Bản án số 430/2025/HC-PT ngày 15/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 430/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 430/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 430/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 430/2025/HC-PT ngày 15/04/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 430/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/04/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 430/2025/HC-PT
Ngày 15 tháng 4 năm 2025
V/v Khiếu kiện quyết định hành
chính về xử lý vi phạm hành chính.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Hồ Thị Thanh Thúy
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Phan Tô Ngọc
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Đỗ Phước Trung - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số
1267/2024/TLPT-HC ngày 12 tháng 12 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính về xử lý vi phạm hành chính”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 444/2024/HC-ST ngày 17 tháng 9 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minhbị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 415/2025/QĐPT-HC
ngày 25 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Sầm Thị B (vắng mặt)
Địa chỉ: A Lô L cư xá P, Phường A, Quận F, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Thế T (có mặt)
Địa chỉ: C đường số F, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2
Địa chỉ: A Đ, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Thanh D, chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân Quận D2 (có đơn xin xét xử vắng mặt)
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Bà Nguyễn Phượng L, chức vụ: Phó Trưởng phòng - Phòng T4 (có mặt)
Ông Lê Ngọc T1, chức vụ: Phó Trưởng phòng - Phòng Tư pháp Quận 4 (có
mặt)
2
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là bà Sầm Thị B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Căn cứ theo đơn khởi kiện ngày 11 tháng 12 năm 2023, bản tự khai và
quá trình tố tụng, người khởi kiện bà Sầm Thị B có ông Nguyễn Thế T là
người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 07/03/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban hành Quyết định
số 313/QĐ-UBND- KPHQ, cho rằng: bà B đã có hành vi chiếm đất phi nông
nghiệp không phải là đất ở, phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả là buộc
khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại phần
đất đã chiếm.
Bà B khiếu nại, không đồng ý với Quyết định số 313 (và các Biên bản xác
minh). Ngày 25/05/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban hành Quyết
định số 911 không chấp nhận yêu cầu khiếu nại của bà B, giữ nguyên toàn bộ nội
dung Quyết định số 313/QĐ-UBND- KPHQ ngày 07/03/2023.
Bà B không đồng ý đối với Quyết định số 911 (và Quyết định 313, các Biên
bản, Thông báo do Chủ tịch, Ủy ban Nhân dâD2 và các Phòng, B1 ... ban hành).
Bởi các lẽ sau:
1. Về nguồn gốc nhà, đất.
Phần nhà đất mà Chủ tịch ra quyết định yêu cầu tháo dỡ, giao trả ... là nhà
đất cấp 3 diện tích (khoảng) 36m
2
, tọa lạc tại: kế nhà mang số 4 N, Phường B,
Quận D, TP ..
Phần đất này nằm trong lô đất rộng lớn thuộc quyền sử dụng lâu đời của gia
đình bà Nguyễn Thiên N (thuê sử dụng của người Ấn từ năm 1955; sau 1975 thì
Nhà nước xóa bỏ chế độ tư hữu đất đai, và gia đình bà N vẫn tiếp tục sử dụng ổn
định và có tôn tạo, khẩn hoang thêm phần đất trũng, sình lầy xung quanh ... và có
cất thêm nhiều phần nhà khác để cho các con cư ngụ, sinh sống, quá trình sử
dụng không có ai tranh chấp). Bà N đã có đăng ký kê khai nhà đất, nộp thuế và có
đăng ký cư trú theo quy định (kèm giấy tờ liên quan).
Phần nhà đất 36m
2
nêu trên là một trong số các căn nhà được bà N cất thêm.
Bà N đã bán nhà đất 36m
2
này cho bà Võ Thị Kim P vào năm 2000. Bà P đã sinh
sống tại nhà này, và có đăng ký cư trú (kèm giấy đăng ký tạm trú KT3, CMND).
+ Năm 2005, bà P bán nhà đất này cho ông Lê Ngọc T2 (kèm Giấy bán nhà
ngày 13/05/2005; Văn bản xác nhận ngày 08/11/2023 và Vi bằng số
375/2023/VB-TPL do Văn Phòng T5 ngày 08/11/2023).
+ Năm 2006, ông Lê Ngọc T2 đã bán lại nhà đất cho bà B (kèm Giấy bán
nhà ngày 01/06/2006, Văn bản xác nhận ngày 08/11/2023 và Vi bằng số
374/2023/VB-TPL do Văn Phòng T5 ngày 08/11/2023). Các lần mua bán giữa
các bên đều có người làm chứng.
+ Bà B đã chiếm hữu, sử dụng, sửa chữa, cải tạo nhà đất của mình và trong
quá trình ở tại nhà đất từ năm 2006 đến nay (hơn 15 năm qua) không có cá nhân,
cơ quan, tổ chức nào thắc mắc hoặc có bất kỳ văn bản nào cho rằng nhà bà B lấn
3
chiếm của tổ chức hay cá nhân...
2. Việc nhận định và thủ tục ban hành quyết định xử lý.
Phần nhà đất 36m
2
thuộc quyền sở hữu thực tế của bà B nêu trên được sử
dụng, quản lý liên tục bởi nhiều người, qua nhiều thời kỳ và từ trước khi Nhà
nước ban hành Luật đất đai.
Công tác xác minh, tham mưu và đánh giá nguồn gốc quyền sử dụng đất,
hành vi liên quan ... đã không thể hiện sự nghiêm túc; không khách quan và
không minh bạch các tài liệu, giấy tờ, ... Phần nhà đất này không thuộc thửa đất
và phạm vi điều chỉnh bởi các Quyết định số 982/QĐ- UBND-TH ngày
05/08/2009, Quyết định số 1375/QĐ-UBND-TH ngày 02/11/2009 và Quyết định
số 2043/QĐ-UBND-TH ngày 17/09/2013 của Chủ tịch D2.
Việc kiểm tra, lập biên bản xử phạt vi phạm và ban hành các quyết định
không đúng trình tự thủ tục luật định.
Quyết định số 911 (và Quyết định số 313) đã xâm phạm nghiêm trọng quyền
lợi chính đáng của bà B.
Toàn bộ nhà và khu đất nêu trên đã được gia đình bà Nguyễn Thiên N sử
dụng, tạo lập, chuyển nhượng ... từ hơn 60 năm qua.
Bà B là chủ sở hữu thực tế đối với phần nhà đất 36m
2
. Bà B không có hành
vi bao chiếm đất của cá nhân hay đất công của Nhà nước. Phần nhà đất của bà B,
nếu có phần nào thuộc quy hoạch thực hiện dự án nào đó ... mà Nhà nước cần thu
hồi thì Nhà nước phải đền bù cho bà B. Bà B không chấp nhận quyết định buộc
thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực đất đai.
Nay bà B yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết:
- Hủy Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07/3/2023 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Quận D2 về việc buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả;
- Hủy Quyết định số 911/QĐ-UBND-NC ngày 25/5/2023 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân Quận D2 về việc giải quyết đơn khiếu nại của bà Sầm Thị B.
Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 do ông Võ Thanh D là
người đại diện theo ủy quyền vắng mặt tại phiên tòa. Tại Văn bản số
1776/UBND-ĐT ngày 24/7/2024 người bị kiện trình bày ý kiến về vụ kiện như
sau:
* Về nguồn gốc nhà, đất tại vị trí số 14 (được xác định theo Bản đồ hiện
trạng vị trí do Phòng T4 duyệt ngày 31/5/2021).
Qua kết quả đo đạc và căn cứ Bản đồ địa chính VN2000 lập năm 2001, xác
định bà Sầm Thị B sử dụng căn nhà tại vị trí số 14 (được xác định theo Bản đồ
hiện trạng vị trí do Phòng T4 duyệt ngày 31/5/2021) có diện tích là 33,7 m
2
được
xây dựng trên phần đất có nguồn gốc như sau:
- Phần 1 có diện tích 26,1m
2
có nguồn gốc là rạch cầu D.
- Phần 2 có diện tích 7,6 m
2
(thuộc thửa 414, tờ bản đồ số 17, BĐĐC
4
Phường 2) có nguồn gốc thuộc đất còn lại sau khi Ủy ban nhân dân Quận D2 thực
hiện dự án xây dựng Trường THCS P1, đã chi trả tiền bồi thường cho người dân,
các hộ dân sống lân cận lấn chiếm san lấp rạch Cầu Dừa và lấn, chiếm thửa 414,
trong đó có trường hợp của bà Sầm Thị B.
Theo hồ sơ lưu thể hiện:
+ Thửa đất số 414, tờ bản đồ số 17 Phường B Quận D có số thửa cũ (theo
BĐĐC được phân chiết từ thửa 67) là thửa 67-3.
+ Thửa đất số 67, tờ bản đồ số 17/BĐĐC-P2 do ông Dương Văn T3 tạo lập
từ năm 1964. Sau đó con của ông Dương Văn T3 là ông Dương Văn D1 sử dụng.
Thửa đất nêu trên phải di chuyển toàn bộ để thực hiện các dự án: Xây dựng các
tuyến đường xung quanh Trường THCS P1, Quận D (diện tích 908 m
2
) và Chung
cư P và Phường C (diện tích 609 m
2
). Ngày 04/12/2001, ông Dương Văn D1 đã
nhận đủ tiền bồi thường giải tỏa.
+ Theo Bảng chỉ dẫn diện tích ngày 30/3/2006 của Trung tâm đo đạc bản đồ
thành phố: khu đất thửa số 67, tờ bản đồ số 17/BĐĐC-P2, với diện tích 1.592,2
m
2
. Trong đó:
Thửa 67-1 (diện tích 342 m
2
) và thửa 67-2 (diện tích 239,5 m
2
) đã được xây
dựng thuộc dự án xây dựng các tuyến đường xung quanh Trường THCS P1,
Quận D và dự án xây dựng Trường THCS P1, Quận D (sau đó đổi tên là Trường
THPT N1 và nay là Trường THCS Q), đã hoàn thành xây dựng từ tháng 8/2004
(theo Quyết định số 2952/QĐ-UBND ngày 05/7/2007 của Ủy ban nhân dân thành
phD2 về phê duyệt quyết toán dự án xây dựng Trường THCS P1, Quận D).
Thửa 67-3: là phần diện tích đất còn lại sau khi Quận 4 thực hiện dự án, đã
chi trả tiền bồi thường cho người dân, các hộ dân sống lân cận lấn chiếm, san lấp
rạch và lấn, chiếm thửa 67-3 từ năm 2005-2008 và ngày 05/8/2009, Ủy ban nhân
dân Quận D2 đã có Quyết định số 982/QĐ-D2 về việc tạm quản lý các cơ sở nhà,
đất trên địa bàn Phường B, Quận D, trong đó có thửa 67-3 với diện tích đất là
1.011 m
2
và được thay thế bởi Quyết định số 1017/QĐ-UBND-TH ngày
26/6/2020.
* Về quy định pháp luật có liên quan.
Các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của pháp luật đất đai.
Theo quy định của pháp luật đất đai qua các thời kỳ, hành vi lấn chiếm đất
đai bị nghiêm cấm; cụ thể:
- Tại Điều 6 và Điều 85 Luật Đất đai năm 1993 (có hiệu lực từ ngày
15/10/1993 đến ngày 01/7/2004) thì:
“Điều 6: Nghiêm cấm việc lấn chiếm đất đai, chuyển quyền sử dụng đất trái
phép, sử dụng đất không đúng mục đích được giao, huỷ hoại đất”
“Điều 85: Người nào lấn chiếm đất, huỷ hoại đất, chuyển quyền sử dụng đất
trái phép hoặc có hành vi khác vi phạm pháp luật đất đai, thì tuỳ theo mức độ
nhẹ hoặc nặng mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.”
5
- Tại Điều 140 Luật Đất đai năm 2003 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 đến
ngày 01/7/2014):
“Điều 140. Xử lý đối với người vi phạm pháp luật về đất đai
Người nào lấn, chiếm đất đai, không sử dụng đất hoặc sử dụng không đúng
mục đích, chuyển mục đích sử dụng đất trái phép, huỷ hoại đất, không thực hiện
hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ tài chính, các thủ tục hành chính, các
quyết định của Nhà nước trong quản lý đất đai, chuyển quyền sử dụng đất trái
phép hoặc các hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai thì tuỳ theo tính chất,
mức độ vi phạm mà bị xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật.”
- Tại khoản 1 Điều 12 Luật Đất đai năm 2013:
“Điều 12. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai…….”
2.2. Quy định liên quan đến xử lý vi phạm hành chính.
Căn cứ theo quy định tại tại điểm a, khoản 2, Điều 3, Nghị định
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ:
“2. Chiếm đất là việc sử dụng đất thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Tự ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
cho phép;……”.
2.3. Quy định về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Theo Điều 101, Luật Đất đai năm 2013,
“2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định
tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01
tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân
dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông
thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy
hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất”.
2.4. Liên quan đến xây dựng.
Căn cứ theo khoản 4, Điều 12, Luật Xây dựng năm 2014 quy định:
“Điều 12. Các hành vi bị nghiêm cấm
4. Xây dựng công trình không đúng quy hoạch xây dựng, trừ trường hợp có
giấy phép xây dựng có thời hạn; vi phạm chỉ giới xây dựng, cốt xây dựng; xây
dựng công trình không đúng với giấy phép xây dựng được cấp.”
* Về thông tin quy hoạch.
Căn cứ Quyết định số 692/QĐ-UBND-TH ngày 13/10/2008 của Ủy ban
6
nhân dân Quận D2 về phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ
1/500 khu công viên H Phường B Quận D (phần Quy hoạch – Kiến trúc – Giao
thông) với tổng diện tích theo quy hoạch là 17,6 ha; trong đó đất hiện trạng
không phải thu hồi khoảng 2,6 ha (thuộc đất rạch, đường giao thông…) và đất
dân cư hiện hữu 15 ha.
Căn cứ Quyết định số 5191/QĐ-UBND ngày 29/11/2008 của Ủy ban nhân
dân Thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung Quận D đến năm
2020; Quyết định số 883/QĐ-UBND ngày 21/02/2013 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ
1/2000 (quy hoạch phân khu) khu dân cư liên phường 2, 3, 4, 5, 6, 8, 9, 10 Quận
D, phần nhà, đất bà Sầm Thị B sử dụng tại vị trí số 14 thuộc phạm vi một phần
dự án Đường số 14 nối dài và một phần thuộc dự án Công viên H. Cụ thể:
- Pháp lý liên quan đến dự án Công viên H.
+ Quyết định số 10399/KTS-KT ngày 16/10/2000 về việc phê duyệt quy
hoạch chi tiết TL 1/1000 dự án đầu tư công trình “Công viên Khánh Hội Q” của
Kiến trúc sư trưởng thành phố;
+ Quyết định số 692/QĐ-UBND-TH ngày 13/10/2008 của Ủy ban nhân dân
Quận D2 về phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/500 khu
công viên H Phường B Quận D. (Phần Quy hoạch – Kiến trúc – Giao thông); với
tổng diện tích theo quy hoạch là 17,6 ha; trong đó đất hiện trạng không phải thu
hồi khoảng 2,6 ha (thuộc đất rạch, đường giao thông,…) và đất dân cư hiện hữu
15 ha, có vị trí:
+ Phía Nam: giáp đường 14 nối dài (nay là đường V).
+ Phía Bắc: giáp đường H nối dài.
+ Phía Đông: giáp đường A (nay là đường D).
+ Phía Tây: giáp đường dự kiến mở (đường B).
- Quyết định số 5191/QĐ-UBND ngày 29/11/2008 của Ủy ban nhân dân
thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chung quận D đến năm 2020.
- Quyết định số 80/QĐ-UBND ngày 09/01/2009 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng
đất 5 năm (2006-2010) của Quận D; trong đó có dự án Công viên H;
- Quyết định số 883/QĐ-UBND ngày 21/02/2013 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về duyệt đồ án điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ
1/2000 (quy hoạch phân khu) khu dân cư liên phường 2, 3, 4, 5, 6, 8, 9, 10 Quận
D;
- Quyết định số 2206/QĐ-UBND ngày 08/5/2014 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử
dụng đất 5 năm (2011 – 2015) Quận D; trong đó có dự án Công viên H (giai đoạn
3).
Thực hiện Chương trình chống ngập, một trong sáu chương trình đột phá
7
của Thành phố được thông qua tại Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ Thành phố
và là một trong ba chương trình trọng tâm của quận được thông qua tại Nghị
quyết Đại hội X của Đảng bộ Quận D, Ủy ban nhân dân Quận D2 đã triển khai
thực hiện dự án xây dựng công viên H, trong đó có hạng mục xây dựng hồ điều
tiết tại công viên (diện tích 4,8ha) nhằm giảm ngập trên địa bàn quận và các khu
vực lân cận.
Dự án Công viên H đã được Ủy ban nhân dân Thành phD2 giao đất cho
Quận D để thực hiện Dự án, cụ thể:
+ Quyết định số 3073/QĐ-UB ngày 29/6/2004 của Ủy ban nhân dân Thành
phD2 về việc thu hồi và giao đất cho Ban Q1 để bồi thường thiệt hại, giải phóng
mặt bằng, chuẩn bị đầu tư xây dụng Công viên Hồ Khánh H tại phường C và
phường E, quận D.
+ Quyết định số 4253/QĐ-UBND ngày 20/9/2006 của Ủy ban nhân dân
thành phD2 về duyệt dự án di dời, tháo dỡ và thu hồi đất để xây dựng công viên
H (giai đoạn 2).
+ Quyết định số 4919/QĐ-UBND ngày 11/9/2013 của Ủy ban nhân dân
Thành phD2 về thu hồi và giao đất cho Ban Q1 để thực hiện Dự án bồi thường,
giải phóng mặt bằng để xây dựng Công viên H (giai đoạn 3).
+ Giai đoạn 4 dự kiến thực hiện trong giai đoạn từ năm 2020 -2025 nhưng
do chưa được Ủy ban nhân dân Thành phD2 bố trí vốn nên chưa thực hiện.
Như vậy, dự án đầu tư xây dựng Công viên H được Quận D thực hiện theo
đúng quy hoạch đã được phê duyệt, pháp lý dự án được thực hiện đầy đủ, đúng
quy định, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng triển khai từ năm 2004 đến
nay, đã hoàn thành 3 giai đoạn, chuẩn bị giai đoạn 4.
- Pháp lý liên quan dự án Đường số A nối dài.
+ Quyết định số 1568/QĐ-UBND-TH ngày 16 tháng 6 năm 2016 của Ủy
ban nhân dân Quận D2 về quyết định chủ trương đầu tư dự án Xây dựng mới
đường V nối dài (từ chung cư P đến trường THCS Q).
+ Quyết định số 3313/QĐ-D2 ngày 30 tháng 10 năm 2017 của Ủy ban nhan
dân Quận D Phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Xây dựng mới đường V
nối dài (từ chung cư P đến trường THCS Q).
+ Quyết định số 930/QĐ-UBND-TH ngày 19 tháng 6 năm 2020 của Ủy ban
nhan dân Quận D Phê duyệt thiết kế bản vẽ thi công và dự toán công trình Xây
dựng mới đường V nối dài (từ chung cư P đến trường THCS Q).
+ Quyết định số 929/QĐ-UBND-TH ngày 16 tháng 6 năm 2020 của Ủy ban
nhân dân Quận D2 Về điều chỉnh thời gian thực hiện dự án Xây dựng mới đường
V nối dài (từ chung cư P đến trường THCS Q) tại Quyết định số 203/QĐ-UBND-
TH ngày 27/02/2020 của Ủy ban nhân dân Quận D2.
+ Quyết định số 3937/QĐ-UBND-TH ngày 21 tháng 12 năm 2021 của Ủy
ban nhân dân Quận D2 về điều chỉnh dự toán kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư dự án Xây dựng mới đường V nối dài (từ chung cư P đến trường THCS Q).
8
+ Quyết định số 758/QĐ-UBND-TH ngày 08 tháng 6 năm 2022 của Ủy ban
nhân dân Quận D2 về điều chỉnh thời gian thực hiện dự án Xây dựng mới đường
V nối dài (từ chung cư P đến trường THCS Q) tại Quyết định số 929/QĐ-D2
ngày 16 tháng 6 năm 2020 của Ủy ban nhân dân Quận D2.
+ Quyết định số 1677/QĐ-UBND-TH ngày 15 tháng 12 năm 2022 của Ủy
ban nhân dân Quận D2 phê duyệt điều chỉnh Quyết định số 3313/QĐ-D2 ngày 30
tháng 10 năm 2017 của Ủy ban nhan dân Quận D Phê duyệt dự án đầu tư xây
dựng công trình Xây dựng mới đường V nối dài (từ chung cư P đến trường THCS
Q).
+ Quyết định số 2007/QĐ-UBND-TH ngày 19 tháng 12 năm 2023 của Ủy
ban nhân dân Quận D2 về phê duyệt điều chỉnh Quyết định số 1677/QĐ-UBND-
TH ngày 15 tháng 12 năm 2022 của Ủy ban nhân dân Quận D2 phê duyệt điều
chỉnh Quyết định số 3313/QĐ-D2 ngày 30 tháng 10 năm 2017 của Ủy ban nhan
dân Quận D Phê duyệt dự án đầu tư xây dựng công trình Xây dựng mới đường V
nối dài (từ chung cư P đến trường THCS Q).
* Quá trình xử lý vi phạm hành chính đối với bà Sầm Thị B.
Căn cứ theo quy định tại tại điểm a, khoản 2, Điều 3, Nghị định
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ thì hành vi chiếm đất là việc tự
ý sử dụng đất mà không được cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cho phép.
Qua rà soát hồ sơ pháp lý liên quan, bà Sầm Thị B sử dụng căn nhà tại khu
vực Phường B, Quận D được xác định là căn nhà tại vị trí số 14 (theo Bản đồ
hiện trạng vị trí của Phòng T4 duyệt ngày 31/5/2021) và căn cứ Bản đồ địa chính
VN2000 lập năm 2001, xác định căn nhà tại vị trí số 14 có diện tích khuôn viên là
33,7m
2
được xây dựng trên phần đất có nguồn gốc một phần diện tích 26,1m
2
là
rạch Cầu Dừa và một phần diện tích 7,6m
2
thuộc thửa đất 414, tờ bản đồ số 17 -
BĐĐC Phường 2.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng của Quận D không có đề xuất việc cấp số
nhà tại nhà, đất nêu trên. Đồng thời, qua rà soát việc đăng ký, kê khai các thủ tục
về việc sử dụng nhà, đất qua các đợt kê khai trên địa bàn Phường B (như: kê khai
nhà, đất năm 2006; Kê khai thuế sử dụng đất phi nông nghiệp hàng năm), bà Sầm
Thị B không có đăng ký, kê khai việc sử dụng nhà, đất này.
Như nội dung trình bày tại Mục 1 và 2 tại văn bản này, bà Sầm Thị B tự ý sử
dụng đất mà không được cơ quan chức năng cho phép (không đăng ký kê khai
qua các kỳ kê khai, không được cấp số nhà,…) là hành vi chiếm đất được quy
định tại điểm a, khoản 2, Điều 3, Nghị định 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019
của Chính phủ.
Căn cứ theo quy định của pháp luật đất đai và các quy định pháp luật khác
có liên quan, Ủy ban nhân dân Phường D2 đã tiến hành lập Biên bản vi phạm
hành chính về lĩnh vực đất đai số 40/BB-VPHC ngày 02/12/2022 đối với bà Sầm
Thị B. Theo đó, bà Sầm Thị B đã thực hiện hành vi vi phạm: “Vào ngày
31/5/2021, tại nhà không số thuộc hẻm D N, Phường B, Quận D, bà Sầm Thị B
đã có hành vi chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị với diện tích dưới
9
0,05 héc ta. Cụ thể: diện tích đất chiếm là 33,7m
2
(theo đó, diện tích đất thuộc
thửa số 414, tờ bản đồ số 17 là 7,6 m
2
và diện tích đất thuộc rạch là 26,1m
2
)”.
Tuy nhiên, qua rà soát, Ủy ban nhân dân Phường D2 đã có các Biên bản xác
minh tình tiết vi phạm hành chính số 17/BB-XM ngày 06/12/2022; số 30/BB-XM
ngày 30/12/2022; số 21/BB-XM ngày 08/02/2023 và số 36/BB-XM ngày
28/02/2023. Qua đó, tiến hành xác minh bổ sung liên quan hành vi vi phạm hành
chính của bà Sầm Thị B: “Vào ngày 07/11/2018 , tại nhà không số thuộc hẻm D
N, Phường B, bà Sầm Thị B đã có hành vi chiếm đất phi nông nghiệp không phải
là đất ở. Cụ thể: tổng diện tích đất chiếm là 33,7m
2
(theo đó, diện tích đất thuộc
thửa 414, tờ bản đồ số 17 là 7,6m
2
và diện tích đất thuộc rạch là 26,1m
2
”.
Trên cơ sở đề xuất của Ủy ban nhân dân Phường D2 và ý kiến thẩm định
của cơ quan chuyên môn, ngày 07/3/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2
ban hành Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ về buộc biện pháp khắc phục hậu
quả trong lĩnh vực đất đai đối với bà Sầm Thị B.
Không đồng ý với Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07/3/2023
của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2. Ngày 15/3/2023, bà Sầm Thị B đã gửi
đơn khiếu nại Quyết định nêu trên. Đến nay, bà Sầm Thị B chưa thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả theo Quyết định đã ban hành.
Do không đồng ý với Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ, bà Sầm Thị B
đã có đơn khiếu nại gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2. Ngày 24/5/2023,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 đã tổ chức đối thoại công khai kết quả xác
minh nội dung khiếu nại của bà Sầm Thị B (thành phần gồm người khiếu nại,
người bị khiếu nại và các cơ quan, đơn vị liên quan). Tuy nhiên, bà Sầm Thị B
vắng mặt, không tham gia buổi đối thoại và không có lý do.
Ngày 25/5/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 đã ban hành Quyết
định số 911/QĐ-UBND-NC về việc giải quyết khiếu nại của bà Sầm Thị B, địa
chỉ số A Lô L, Phường A, Quận F (lần đầu). Theo đó: “Giữ nguyên toàn bộ toàn
bộ nội dung Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07/3/2023 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Quận D2 về buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong
lĩnh vực đất đai đối với bà Sầm Thị B ”.
Sau đó, bà Sầm Thị B tiếp tục có đơn khiếu nại quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 đến Ủy ban nhân dân Thành
phD2. Ngày 07/11/2023, Ủy ban nhân dân Thành phD2 đã ban hành Thông báo
số 378/TB-UBND về việc không thụ lý giải quyết khiếu nại.
* Nhận định và ý kiến của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2.
Về thẩm quyền.
Căn cứ Điều 54 và khoản 2 Điều 87 Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020); Điều 10 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP
ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật xử lý vi phạm hành chính; Quyết định số 1153/QĐ-UBND ngày
02/10/2021 của Ủy ban nhân dân Quận D2 về ban hành quy chế làm việc của Ủy
ban nhân dân Quận D2; Quyết định số 4262/QĐ-UBND ngày 31/10/2021 của Ủy
10
ban nhân dân Quận D2 về việc phân công công tác của Chủ tịch, Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Quận D2 và Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị thuộc Ủy ban nhân
dân Quận D2; Quyết định số 01/QĐ-UBND-GQXP ngày 03/01/2023 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 về việc giao quyền xử phạt vi phạm hành chính
và Quyết định số 04/QĐ-UBND-GQXP ngày 06/01/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân Quận D2 về việc giao quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, việc ông Võ Thanh D, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2
ký ban hành các quyết định buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả, các
quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả đối với bà
Sầm Thị B là đúng thẩm quyền.
Căn cứ Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 77/2015/QH13 ngày
19/6/2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và
Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019; Luật Khiếu nại số
02/2011/QH13 ngày 11/11/2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày
19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật Khiếu nại, việc ông Lê Văn C, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ký ban
hành các quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với bà Sầm Thị B là đúng
thẩm quyền.
Về nội dung khởi kiện.
Qua rà soát, vị trí căn nhà số A nêu trên không có giấy tờ pháp lý liên quan
đến việc sử dụng đất, không được cơ quan Nhà nước cấp số nhà và tất cả đều
thuộc phạm vi dự án công trình công cộng trên địa bàn Quận D (Công viên H,
Đường số A nối dài). Đối với dự án Công viên H đã được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chi tiết dự án, phê duyệt đồ án quy hoạch
chung, kế hoạch sử dụng đất, có quyết định giao đất,.. từ năm 2000. Công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng được chia làm 4 giai đoạn và bắt đầu thực hiện giai
đoạn 1 từ năm 2004. Hiện nay, công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng đã hoàn
thành giai đoạn 1, giai đoạn 2, cơ bản hoàn thành giai đoạn 3 và chuẩn bị triển
khai thực hiện giai đoạn 4. Đối với dự án Đường số A nối dài là một bộ phận
thuộc Dự án Công viên H hiện nay đang triển khai thực hiện.
Thực hiện Chỉ thị số 23–CT/TU và Chỉ thị số 24-CT/TU của Ban Thường
vụ Thành ủy Thành phố, và thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân Thành phD2
tại Công văn số 1973/UBND-NCPC ngày 27/5/2020 về kết quả thực hiện Kết
luận Thanh tra số 13/KL-TTTp-P2 ngày 18/6/2019 của Ủy ban nhân dân Thành
phD2, Quận D đã tăng cường công tác quản lý, thanh tra, kiểm tra và kiên quyết
xử lý các trường hợp vi phạm hành chính về đất đai và xây dựng trên địa bàn
Quận D. Qua đó đã phát hiện 32 trường hợp vi phạm pháp luật đất đai và xây
dựng trên địa bàn Phường B, 3, Quận D; trong đó có 19 trường hợp lấn, chiếm
đất đã bồi thường giải tỏa và 13 trường hợp lấn, chiếm rạch C (thuộc phạm vi giải
tỏa để thực hiện dự án Công viên H), trong đó có trường hợp của bà Sầm Thị B
(vị trí căn số 14). Tất cả các trường hợp nên trên đều không có pháp lý về quyền
sử dụng đất, không được cơ quan có thẩm quyền cấp số nhà và cấp phép xây
dựng. Do đó, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 xử lý vi phạm đối với các
trường hợp nêu trên (trong đó có trường hợp của bà Sầm Thị B) là đúng quy
11
định.
Ngoài ra, vị trí căn nhà số A do bà Sầm Thị B sử dụng thuộc một phần quy
hoạch Công viên H và một phần thuộc quy hoạch lộ giới đường số 14 nối dài
(không phù hợp quy hoạch). Bà Sầm Thị B tự ý sử dụng đất tại vị trí căn số 14
mà không được cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai cho phép là hành vi chiếm
đất (được quy định tại điểm a khoản 4, khoản 5, Điều 14, Nghị định số
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ; khoản 2 Điều 5 Nghị định số
04/2022/NĐ-CP ngày 06/01/2022 của Chính phủ và khoản 2, Điều 10 Nghị định
số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ). Do đó, bà Sầm Thị B
không được cơ quan có thẩm quyền xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Điều
101, Luật Đất đai năm 2013.
Mặt khác, căn nhà tại vị trí số 14 nêu trên được xây dựng trên phần đất
không phù hợp quy hoạch xây dựng (một phần thuộc quy hoạch đất công viên H,
một phần thuộc quy hoạch lộ giới đường số 14 nối dài) là một trong những hành
vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 4, Điều 12 Luật Xây dựng.
Đồng thời, căn cứ theo quy định tại khoản 11, Điều 16, Nghị định
16/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính về xây dựng như sau:
“Điều 16. Vi phạm quy định về trật tự xây dựng
11. Đối với các công trình xây dựng trên đất không đúng mục đích sử dụng
đất theo quy định của pháp luật đất đai thì xử phạt theo quy định tại nghị định
của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.”
Từ những cơ sở nêu trên, việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban hành
Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07/3/2023 về buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực đất đai đối với bà Sầm Thị B do đã có
hành vi chiếm đất phi nông nghiệp không phải là đất ở theo quy định tại khoản 2
Điều 10; điểm a, điểm b, khoản 5 Điều 10 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày
10/11/2014 của Chính phủ và khoản 2 Điều 5 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày
06/01/2022 của Chính phủ là đúng quy định pháp luật.
Ngày 25/5/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 đã ban hành Quyết
định số 911/QĐ-UBND-NC về việc giải quyết khiếu nại của bà Sầm Thị B, địa
chỉ số A Lô L, Phường A, Quận F (lần đầu). Theo đó: “Giữ nguyên toàn bộ toàn
bộ nội dung Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07/3/2023 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Quận D2 về buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả trong
lĩnh vực đất đai đối với bà Sầm Thị B ”.
Ngày 07/11/2023, Ủy ban nhân dân Thành phD2 đã ban hành Thông báo số
378/TB-UBND về việc không thụ lý giải quyết khiếu nại.
Mặt khác, do không đồng ý với các quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân Quận D2, trong thời gian qua, các hộ dân tại khu vực đang giải quyết đã gửi
đơn đến Ủy ban nhân dân Thành phD2 và các cơ quan chức năng Thành phố đề
nghị xem xét giải quyết. Ngày 02/8/2023, Ủy ban nhân dân Thành phD2 đã ban
12
hành 02 Thông báo số 226/TB-UBND và Thông báo số 228/TB-UBND về việc
không thụ lý đơn tố cáo của công dân.
Từ các cơ sở nêu trên cho thấy việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban
hành 02 quyết định để xử lý vi phạm hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại
lần đầu đối với bà Sầm Thị B là đúng thẩm quyền và phù hợp với hồ sơ, pháp lý,
quá trình quản lý, sử dụng nhà, đất và đúng quy định pháp luật đất đai, pháp luật
xử lý vi phạm hành chính và luật khiếu nại.
Tại Bản án hành chín hành chính sơ thẩm số 444/2024/HC-ST ngày 17
tháng 9 năm 2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minhđã quyết
định:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Sầm Thị B, cụ thể:
- Bác yêu cầu hủy Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07 tháng 3
năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 về việc buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả;
- Bác yêu cầu hủy Quyết định số 911/QĐ-UBND-NC ngày 25 tháng 5 năm
2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 về việc giải quyết đơn khiếu nại
của bà Sầm Thị B.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 01/10/2024, người khởi kiện là bà Sầm Thị B có đơn kháng cáo toàn
bộ bản án hành chính sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
và yêu cầu kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện đề nghị Hội đồng
xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã xé xử có căn cứ và đúng pháp luật. Tại
phiên tòa phúc thẩm, bà B kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào
mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Đơn kháng cáo của người khởi kiện được làm đúng thời hạn, hình thức
nội dung đảm bảo theo quy định pháp luật.
13
Tòa án đã triệu tập hợp lệ, người bị kiện có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ
khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng Hành chính, Tòa án nhân dân Cấp Cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử vắng mặt đương sự này.
[2] Xét kháng cáo của người khởi kiện, Hội đồng xét xử nhận định:
Xét các Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07/3/2023 của Chủ tịch
D2 về việc buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả và Quyết định số
911/QĐ-UBND-NC ngày 25/5/2023 của Chủ tịch D2 về việc giải quyết đơn
khiếu nại của bà Sầm Thị B:
[2.1] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ban hành: các quyết định trên được
ban hành đúng về thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục và đúng thời hạn theo quy
định tại khoản 2 Điều 38, Điều 58, Điều 65 và Điều 66 của Luật xử lý vi phạm
hành chính; Điều 18, Điều 28, Điều 29, Điều 31 của Luật Khiếu nại.
[2.2]. Về nội dung:
[2.2.1] Ngày 02/12/2022, tại địa chỉ nhà không số thuộc hẻm D đường N,
Ủy ban nhân dân Phường D2, Quận D lập Biên bản vi phạm hành chính số
40/BB-VPHC đối với bà Sầm Thị B với nội dung: “Vào ngày 31/5/2021 tại nhà
không số thuộc hẻm D đường N, Phường B, Quận D bà Sầm Thị B đã có hành vi
vi phạm: chiếm đất phi nông nghiệp tại khu vực đô thị với diện tích dưới 0,05
hecta. Cụ thể: tổng diện tích chiếm là 33,7m
2
(trong đó diện tích đất thuộc thửa
đất số 414, tờ bản đồ số 17 là 7,6m
2
và diện tích đất thuộc rạch là 26,1m
2
). Do
hành vi lấn chiếm đất của bà B đã hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính nên
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban hành Quyết định số 313/QĐ-UBND-
KPHQ buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả bằng hình thức khôi phục lại
tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm và buộc trả lại phần đất đã chiếm
với diện tích đất 33,7m
2
.
[2.2.2]. Theo Bản đồ hiện trạng vị trí về công tác quản lý đất công trên địa
bàn 15 phường do Công ty TNHH T6 lập ngày 31/5/2021 có xác nhận của Ủy
ban nhân dân Phường D2, Quận D và Phòng T4 thể hiện tại địa chỉ nhà không số
đường N, Phường B, Quận D thì: phần diện tích nhà đất đang sử dụng thuộc quản
lý nhà nước (thửa 414 tờ 17) gồm diện tích đất: 7,6m
2
, diện tích nhà: 7,6m
2
(đã
được Nhà nước bồi thường cho ông Dương Văn T3 khi thực hiện dự án xây dựng
trường trung học cơ sở P1, Quận D vào năm 2001), phần diện tích nhà đất đang
sử dụng thuộc rạch gồm: diện tích đất: 26,1m
2
, diện tích nhà: 26,1m
2
.
Bà B cho rằng nguồn gốc thửa đất nêu trên là của gia đình bà Nguyễn Thiên
N thuê lại của người Ấn từ năm 1955, sau năm 1975 gia đình bà N tiếp tục sử
dụng ổn định, không có tranh chấp, bà N xây dựng thêm căn nhà này và bán cho
bà Võ Thị Kim P vào năm 2000, năm 2005 bà P bán nhà cho ông Lê Ngọc T2,
năm 2006 ông T2 bán nhà này lại cho bà. Để chứng minh cho trình bày trên,
ngoài việc cung cấp các Vi bằng do Văn phòng Thừa phát lại lập có nội dung ghi
nhận hành vi của ông Lương Hoàng V, bà Võ Thị Kim P, ông Lê Ngọc T2 ký tên
vào Văn bản xác nhận việc mua bán nhà thì bà B chỉ cung cấp được bản sao
không có chứng thực Tờ đăng ký nhà đất do bà Nguyễn Thiên N ký tên. Tuy
14
nhiên, các vi bằng trên được vào thời điểm sau khi bà B đã bị xử phạt và chuẩn bị
khởi kiện vụ án này, các tài liệu này chỉ là xác nhận đơn phương của những
người làm chứng và bà B không cung cấp được văn bản chuyển nhượng được
công chứng, chứng thực hợp pháp để chứng minh việc chuyển nhượng hay chứng
cứ chứng minh ông Lương Hoàng V, bà Võ Thị Kim P, ông Lê Ngọc T2 có
quyền sử dụng hợp pháp đối với thửa đất trên. Trong khi quá trình sử dụng đất bà
B không kê khai, đăng ký, không được cấp số nhà đối với nhà, đất này. Đối với
Tờ đăng ký nhà đất do bà Nguyễn Thiên N ký tên, nội dung tài liệu này là để kê
khai đăng ký cho căn nhà mang số D đường N, Phường B, Quận D thuộc thửa đất
số 285, tờ bản đồ số 5, trong khi nhà đất của bà B chưa được cấp số nhà và thuộc
thửa đất số 414, tờ bản đồ số 17 nên văn bản này không chứng minh được tính
hợp pháp của việc bà B sử dụng đất của căn nhà không số nêu trên. Ngoài ra, bà
B không cung cấp được bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào khác thể hiện việc sử dụng
hợp pháp nhà đất này.
[2.2.3]. Như vậy, có cơ sở xác định nhà đất của bà B thuộc một phần rạch và
phần còn lại thuộc quyền quản lý của nhà nước, bà B đã tự ý sử dụng đất mà
không được cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai cho phép; phần diện tích nhà
đất còn lại do lấn chiếm rạch, vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 3 của Nghị định
số 91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ. Do hành vi lấn chiếm đất
của bà B đã hết thời hiệu xử phạt nên Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 ban
hành Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ buộc thực hiện biện pháp khắc phục
hậu quả bằng hình thức khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi
phạm và buộc trả lại phần đất đã chiếm với diện tích đất 33,7m
2
là đúng quy định
tại Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính; Điều 4 Nghị định số 91/2019/NĐ-CP
ngày 19/11/2019 của Chính phủ; khoản 5 Điều 10 Nghị định số 102/2014/NĐ-CP
ngày 10/11/2014 và khoản 2 Điều 5 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày
06/01/2022 của Chính phủ.
[2.2.4] Do Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ được ban hành đúng pháp
luật nên Chủ tịch D2 ban hành Quyết định số 911/QĐ-UBND-NC bác khiếu nại
của bà B, giữ nguyên toàn bộ nội dung của Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ
là có căn cứ.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm
bác yêu cầu khởi kiện của bà B là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật. Tại
phiên tòa phúc thẩm, bà B kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào
mới chứng minh nên Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện và giữ
nguyên bản án sơ thẩm. Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với các chứng cứ
tài liệu có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp
nhận.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Sầm Thị B phải chịu theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
15
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính;
Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện bà Sầm Thị B. Giữ nguyên Bản
án hành chính sơ thẩm số 444/2024/HC-ST ngày 17 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Áp dụng Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; Luật Khiếu nại; Nghị
định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10/11/2014 của Chính phủ; Nghị định số
91/2019/NĐ-CP ngày 19/11/2019 của Chính phủ và Nghị định số 04/2022/NĐ-
CP ngày 06/01/2022 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Sầm Thị B, cụ thể:
- Bác yêu cầu hủy Quyết định số 313/QĐ-UBND-KPHQ ngày 07 tháng 3
năm 2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 về việc buộc thực hiện biện
pháp khắc phục hậu quả;
- Bác yêu cầu hủy Quyết định số 911/QĐ-UBND-NC ngày 25 tháng 5 năm
2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận D2 về việc giải quyết đơn khiếu nại
của bà Sầm Thị B.
2. Về án phí:
2.1 Án phí hành chính sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, bà Sầm Thị
B phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã nộp
là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án
số 0004910 ngày 24/5/2024 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
2.2. Án phí hành chính phúc thẩm: bà Sầm Thị B phải chịu 300.000 (Ba
trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0041634 ngày 22/10/2024 của Cục thi
hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Tòa án nhân dân tối cao; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND cấp cao tại TP .HCM;
- TAND TP. HCM;
- VKSND TP. HCM;
- Cục THADS TP. HCM;
- Các đương sự;
- Lưu.
Hồ Thị Thanh Thúy
16
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm