2021, ông Văn Ư tiếp tục đơn đề nghị Tổ hoà giải của thôn
hoà giải tranh chấp ranh giới đất rừng với ông Dương Văn K nng hoà giải không
thành. Gia đình ông Ư tiếp tục đơn yêu cầu giải quyết nên ngày 15/8/2023 hai
bên gia đình ông Ư gia đình ông K lập Bản cam kết về việc cắm mốc giữa hai
hộ gia đình nội dung: Sau khi cam kết, sẽ đo đạc nếu ông Văn Ư thiếu đất
theo bản đồ số 121 K thì ông Dương Văn K sẽ cho đo lên để đủ số diện tích theo
bản đồ của gia đình ông Tô Văn Ư. Nếu gia đình ông Văn Ư thừa thì gia đình
ông Dương Văn K sẽ đào lại và cắm mốc theo đã được đo đạc, trong phần đất hai
bên còn cây schặt cây giả lại đất theo đúng sổ. Bản cam kết này được thông
4
qua cho các bên ông Dương Văn K, ông Tô Văn Ư và thành phần tổ hgiải nghe,
thống nhất ký tên.
Cùng ngày 15/8/2023, sau khi ký cam kết xong thì ông Triệu Hùng D người
đo đạc xác định lại ranh giới của thửa đất số 591 gia đình ông Văn Ư
được cấp Giấy chứng nhận. Kết quả đo đạc cho thấy ranh giới đất do gia đình ông
Ư quản lý, sử dụng trên thực địa không trùng với ranh giới thửa đất số 591 trên bản
đồ ranh giới blùi sâu vphía đất do gia đình ông Ư đang quản lý, sử dụng. Sau
đó, ông K tự đào rãnh theo ranh giới của đt số 591 ông Triệu ng D cắm mốc
và chặt đi 26 cây thông đường kính gốc 14cm có giá trị là 1.820.000 đồng, 22 cây
thông đường kính gốc là 28cm có giá trị là 2.574.000 đồng. Ông Ư đã bán toàn bộ
cây thông trên diện tích đất tranh chấp và không có tranh chấp được tổng cộng số
tiền 7.000.000 đồng cho ông Hoàng Văn H4 (địa chỉ: Khu P, thị trấn L).
Ông Ư nhất trí với kết quả đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản
ngày 10/4/2024 và kết luận giám định tuổi cây thông.
Tại phiên toà sơ thẩm, nguyên đơn ông Tô Văn Ư yêu cầu Toà án giải quyết:
(1) Yêu cầu ông Văn Ư ThT1 được quản lý, sử dụng diện tích
858,4m
2
đất thuộc một phần thửa đất số 605 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp s
121 K (trước đây B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn; hiện trên đất không tài
sản, chỉ có các gốc thông đã khai thác; địa chỉ đất tại: K, thôn P (trước đây là thôn
K), xã K (trước đây là xã B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
(2) Yêu cầu huỷ GCNQSD đất hiệu BC 316783, số vào sổ cấp GCN:
CJ00391 ngày 10/8/2011 của UBND huyện L, tỉnh Lạng n cấp cho hộ ông
Dương Văn K Nguyễn Thị N đối với phn diện tích đất tranh chấp là 858,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 605 tờ bản đồ số 121 bản đồ địa chính đất lâm nghiệp
xã K, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
(3) Yêu cầu tuyên bố Bản cam kết về việc cắm mốc ngày 15/8/2023 giữa ông
Văn Ư ông Dương Văn K hiệu, không giải quyết về hậu quả không
phát sinh thiệt hại gì, về ranh giới theo ngày 15/8/2023 (do gia đình ông Dương
Văn K đào) thì gia đình ông Tô Văn Ư tự khắc phục.
(4) Yêu cầu ông Dương Văn K phải bồi thường cho hộ ông Văn Ư
Thị T1 thiệt hại về tài sản các cây thông đã khai thác ngày 15/8/2023, gồm 26
cây thông đường kính gốc 14cm có giá trị là 1.820.000 đồng, 22 cây thông đường
kính gốc là 28cm giá trị là 2.574.000 đồng theo kết quả định giá của Hội đồng
định giá. Tuy ngày 15/8/2023, ông Tô Văn Ư đã bán toàn bộ các cây thông này và
các cây thông trên diện tích đất liền kkhông có tranh chấp được tổng số tiền
7.000.000 đồng (bẩy triệu đồng) nhưng vẫn yêu cầu bồi thường.
(5) u cu giải quyết về chi phí tố tụng và án p theo quy định của pp luật.
2. B đơn là ông Dương Văn K trình bày:
Đất tranh chấp nguồn gốc của ông cha của ông Dương Văn K để lại
được ông K quản lý, sử dụng trồng thông theo Dự án V khoảng năm 1997 và tiếp
5
tục trồng dặm cây thông cho đến năm 2002, 2003. Ông K khẳng định toàn bộ 48
cây thông trên đất tranh chấp là của ông do chính gia đình ông cht 48 cây thông
này vào ngày 15/8/2023 sau khi lập biên bản thoả thuận để xác định ranh giới theo
thửa đất được cấp GCNQSD đất và người đo đạc làm rõ ranh giới thửa đất số 591
(ông Tô Văn Ư) và 605 (ông Dương Văn K) theo bản đồ. Tuy 48 cây thông là của
ông K nhưng ông K vì tình cảm hàng xóm láng giềng nên mới cho ông Ư bán các
cây thông đã chặt để trả lại đất thuộc thửa 605 cho ông K. Ông nhất trí với kết quả
đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản ngày 10/4/2024 kết luận giám
định tuổi cây thông.
Ông Dương Văn K yêu cầu Toà án giải quyết:
(1) Yêu cầu Toà án giải quyết cho hộ gia đình bị đơn được quản lý, sử dụng
diện tích 858,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 605 tờ bản đồ địa chính đất lâm
nghiệp số 121 K (trước đây là xã B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn như GCNQSD đất
gia đình bị đơn đã được cấp; giữ nguyên ranh giới đất đã xác định theo Bản cam
kết ngày 15/8/2023.
(2) Không chấp nhận bồi thường tiền cây thông đã khai thác trên đất cho ông
Tô Văn Ư vì ông Ư đã bán cây và được hưởng toàn bộ tiền bán cây.
(3) Yêu cầu giải quyết về chi phí tố tụng, án phí, nghĩa vụ chịu lãi suất chậm
trả theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, ông Dương Văn K ng trình bày không tranh chấp về cây thông
trên đất tranh chấp tiền bán các cây thông này, đồng ý để ông Văn Ư được
hưởng toàn bộ tiền bán cây thông đã cht trong diện tích đất thuộc GCNQSD đất
của bị đơn. Ông K mong muốn được trả lại đất theo ranh giới của GCNQSD đất
thuộc thửa đất số 605 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 121 xã K (trước đây
xã B) và bản cam kết đã ký ngày 15/8/2023.
3. Ý kiến ca những người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Người đại diện hợp pháp của Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn
trình bày:
UBND huyện L xác định đã thực hiện cấp GCNQSD đất ký hiệu BC 316783,
số vào scấp GCN: CJ00391 ngày 10/8/2011 cho hộ ông ơng Văn K
Nguyễn Thị N đối với thửa đất số 605 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 121
K (trước đây xã B) theo quy định tại Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-
CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai; xác định hồ đủ
điều kiện cấp GCNQSD đất cho hộ ông Dương Văn K theo quy định. Đồng thời,
trên sở yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ của UBND huyện L, tại Công văn số
60/CV-HKL ngày 14/6/2024 của Hạt Kiểm lâm huyện L cung cấp thông tin và tài
liệu thể hiện: Ông Tô Văn Ư được thiết kế 07 lô tại khoảnh 1, gồm các lô: 5a, diện
tích 0,89 ha; 5b, diện tích 0,20 ha; 11a, diện tích 0,10 ha; 11b, diện tích 0,37
ha; 14a, diện tích 0,37 ha; 14b, diện tích 0,28 ha; 14c, diện tích 0,28 ha.
Ông Dương Văn K được thiết kế 01 lô tại khoảnh 1: lô 22, diện tích 0,34 ha.
6
3.2. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng cùng phía
nguyên đơn gồm:Lý Thị T1, anh Văn H2, chị Hoàng ThV1, chị Thị M1
cùng ý kiến, yêu cầu với ông Tô Văn Ư.
3.3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng cùng phía
bị đơn gồm: Nguyễn Thị N, anh Dương Văn T anh Dương Văn L cùng ý kiến,
yêu cầu với ông Dương Văn K.
4. Ý kiến của những người làm chứng:
4.1. Ông Nguyễn Văn Đ (trưởng thôn P), ông Dương Văn N1 (Công an viên
thôn P), ông Văn S (người uy tín trong thôn P), ông Văn C (trưởng ban công
tác mặt trận thôn P) đều trình bày:
Nội dung tranh chấp ban đầu là ranh giới đất rừng giữa ông Tô Văn Ư ông
Dương Văn K, vị trí là tại lối đi lên rừng của ông Dương Văn K và đường rãnh thể
hiện trên trích đo khu đất được xác định bằng đường nối các điểm A2-A3-A4-A5-
A6-A7-A8. Cũng tại đây còn một số cây sở nhưng đã bchặt, do ông K làm
đường nên không còn gốc, chỉ có thể xác định vị trí ở đường đất do ông K mới mở.
Rừng thông của ông Ư và ông K nằm ở hai bên của ranh giới này. Do có bản cam
kết ngày 15/8/2023 và việc xác định ranh giới đất của người đo đạc do ông Ư thuê
nên ranh giới mới (do gia đình bị đơn ông K tự đào rãnh) đã lùi xuống phần diện
tích đất do gia đình ông Ư quản lý, sử dụng trồng cây thông từ lâu. Người làm
chứng khẳng định những cây thông đã khai thác trên phần diện tích đất tranh chấp
hiện nay là của gia đình ông Ư trồng. Ti thời điểm lập bản cam kết ngày 15/8/2023
thì gia đình ông K không tranh chấp gì các cây thông này, thừa nhận toàn bộ cây
thông trên đất tranh chấp đều là của gia đình ông Ư. Chính gia đình ông K đã chặt
các cây thông của gia đình ông Ư trồng nhưng qua đo đạc thì thuộc GCN của ông
K để lấy đất theo GCN của ông K. Sau đó, gia đình ông Ư cũng đã bán các cây
thông trên đất tranh chấp, nhận tiền bán cây không tranh chấp với ông K
về cây thông và tiền bán cây.
4.2. Ông Hoàng Văn P (người đất giáp ranh với đất tranh chấp) ông
Hoàng Văn H4 (người mua cây tng với ông Tô Văn Ư): Quá trình giải quyết vụ
án, Toà án đã triệu tập những người làm chứng trên là đến Toà án để cung cấp lời
khai nhưng họ không chấp hành.
Cả nguyên đơn bị đơn đều đưa thêm một số người làm chứng quan hệ
họ hàng nhưng đều không tham gia phiên toà, chỉ lời khai được chính các đương
sự thu thập nộp cho Toà án.
5. Kết quả thu thập chứng cứ của Toà án:
5.1. Kết quả giám định số 664/CNR-VP ngày 27/8/2024 của Viện nghiên cứu
công nghiệp rừng thuộc V2 Kết luận giám định pháp trong lĩnh vực lâm
nghiệp số 15-2024/KL/GĐCN ngày 27/8/2024 của giám định viên Triệu Lương H7
thể hiện “Mẫu T5 tuổi là: 18 + 1 năm tuổi, tương ứng với năm trồng năm
2005. Trong đó sai số được tính thể năm 2004 hoặc năm 2006. Thời điểm tính
tuổi cây là năm 2023 (Do cây lấy mẫu đã bị khai thác từ năm 2023)”.
7
5.2. Chi nhánh Văn phòng Đăng đất đai huyện L đã Công văn số
523/CV-CNLB ngày 26/8/2024 về kết quả kiểm tra, soát, thu thập hồ địa chính
lưu tại Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện L: Không hồ lưu đối với GCNQSD
đất số vào sổ 55198 ngày cấp 10/10/1999 do UBND huyện L cấp cho hộ ông Dương
Văn K và bà Nguyễn Thị N. Ngoài ra, Chi nhánh Văn phòng đất đai huyện L cung
cấp hồ cấp Hồ cấp GCNQSD đất hiu BC 386141, số vào sổ cấp GCN:
CH00213 ngày 10/8/2011 đối với thửa đất số 591 tờ bản đồ số 01, diện tích 1070m
2
,
địa chỉ: thôn K, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn do UBND huyện L cấp cho hộ ông
Tô Văn Ư và bà Lý Thị T1 (đây là hồ sơ cấp mới GCNQSD đất).
5.3. Tại Công văn số 2327/SNN-KL ngày 20/9/2024 của Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn tỉnh L cung cấp thông tin như sau:
Theo Hồ thiết kế trồng rừng năm 1997 B, huyện L, tại biểu tính diện tích
trồng rừng theo hộ gia đình có tên ông Tô Văn Ư và ông Dương Văn K. Cụ thể:
Văn Ư được thiết kế tại khoảnh 1 với tổng diện tích thực trồng 2,18ha gồm các
52 (0,89 ha); lô 5B (0.20 ha); lô Ila (0,10 ha), lô 11b (0,24 ha), lô 14a (0.37 ha); 16
14b (0.28 ha): 16 14c (0,10 ha). Dương Văn K được thiết kế tại khoảnh 1 lô 22 với
diện tích thực trồng là 0,34 ha.
Theo quy định của Dự án trồng rừng V, người dân tham gia dự án được cấp
GCNQSD đất theo Luật Đất đai. Hiện nay Hạt Kiểm lâm huyện L đang lưu giữ 01
Sổ lâm bạ (theo dõi cấp sổ bìa xanh) bản đồ hiện trạng giao đất lâm nghiệp của
B, huyện L, giao năm 1992. Kết quả tra cứu thông tin tại sổ Lâm bạ năm 1992
tên ông Văn Ư ông Dương Văn K. Cụ thể: Ông Văn Ư được giao 02 số
hiệu trên bản đồ địa chính với tổng diện tích 0,84 ha rừng sản xuất tại tiểu khu C
trong đó: số hiệu 57 (0,55 ha rừng trống Hồi tại địa danh Tềnh Bó); số hiệu 75 (0,29
ha đất trống tại địa danh C). Ông Dương Văn K được giao số hiệu trên bản đồ địa
chính số 59, với tổng diện tích giao 0,53 ha thuộc loại rừng sản xuất, diện tích
rừng trông 0,53 ha tại tiểu khu C tại địa danh Pàn Shác. Năm 1996, 1997 không
thực hiện việc giao đất lâm nghiệp ở xã B.
6. Ti Bn án dân s thẩm s 19/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024,
Tòa án nhân dân tnh Lạng Sơn đã quyết đnh:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 37, Điều 39, Điều 147, Điều 157,
Điều 158, Điều 165, Điều 166, khoản 2 Điều 227, Điều 228, khoản 2 Điều 229,
Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ vào Điều 32, điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính.
Căn cứ vào các Điều 160, 161, 163, 164, 166, 189, 221, 357, 468, 584, 585,
586, 589 Bộ luật Dân sự.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 2 Lut Đất đai năm 1993; Điều 51 Luật Đất đai năm
2003; khoản 1, 2 Điều 26, Điều 99, Điều 102, điểm d khoản 2 Điều 106, Điều 166,
Điều 170, Điều 203 Luật Đất đai năm 2013.
Căn cứ khoản 1, 2 4 Điều 26, khoản 1 điểm a khoản 2 Điều 27 Ngh
quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
8
khoá 14 quy định về án phí và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Ư v
quyền quản lý, sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và yêu cầu
huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ông Văn Ư Thị T1 được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất
858,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 605 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 121
K (trước đây B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn; mục đích sử dụng RSX (đất
rừng sản xuất); Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng n cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hiệu BC 316783, số vào sổ cấp GCN: CJ00391 ngày
10/8/2011 cho hộ ông Dương Văn K Nguyễn Thị N; hiện trên đất không
tài sản, chỉ các gốc thông đã khai thác; địa chỉ đất tại: K, thôn P (trước đây
thôn K), xã K (trước đây là xã B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn; diện tích đất được xác
định bởi các đỉnh thửa nối các điểm A1-A2-A3-A4-A5-A6-A7-A8-A9-A10-A11-
A12 thể hiện tại Phụ lục kèm theo bản án do Công ty Cổ phần T6 Lạng Sơn cung
cấp.
Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ký hiệu BC 316783, số vào sổ cấp
GCN: CJ00391 ngày 10/8/2011 của Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp
cho hộ ông Dương Văn K và bà Nguyễn Thị N quyền quản lý, sử dụng thửa đất số
605 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 121 xã K (trước đây xã B), huyện L,
tỉnh Lạng Sơn.
Tuyên bố Bản cam kết về việc cắm mốc ngày 15/8/2023 giữa ông Tô Văn Ư
và ông Dương Văn K vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tô Văn Ư về việc
buộc bị đơn ông Dương Văn K bồi thường thiệt hại về tài sản là các cây thông đã
khai thác ngày 15/8/2023 gồm: 26 cây đường kính gốc 14cm giá trị là 1.820.000
đồng, 22 cây đường kính gốc là 28cm có giá trị là 2.574.000 đồng.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định v nghĩa vụ chu lãi sut trong
trường hợp người phi thi hành án chm tr s tin phi thi hành án còn lại; nghĩa
v chu án phí dân s sơ thẩm và chi phí t tng; ph biến quyn kháng cáo và th
tc thi hành bn án dân s cho các đương sự theo quy đnh.
7. Kháng cáo: Ngày 08/10/2024, b đơn là ông Dương Văn K đơn kháng
cáo đối vi toàn b bn án sơ thẩm; yêu cu Tòa án cp phúc thm hy toàn b Bn
án sơ thẩm để gii quyết li v án.
8. Ti phiên tòa phúc thm:
8.1. Nguyên đơn ông Văn Ư giữ nguyên đơn khởi kiện phát biểu ý
kiến: Đất của tôi bên trái đường mòn, đất của ông K bên phải đường mòn. Việc
trồng cây dự án mọi người dân làng biết, tôi chỉ sử dụng khuôn viên gia đình tôi sử
dụng, không lấn chiếm, đất vẫn nguyên bản, cây tôi trồng thì bên bị đơn cắt, việc
cấp GCNQSD đất chồng lấn do chính quyền, gia đình tôi sdụng đt ổn định.
Tôi không đồng ý kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
9
8.2. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn là Luật sư Triệu
Quang H trình bày ý kiến:
Tôi đã cung cấp cho Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thêm tài liệu căn
cứ chứng minh để giải quyết vụ án đảm bảo khách quan, đy đtoàn diện vụ án,
đó tài liệu chứng minh quyền quản lý sử dụng đất tranh chấp 858,4m
2
bị cấp
chồng lấn vào thửa đất số 605, bản đồ địa chính đất lâm nghiệp số 121 của ông
Dương Văn K và vợ là Nguyễn Thị N gồm:
1. Vi bng số 21/2025/VB-TPL ngày 06/3/2025 do Văn phòng T7 lập ghi nhận
toàn bộ nội dung hình ảnh, video thể hiện rõ ranh giới giữa đất của nhà ông Dương
Văn K đã được xác định bằng rãnh hào lối mòn đã từ lâu (từ thời kỳ pháp
thuộc đã có) đi lên thửa đất của ông K, ở phía trên rãnh hào, dưới lối mòn là phần
đất quản sử dụng của ông Tô Văn Ư. Khi ông K khai thác gỗ thì phần rừng thông
của nhà ông Ư vẫn còn; vào năm 2021 ông K đã làm đường và đào rãnh hào để tự
xác định ranh giới quản lý, sử dụng giữa hai bên. Phần phía trên rãnh hào theo hình
ảnh là toàn bộ cây thông của gia đình ông K đã khai thác, toàn bộ rừng thông nhà
ông Ư vẫn còn trước khi bị ông K chặt phá.
2. Biên bản lấy lời khai của ông Văn S nguyên là Trưởng thôn năm 1997
người trực tiếp dẫn đoàn của Tổng cục địa chính đi thực địa lập bản đồ trồng
rừng theo dự án V khẳng định phía trên từ lối mòn trở lên ông K thực tế quản lý,
sử dụng; phía dưới lối mòn là ông Ư quản lý sử dụng. Việc cấp GCNQSD đất thời
điểm đó cấp cho đất lâm nghiệp, quá trình cấp vic đo đạc hầu hết là do chỉ dẫn cấp
đồng loạt theo dự án nên nhiều sai sót, không chính xác. Đối với việc cấp đất
lâm nghiệp không có chỉ riêng gia đình nhà ông Ư, nhà ông K việc này xảy ra
rất nhiều trên địa bàn trong huyện L nói riêng và các huyện, thị khác trong địa bàn
tỉnh Lạng Sơn đã cấp chồng lấn, sai đối ợng quản sử dụng rất nhiều cũng
nguyên nhân dẫn đến những tranh chấp về đất đai. Đây cũng là vấn đề các cơ quan
quản đất đai đang từng bước tháo gỡ điều chỉnh, cũng như quan Tòa án
cũng phải giải quyết rất nhiều vụ do việc cấp GCNQSD đất thời kỳ đó còn sơ sài,
không có các thiết bị hiện đại để đo đạc như ngày nay. Người dân sử dụng đất đến
đâu thì quản lý đến đó, có xác nhận ranh giới. Từ đường mòn hất lên đất ông K sử
dụng, việc cấp GCNQSD đất, tôi cũng yêu cầu hủy đcấp li theo đúng sử dụng
thực tế.
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
8.3. Bị đơn có kháng cáo là ông Dương Văn K giữ nguyên đơn kháng cáo.
8.4. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kháng cáo là Luật
Bế Quang H1 trình bày ý kiến:
Tại phiên tòa ngày 27/02/2025, tôi đã nêu căn cứ kháng cáo đề nghị hủy
bản án sơ thẩm. Tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn cung cấp thêm tài liệu mới; bên
bị đơn chúng tôi đã giao nộp bổ sung GCNQSD đất cấp năm 1999 đứng tên ông
Dương Văn C2 (em ruột của ông K) kèm theo đơn trình bày của ông C2 về nguồn
10
gốc đất của ông C2 và của ông K. Theo đó, đất rừng K, xã B (nay là xã K) của gia
đình ông K trước đây do ông C2 đứng tên trong Sổ xanh, sau đó được cấp Sđỏ,
đến năm 2008 thì ông C2 tách ra cho ông K diện tích 6.323m
2
đất để khai cấp
GCNQSD đất lần đầu năm 2009. Điều này phù hợp với lời trình bày của chúng tôi
tại phiên tòa phúc thẩm ngày 27/02/2025. Những ý kiến khác liên quan đến vụ án
mà chúng tôi đã trình bày tại phiên tòa ngày 27/02/2025 chúng tôi vẫn giữ nguyên,
không thay đổi.
Bản án sơ thẩm cho rằng đất của ông Ư thửa 588 lấn sang, tôi cho rằng
quan hệ khác. Ranh giới đất giữa ông Ư ông K đã được hai bên xác lập năm
2008. Căn cứ vào Bút lục 136, ông Ư đã vào chứng cứ quan trọng, sở
phân định. Chứng cứ vi bằng mà bên nguyên đơn tthu thập dựng lại ranh giới đất
hiện không n y cối theo lời dẫn của người nhà nguyên đơn không khách
quan, không giá trị chứng minh. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
chứng cứ vi bằng này.
Các tài liệu chứng cứ thu thập được từ quan quản đt đai đều cho thấy
việc cấp GCNQSD đất cho ông Dương Văn K đúng trình tự, thủ tục, đúng đối
tượng, đúng pháp luật về đất đai. Do vậy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của
nguyên đơn được quản lý sử dụng đất tranh chấp và hủy GCNQSD đất của ông K.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, giao quyền quản lý sử dụng đất tranh chấp cho bị đơn Dương Văn K
quản lý sử dụng theo GCNQSD đất đã được cấp.
8.5. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Nội tham
gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án cấp
phúc thẩm: Những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đvà đúng các thủ tục
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
một số người tham gia tố tụng đúng theo quy định tại Điều 296 của Bộ luật Tố
tụng dân sự; những người tham gia tố tụng chấp hành nội quy phiên tòa thực
hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng.
Về việc giải quyết vụ án: Ông Dương Văn K kháng cáo yêu cầu hủy toàn bộ
Bản án thẩm để giải quyết lại vụ án nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, ông K
người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông K thay đổi u cầu kháng cáo
đề nghị sửa bản án thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giao quyền
quản sdụng đất tranh chấp cho bị đơn Dương n K quản sử dụng theo
GCNQSD đất đã được cấp. Xét thấy: Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận
một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Ư về yêu cầu tuyên bố
giao dịch dân sự vô hiệu, được quyền quản lý sử dụng diện tích 858,4m
2
đất tranh
chấp huGCNQSD đất do UBND huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp cho hộ ông
Dương Văn K, bà Nguyễn Thị N đối với thửa đất số 605; không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Văn Ư về việc buộc bị đơn ông Dương Văn K bồi thường
thiệt hại về tài sản các cây thông đã khai thác ngày 15/8/2023 giải quyết những
nội dung liên quan trong vụ án đúng quy định của pháp luật. Xem xét các
11
tài liệu và ý kiến của ông K, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông K
giao nộp, trình bày tại phiên tòa phúc thẩm thì không schứng minh cho
kháng cáo của ông K là có căn cứ pháp luật. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn
cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của
ông Dương Văn K và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu, chng cứ đã được xem xét tại phiên tòa; ý kiến của
các đương sự; ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các đương
sự, của những người tham gia tố tụng khác ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu
tại phiên tòa,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Nguyên đơn ông Văn Ư cho rằng toàn bộ diện tích đất tranh chấp
(858,4m
2
) cùng với diện tích 1.070m
2
đất tại thửa đất số 591, tờ bản đồ số 01 đã
được cấp GCNQSD đất ngày 10/8/2011 nguồn gốc do bố mẹ ông Tô Văn Ư khai
phá, sử dụng từ trước năm 1980 và giao lại cho vợ chồng ông Ư sử dụng để trồng
sắn. Năm 1997, vợ chồng ông Ư trồng thông theo dự án V trên toàn bộ khu đt
đang tranh chấp và không tranh chấp, hàng năm có trồng dặm thêm các cây tng
trên đất. Ranh giới ban đầu giữa đất do gia đình ông Ư sử dụng và đất do gia đình
ông Dương Văn K sử dụng là phần diện tích đất sát với lối đi lên rừng của ông K,
là phần đất để trống, hai bên gia đình không sử dụng gì. Năm 2000, gia đình ông K
tự ý trồng 02 hàng cây sở trên phần đất trống là ranh giới đất của hai gia đình nên
phát sinh tranh chấp, gia đình ông Ư không nhất trí nên đào rãnh làm ranh giới.
Ông Ư khẳng định toàn bộ các gốc thông đã khai thác trên diện tích đất tranh chấp
gồm 26 cây đường kính gốc 14cm và 22 cây đường kính gốc 28cm do gia đình ông
K đã chặt ngày 15/8/2023 là của gia đình ông Ư trồng.
Bị đơn là ông Dương Văn K xác định diện tích đất tranh chấp nguồn gốc
cũng là của ông cha của ông K để lại và được ông K quản lý, sử dụng trồng thông
theo Dự án V khoảng năm 1997, sau đó tiếp tục trồng dặm cây thông cho đến năm
2002, 2003. Ông K khẳng định toàn bộ 48 cây thông trên đất tranh chấp là của gia
đình ông trồng và do chính gia đình ông chặt vào ngày 15/8/2023 sau khi lập biên
bản thoả thuận đxác định ranh giới theo thửa đất được cấp GCNQSD đất người
đo đạc làm ranh giới thửa đất số 591 (của hộ ông Văn Ư), thửa đất số 605
(của hộ ông Dương Văn K) theo bản đồ. Tuy 48 cây thông là của ông K nhưng ông
K vì tình cảm hàng xóm láng giềng nên mới cho ông Ư bán các cây thông đã chặt
để trả lại diện tích đất thuộc thửa 605 cho ông K.
Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thì diện tích đất tranh chấp 858,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 605, diện tích 6.327m
2
đã được UBND huyện L cấp
GCNQSD đất ngày 10/8/2011 cho hộ ông Dương Văn K, Nguyễn Thị N; liền
kề với thửa đất số 591, din tích 1.070m
2
đã được UBND huyện L cấp GCNQSD
đất ngày 10/8/2011 cho hộ ông Tô Văn Ư,Lý Thị T1.
12
Xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy:
[1] Theo lời trình bày của ông Văn Ư thì vào những năm 2000, do gia đình
ông Dương Văn K t ý trồng 02 hàng cây strên phần đất trống ranh giới đất
của hai gia đình nên phát sinh tranh chấp nhưng hai bên không yêu cầu chính quyền
giải quyết. Ngày 14/7/2023, ông Ư có đơn trình bày gia đình ông có thửa đất rừng
số 591, tờ bản đồ số 1, diện tích 1.070,0m
2
, giữa gia đình ông gia đình ông
Dương Văn K chưa xác định được ranh giới chính xác giữa hai khu rừng gần sát
nhau. Đề nghị Tổ hòa giải thôn P, xã K kết hợp với cán bộ địa chính sử dụng máy
đo đạc xác định đúng ranh giới, vị trí thửa đất của gia đình ông, tránh tình trạng xô
sát giữa hai gia đình (bút lục: 352).
[2] Ngày 15/8/2023, Tổ hòa giải gồm các ông Nguyễn Văn Đ (Trưởng thôn),
ông Dương Văn N1 (Công an viên thôn), ông Hà Văn S (người uy tín trong thôn),
ông Triệu Hồng D1 (Cán bộ đo đạc) đã lập Bản cam kết “V/v cắm mốc giữa hai hộ
gia đình ông Văn Ư ông Dương Văn Kvới nội dung: “Ý kiến ông Dương
Văn K, làm Biên bản cam kết xong, đo đạc, nếu ông Ư thiếu đất theo Bản đồ số 121
K thì ông K sẽ cho đo lên để đủ số diện tích theo bản đồ của gia đình ông Ư.
Nếu gia đình ông Ư thừa thì gia đình ông K sẽ đào hào và cắm mốc theo đã được
đo đạc, trong phần đất hai bên còn cây sẽ chặt cây giả lại đất theo đúng
sổ…”. Biên bản chữ ký của ông Nguyễn Văn Đ dưới mục “Người lập cam kết”,
ông Triệu Hùng D ới mục “Đại diện người đo đạc” và “thực hiện cắm mốc theo
GCN”, ông Dương Văn K và ông Tô Văn Ư (bút lục: 26).
[3] Tiếp theo sau đó, tại Biên bản về việc xác minh hiện trạng tranh chấp đất
rừng tại thôn P do đại diện UBND đại diện các đoàn thể, quan chuyên môn
K lp ngày 11/9/2023 thể hiện: Phía ông Ư, T1 yêu cầu kiểm tra lại hiện trạng
sử dụng đến đâu thì gia đình sử dụng đến đó… số cây thông theo Biên bản sẽ
chặt nhưng gia đình ông không mời gia đình ông K chặt. Còn phía ông K yêu
cầu thực hiện theo Bản cam kết về việc cắm mốc ngày 15/8/2023 (bút lục: 17-20).
[4] Ti Biên bản hòa giải tranh chấp đất đai do UBND xã K lập ngày
05/10/2023 thể hiện: Bà T1 và ông Ư trình bày ý kiến không nhất trí với Bản cam
kết về việc cắm mốc ngày 15/8/2023 với do rừng thông của gia đình ông bà
trồng từ năm 1997 đến nay. Phía ông K anh T (con ông K) trình bày gia đình
không tranh chấp với ông Ư ông Ư tự tranh chấp mời bên đo đạc về xác định
ranh giới, đã lập Bản cam kết được hai bên đồng ý vào biên bản, về số cây không
phải do gia đình tý chặt, đề nghị thực hiện theo Bản cam kết ngày 15/8/2023, yêu
cầu các cơ quan có thẩm quyền xác minh xem cây sở gia đình ông trồng ở đâu (bút
lục: 72,73).
[5] Tại Biên bản lấy lời khai của người làm chứng do Tòa án nhân dân huyện
Lộc Bình lập ngày 11/6/2024 thể hiện các ông Nguyễn Văn Đ (Trưởng thôn), ông
Dương Văn N1 (Công an viên), ông Văn S (người uy tín trong thôn), ông
Văn C (Trưởng Ban công tác mặt trận) trình bày:
“Chúng tôi thuộc tổ hòa giải của tn PNăm 2023, chúng tôi nhận được
đơn của ông Văn Ư về tranh chấp ranh giới đất với ông Dương Văn K… Nội
13
dung tranh chấp ban đầu là ranh gii đất rừng giữa ông Tô Văn Ưông Dương
Văn K, vị trí tại lối đi lên rừng của ông Dương Văn K đường rãnh thể hiện
trên trích đo khu đất được xác định bằng đường nối các điểm A2-A3-A4-A5-A6-
A7-A8. Cũng tại đây còn có một số cây sở nhưng đã bị chặt, do ông K làm đường
nên không còn gốc, chỉ có thể xác định vị trí ở đường đất do ông K mới mở. Rừng
thông của ông Ư ông K nằm hai bên của ranh giới này. Do bản cam kết
ngày 15/8/2023 việc xác định ranh giới đất của người đo đạc do ông Ư thuê nên
ranh gii mới (do gia đình bị đơn ông K tự đào rãnh) đã lùi xuống phần diện tích
đất do gia đình ông Ư quản lý, sử dụng trồng cây thông từ lâu... Chúng tôi khẳng
định tranh chấp ban đầu giữa ông Văn Ư ông Dương Văn K chỉ tranh
chấp ranh giới đất tại vị trí lối lên rừng như đã trình bày trên… những cây thông
đã khai thác trên phần diện tích đất tranh chấp hiện nay của gia đình ông Ư
trồng. Tại thời điểm lập bản cam kết ngày 15/8/2023 thì gia đình ông K không
tranh chấp gì các cây thông này, thừa nhận toàn bộ cây thông trên đất tranh chấp
đều của gia đình ông Ư. Sau đó, gia đình ông Văn Ư cũng đã bán các cây
thông trên đất tranh chấp, nhận tiền bán cây và không có tranh chấp gì với ông K
về cây thông và tiền bán cây thông” (bút lục: 128,129).
[6] Trên cơ snhững tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của các đương sự, của
những người làm chứng đã nêu trên; kết hợp vi việc đánh giá, sử dụng chng
cứ của Tòa án cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử xét thấy:
Hộ gia đình ông Tô Văn Ư hộ gia đình ông Dương Văn K sử dụng đất liền
kề với nhau đều trồng thông vào khoảng năm 1997, sau đó trồng dặm thêm
thay thế những cây bị chết. Sự việc tranh chấp về quyền sử dụng đất giữa hộ ông
Tô Văn Ư với hộ ông Dương Văn K ban đầu (trước ngày 15/8/2023) chỉ xuất phát
từ việc hai bên không tự xác định được vị trí, ranh giới đất giữa hai gia đình tại lối
đi lên rừng của ông Dương Văn K và đường rãnh (thể hiện trên Mảnh trích đo khu
đất là đoạn tiếp giáp từ điểm A2 đến điểm A8).
Do cả hai bên gia đình đều đã GCNQSD đất nhưng chưa ranh giới đất
nên ông Ư đã mời Tổ hoà giải của thôn cán bộ đo đạc đến xác định ranh giới
giữa thửa đất số 591 của ông Tô Văn Ư thửa đất số 605 của gia đình ông Dương
Văn K trên thực địa. Tuy nhiên, trước khi đo đạc thì ông Dương Văn K và ông
Văn Ư tự thoả thuận căn cứ vào diện tích đất tại GCNQSD đất, kết quả xác định
ranh giới hai thửa đất 591 và 605 đến đâu thì các bên tự chặt cây, trả đất cho nhau
(đã lập Bản cam kết ngày 15/8/2023). Kết quả khi đo đạc thì xác định thửa đất s
605 một phần diện ch đã bao trùm lên phần diện tích đất ông Văn Ư
quản lý, sử dụng trồng tng từ trước đến nay (kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ
xác định có diện tích là 858,4m
2
). Ngay sau đó, gia đình ông Dương Văn K đã tự ý
chặt toàn bộ cây thông trên phần đất này và đào rãnh mới theo ranh giới mới.
Sự việc ông Văn Ư quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp trồng
thông từ trước đến nay được những người làm chứng (là những người tham gia T
hòa giải, lập Bản cam kết ngày 15/8/2023 nêu ở trên) xác nhận. Phía gia đình ông
K cũng không ý kiến vsố cây thông trồng trên đt (khi lập Bản cam kết ngày
14
15/8/2023 và sau khi ông K đã chặt, ông Ư bán cây) và trong quá trình UBND
K giải quyết tranh chấp sau này theo Biên bản xác minh lập ngày 11/9/2023, Biên
bản hòa giải tranh chấp đất đai lập ngày 05/10/2023.
Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xác định gia đình ông Văn Ư đã có quá trình
quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp lâu dài, ổn định, đã trồng cây thông trên
đất và có ranh giới với phần đất do gia đình ông Dương Văn K quản lý, sử dụng là
con đường do bị đơn ông Dương Văn K mở trên vị trí từng có rãnh đào và các cây
sở do bị đơn trồng trước đó. Gia đình ông Dương Văn K thì chỉ căn cứ vào diện
tích đất đã được cấp GCNQSD đất ngày 10/8/2011 và Bản cam kết ngày 15/8/2023
với nội dung đã nêu tại mục [2] trên để xác định diện tích đất tranh chấp của
gia đình ông K; còn lời trình bày của ông K về nguồn gốc, quá trình quản sử
dụng đất không phù hợp với lời khai của những người làm chứng, không phù
hợp với kết luận giám định về tuổi cây, ranh giới mới thì được tạo lập sau ngày
15/8/2023. Từ đó kết luận việc UBND huyện L cấp GCNQSD đất ngày 10/8/2011
cho hộ ông Dương Văn K và bà Nguyễn Thị N quyền sử dụng thửa đất số 605 tuy
đúng trình tự, thủ tục nhưng không đúng đối tượng sử dụng đất căn cứ, phù
hợp với diễn biến khách quan việc quản lý, sử dụng đất của hai gia đình.
[7] Đối với Bản cam kết về việc cắm mốc giữa hai hộ gia đình ông Tô Văn Ư
ông Dương Văn K ngày 15/8/2023 được ông K, ông Ư thành phần Tổ hoà
giải thống nhất ký tên: Tòa án cấp sơ thẩm xác định do ông Văn Ư tự ý đại diện
hộ gia đình thoả thuận xác định ranh giới đất chưa sự bàn bạc, thống nhất
với các thành viên khác trong gia đình là đúng nhưng chưa đầy đủ, bởi vì Bản cam
kết này không phải là quyết định về việc giải quyết đất đai của cơ quan Nhà nước
thẩm quyền ngay sau đó gia đình ông Văn Ư đã không nhất trí với Bản
cam kết này, đồng thời đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định tuyên bố Bản cam kết về việc
cắm mốc ngày 15/8/2023 giữa ông Văn Ư và ông Dương Văn K hiệu đồng
nghĩa với việc xác định Bản cam kết không phát sinh hiệu lực căn cứ pháp
luật.
[8] Về yêu cầu của ông Tô Văn Ư được bồi thường đối vi các cây thông do
gia đình ông K đã chặt: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định mặc dù gia đình ông Dương
Văn K chặt các cây thông trên đất nhưng do giữa ông Tô Văn Ư ông Dương
Văn K đã có sự thỏa thuận tại Bản cam kết ngày 15/8/2023. Sau đó, ông Văn Ư
đã nhận tiền bán toàn bộ cây thông nên thực tế ông Ư không bị thiệt hại về tài sản;
bản thân ông Dương Văn K không có tranh chấp gì về tiền bán cây thông trên đất
với ông Tô Văn Ư. Từ đó, đã quyết định không chấp nhận yêu cầu của ông Tô Văn
Ư về việc buộc ông Dương Văn K bồi thường thiệt hại đối với các cây thông bị
chặt là có cơ sở.
[9] Tổng hợp những nội dung phân tích ở trên và ý kiến của Kiểm sát viên đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu tại phiên tòa, Hội đồng
xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở kết luận:
15
Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
ông Văn Ư về việc được quyền sdụng diện tích 858,4m
2
đất tranh chấp huỷ
GCNQSD đất của UBND huyện L cấp ngày 10/8/2011 cho hộ ông Dương Văn K
và bà Nguyễn Thị N đối với thửa đất số 605; không chấp nhận yêu cầu của ông Ư
về việc buộc bồi thường giá trị các cây thông đã bị chặt trên đất tranh chấp và giải
quyết các nội dung khác liên quan hoàn toàn căn cứ, phù hợp với những
tình tiết khách quan của vụ kiện và quy định của pháp luật.
Ông Dương Văn K kháng cáo toàn b bản án sơ thẩm nhưng những lý do ông
K trình bày trong đơn kháng cáo cũng như nhng ý kiến ca ông K người bo
v quyn, li ích hp pháp ca ông K trình bày ti phiên tòa phúc thm không
căn c pháp luật; đối vi mt s tài liu do ông K mi giao nộp đã được xem
xét tại phiên tòa thì cũng không đ sở để chứng minh gia đình ông K đưc
quyn s dng hp pháp diện tích đất tranh chấp. Do đó, kháng cáo của ông Dương
Văn K không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tuy nhiên, như những nội dung đã phân tích ở trên thì có cơ sở xác định việc
UBND huyện L đã cấp GCNQSD đất số BC 386141 ngày 10/8/2011 đối với thửa
đất số 591 tờ bản đồ số 01, diện tích 1070m
2
cho hộ ông Tô Văn Ư, bà Lý Thị T1
cũng không đúng diện tích đất thực tế gia đình quản lý, sử dụng. Tòa án cấp
thẩm không quyết định hủy GCNQSD đất này chưa đúng quy định tại Điều 34
của Bộ luật Tố tụng dân sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản
2 Điều 308 Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự để sửa một phần Bản án
thẩm bổ sung nội dung này cho đúng pháp luật.
[10] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị,
Hội đồng xét xử không giải quyết, hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị.
[11] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vQuốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Do Tòa án cấp phúc
thẩm sửa một phần Bản án thẩm nên người kháng cáo ông Dương n K
không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
I. Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 và Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự: Sửa
một phần Bản án dân sthẩm số 19/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn.
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 147, Điều 157, Điều 158, Điều
165 Điều 166 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố
tụng hành chính.
Căn cứ vào các Điều 160, 161, 163, 164, 166, 189, 221, 357, 468, 584, 585,
586, 589 của Bộ luật Dân sự; khoản 1 Điều 2 của Luật Đất đai năm 1993; Điều 51
16
của Luật Đất đai năm 2003; khoản 1 và khoản 2 Điều 26, Điều 99, Điều 102, điểm
d khoản 2 Điều 106, Điều 166, Điều 170, Điều 203 của Luật Đất đai năm 2013.
Căn cứ vào các khoản 1, 2 và 4 Điều 26, khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 27
Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uban Thường v
Quốc hội khoá 14 quy định về án phí và lệ phí Toà án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn Ư v
quyền quản lý, sử dụng đất, yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và yêu cầu
huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
1.1. Ông Văn Ư Thị T1 được quyền quản lý, sdụng diện tích
đất 858,4m
2
thuộc một phần thửa đất số 605 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp s
121 K (trước đây B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn; mục đích sử dụng RSX
(đất rừng sản xuất); Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất hiệu BC 316783, số vào sổ cấp GCN: CJ00391 ngày
10/8/2011 cho hộ ông Dương Văn K Nguyễn Thị N; hiện trên đất không
tài sản, chỉ các gốc thông đã khai thác; địa chỉ đất tại: K, thôn P (trước đây
thôn K), xã K (trước đây là xã B), huyện L, tỉnh Lạng Sơn; diện tích đất được xác
định bởi các đỉnh thửa nối các điểm A1-A2-A3-A4-A5-A6-A7-A8-A9-A10-A11-
A12 thể hiện tại Phụ lục kèm theo bản án thẩm do Công ty Cổ phần T6 Lạng
Sơn cung cấp.
1.2. Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền vi đất số BC 316783, số vào sổ cấp GCN: CH00391 ngày 10/8/2011
của Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp cho hộ ông Dương Văn K và bà
Nguyễn Thị N quyền quản lý, sử dụng tha đất số 605, tờ bản đồ số 01, diện tích
6327,0m
2
, địa chỉ: Kéo K, thôn K, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
1.3. Tuyên bố Bản cam kết vviệc cắm mốc ngày 15/8/2023 giữa ông Tô Văn
Ư và ông Dương Văn K vô hiệu.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Tô Văn Ư về việc
buộc bị đơn ông Dương Văn K phải bồi thường thiệt hại về tài sản là các cây thông
đã khai thác ngày 15/8/2023 gồm: 26 cây đường kính gốc 14cm giá trị
1.820.000 đồng, 22 cây đường kính gốc là 28cm có giá trị là 2.574.000 đồng.
3. Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền shữu nhà tài sản
khác gắn liền vi đất số BC 386141, số vào sổ cấp GCN: CH00213 ngày 10/8/2011
của Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Lạng Sơn cấp cho hộ ông Tô Văn Ư và bà
Thị T1 quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 591, tờ bản đồ số 01, diện tích 1070m
2
,
địa chỉ: Kéo K, thôn K, xã B, huyện L, tỉnh Lạng Sơn.
4. Ông Dương Văn K, Nguyễn Thị N và ông Tô Văn Ư, bà Thị T1
quyền nghĩa vụ liên hệ với quan nhà nước thm quyền để thực hiện các
thủ tục đề nghị cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bhủy nêu trên theo quy định của
pháp luật.
17
5. Các quyết định của Bản án sơ thẩm về chi phí tố tụng, nghĩa vụ chịu lãi suất
trong trường hợp người phải thi hành án chậm trả số tiền phải thi hành án còn lại;
nghĩa vụ chịu án phí dân sự thẩm thủ tục thi hành bản án dân sự được thực
hiện tại các mục 3, 4, 5 và phần cuối cùng của Bản án sơ thẩm.
II. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Dương Văn K không phải chịu; trả lại cho
ông Dương Văn K 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
do anh Dương Văn T nộp thay ông Dương Văn K tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Lạng Sơn theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án s0006120 ngày 21 tháng
10 năm 2024.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 10/6/2025.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- Cục THADS tỉnh Lạng Sơn;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, P.HCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Xuân Điền
Tải về
Bản án số 287/2025/DS-PT Bản án số 287/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 287/2025/DS-PT Bản án số 287/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất