Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST ngày 28/09/2024 của TAND TP. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 41/2024/HNGĐ-ST ngày 28/09/2024 của TAND TP. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Bắc Giang (TAND tỉnh Bắc Giang) |
Số hiệu: | 41/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 28/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Phạm Thị T kiện xin ly hôn anh Nguyễn Quang Đ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
Bản án số: 41/2024/HNGĐ-ST
Ngày 28 tháng 9 năm 2024
V/v “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN DŨNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Anh.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Đinh Thị Thu Huyền.
Bà Nguyễn Thị Thủy Khơi.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lương Thị Nhẫn - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Yên Dũng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng tham gia phiên
tòa: Ông Lương Văn Tuấn - Kiểm sát viên.
Trong ngày 28 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên
Dũng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 106/2024/TLST-HNGĐ ngày
14/6/2024 về “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2024/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm
2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị T, sinh năm 1987 (có mặt)
Địa chỉ: Tổ Tiền, phường Xương Giang, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc
Giang.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Quang Đ, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Ngọc Sơn,
xã Quỳnh Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/6/2024 bản tự khai và quá trình tố tụng
tại Tòa án, nguyên đơn chị Phạm Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Quang Đ
đã được Toà án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang giải quyết ly hôn
theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả thuận của các đương sự
số 42/2014/QĐST-HNGĐ ngày 26/5/2014. Theo Quyết định anh Đ được trực
tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung là cháuNguyễn Thị Minh P,
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN DŨNG
TỈNH BẮC GIANG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự do - Hạnh phúc
2
sinh ngày 09/3/2011 cho đến con chung đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con
chung không đặt ra giải quyết. Sau khi chị và anh Đ ly hôn, cháu P về ở cùng
anh Đ và ông bà nội. Chị thường xuyên đi lại thăm nom con nhưng chị chỉ được
thăm con chứ không được đón con đi chơi do ông bà nội cháu và bố cháu không
cho chị đón cháu, mỗi lần thăm cháu chị chỉ được phép chơi với cháu từ một
đến hai tiếng và không được phép đưa cháu ra khỏi nhà ông bà nội. Vì T con
nên chị phải ra Trường mầm non cháu học để được gặp con nhiều hơn, thời gian
này chị cũng được các cô giáo mầm non của con hiểu, thông cảm và tạo điều
kiện cho chị được gần con. Thời gian sau, khi cháu lớn hơn, ông bà nội có tạo
điều kiện hơn cho chị được gần con, những khi con ốm, ông bà đều gọi chị về
đưa con đi khám. Mặc dù, trong quyết định giải quyết ly hôn không đề nghị giải
quyết về vấn đề cấp dưỡng, nhưng chị T thường xuyên mua đồ cho cháu P,
đóng học cho cháu và đưa tiền cho ông bà nội để ông bà chăm sóc cháu. Năm
2016, khi anh Đ kết hôn với vợ mới, cháu P ở hẳn với ông bà nội, không ở cùng
anh Đ nữa. Mặc dù ông bà nội cũng có quan tâm, chăm sóc cháu nhưng nay
cháu P đã lớn, cháu cần hơn sự quan tâm chăm sóc trực tiếp của người mẹ.
Hiện nay, chị đang kinh doanh phòng vé máy bay và kinh doanh tour du
lịch lữ hành với thu nhập khoảng 30.000.000 đồng/ tháng, với thu nhập này chị
hoàn toàn có khả năng tạo điều kiện tốt nhất cho con. Do vậy, để đảm bảo cho
cháu phát triển tốt nhất, chị T yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con
chung từ anh Đ sang cho chị và giao con chung cháuNguyễn Thị Minh P cho
chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
* Bị đơn anh Nguyễn Quang Đ trình bày: Anh và chị T trước đây là vợ
chồng và có 01 con chung duy nhất là cháuNguyễn Thị Minh P, sinh ngày
09/3/2011. Ngày 26/5/2014, Toà án nhân dân huyện Yên Dũng đã ra Quyết định
công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số
42/2014/QĐST-HNGĐ về việc công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh và chị
T. Theo quyết định, anh được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là
cháuNguyễn Thị Minh P. Năm 2016 anh đã kết hôn với vợ mới là chị Phạm Thị
Mai và hiện nay đã có gia đình mới. Năm 2017, anh cho cháu P ra ở với ông bà
nội là ông Nguyễn Quang Sơn và bà Nguyễn Thị Xuyên ở cùng thôn, gia đình
bố mẹ anh có em trai anh ở cùng. Cháu P mặc dù ở với ông bà nội nhưng
thường xuyên đi lại đến nhà anh chơi với em gái của cháu là con của anh với vợ
mới. Mặc dù không trực tiếp chăm sóc cháu P, cháu không ở với anh nhưng anh
vẫn là người lo toàn bộ chi phí ăn học cho cháu, ông bà nội chăm sóc cháu tốt,
3
việc học tập của cháu tốt. Do vậy, đến nay chị T yêu cầu thay đổi người trực
tiếp nuôi con chung đối với cháu P từ anh sang cho chị T thì anh không đồng ý.
Anh được biết cháu P có nguyện vọng ở với chị T, anh không nhất trí.
Anh rất yêu T cháu, nhưng do cách dạy dỗ, chăm sóc cháu đôi khi còn nóng
tính, to tiếng với cháu nên bố con không hiểu nhau. Việc cháu P lên nhà chị T
chơi, anh không cấm đoán nhưng cũng không hài lòng vì khi đi chơi cháu
không xin phép anh.
Ngoài ra, hiện nay anh đang làm nghề lái xe với thu nhập trung bình
khoảng 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng/tháng, với thu nhập này anh đủ
khả năng tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu P.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành lấy lời khai của
cháuNguyễn Thị Minh P; làm việc với bà Phạm Thị Xuyên là bà nội cháu P;
Xác minh với ông Phạm Văn Luân là trưởng thôn Ngọc Sơn, xã Quỳnh Sơn,
huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
CháuNguyễn Thị Minh P trình bày: Cháu là con của bố Nguyễn Quang Đ
và mẹ Phạm Thị T. Sau khi bố mẹ cháu ly hôn, cháu ở với bố và ông bà nội tại
thôn Ngọc Sơn, xã Quỳnh Sơn, huyện Yên Dũng. Hiện nay, cháu là học sinh
lớp 7C trường THCS Quỳnh Sơn, huyện Yên Dũng. Trong thời gian cháu ở với
bố và ông bà nội thì ông bà nội cũng có quan tâm cháu nhưng bố cháu ít quan
tâm đến cháu. Năm nay từ khi cháu nghỉ hè đến nay thì cháu lên ở với mẹ, mẹ
rất quân tâm, chăm sóc và yêu T cháu. Nay, mẹ cháu đề nghị được trực tiếp
nuôi dưỡng, chăm sóc cháu thì cháu có nguyện vọng ở với mẹ vì bây giờ cháu
cũng đã lớn, đến tuổi dậy thì nên cháu muốn được ở với mẹ để mẹ chăm sóc,
dạy dỗ cháu.
Bà Phạm Thị Xuyên là mẹ đẻ của anh Nguyễn Quang Đ trình bày: Chị T
và anh Đ trước đây là con trai, con dâu của bà. Trong quá trình chung sống anh
chị có 01 con chung là cháuNguyễn Thị Minh P, sinh ngày 09/3/2011. Năm
2014, anh Đ và chị T ly hôn, sau khi anh chị ly hôn thì Tòa án giao cho anh Đ là
người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu P. Từ đó, cháu P ở cùng anh Đ và vợ
chồng bà. Bố cháu hàng ngày đi làm lái xe thời gian chính cháu ở với bà, bà là
người trực tiếp chăm sóc cháu. Khoảng giữa năm 2015, chị T và anh Đ có mâu
thuẫn căng thẳng và xô xát nhau, chị T bị Tòa án xử về tội Cố ý gây T tích với
anh Đ, nguyên nhân cũng chỉ là do việc thăm nom, đưa đón con, anh chị không
thống nhất được. Năm 2016, anh Đ kết hôn và có gia đình mới thì anh Đ để
4
cháu P ở với vợ chồng bà. Về phía chị T, mặc dù không ở cùng cháu P nhưng
chị T rất chu đáo, rất quan tâm chăm sóc, lo lắng cho cháu. Chị T vẫn thường
xuyên mua sắm quần áo, đồ dùng cho cháu và cũng hay đóng học cho cháu. Về
phía anh Đ, mặc dù đã có gia đình riêng nhưng gia đình anh Đ ở cùng thôn,
cùng xã với gia đình bà, nên anh Đ hàng ngày vẫn đi lại quan tâm cháu, mọi chu
cấp cho cháu đều do anh Đ lo liệu chứ ông bà không phải lo. Từ giữa tháng 5,
khi cháu P bắt đầu nghỉ hè thì chị T đón cháu P lên thành phố Bắc Giang ở cùng
chị T, gia đình bà cũng gọi cháu về nhưng cháu không muốn về, bà được biết
chị T đã chuyển trường cho cháu P lên thành phố Bắc Giang để học. Nay, chị T
yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con là cháu P từ anh Đ sang chị T
nuôi thì quan điểm của bà đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật. Tòa án thông báo cho bà biết cháu P có nguyện vọng ở với mẹ, vậy bà
cũng mong muốn xem xét nguyện vọng của cháu.
Ông Phạm Văn Luân - Trưởng thôn Ngọc Sơn, xã Quỳnh Sơn, huyện Yên
Dũng, tỉnh Bắc Giang cho biết: Anh Nguyễn Quang Đ và chị Phạm Thị T là
công dân của địa P. Khoảng giữa năm 2014 chị T và anh Đ có giải quyết ly hôn
và Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng đã ra quyết định ly hôn giữa chị T và anh
Đ, khi ly hôn địa P nắm được Tòa án đã giao cho anh Đ là người trực tiếp chăm
sóc nuôi dưỡng con chung là cháu P. Từ khi ly hôn thì địa P thấy mặc dù cháu
P ở với anh Đ nhưng anh Đ không trực tiếp nuôi con mà để ông bà nội chăm
sóc, nuôi dưỡng cháu. Trong quá trình nuôi con, thời gian đầu địa P thấy anh Đ
có gây khó khăn, cản trở, cấm đoán chị T thăm nom, đón con nên anh chị có
mẫu thuẫn và xảy ra đánh nhau. Chị T gây T tích cho anh Đ và đã bị Tòa án
xét xử . Hiện nay, anh Đ đã lập gia đình mới và có con riêng. Mặc dù anh Đ
không ở cùng cháu P nhưng anh Đ vẫn thăm hỏi cháu. Những năm gần đây,
cháu P đã lớn, đã nhận thức được, anh Đ hay nóng tính, tính khí nóng nảy dẫn
đến bố con bất hòa, không hiểu nhau nên đã có lần anh Đ đánh cháu P, gây tổn
T tâm lý cháu vì cháu đang ở độ tuổi phát triển. Chị T mặc dù không trực tiếp
nuôi con nhưng vẫn thường xuyên thăm nom đưa đón, sắm sửa đồ dùng cho
cháu, cũng đóng học cho cháu và rất quan tâm yêu T cháu. Từ khi cháu P nghỉ
hè, địa P không thường xuyên thấy cháu P ở nhà, địa P nắm được thông tin cháu
lên ở với mẹ và nghe thông tin ông bà nội gọi cháu về nhưng cháu ko muốn về
mà muốn ở với mẹ, nên cháu vẫn ở với chị T từ khi nghỉ hè đến nay. Nay, các
bên tranh chấp về việc nuôi con sau ly hôn, địa P đề nghị Tòa án giải quyết theo
quy định của pháp luật, tuy nhiên đề nghị Tòa án xem xét một phần nguyện
vọng của cháu.
5
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Phạm Thị T giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện, giữ nguyên lời khai như đã trình bày. Chị đề nghị Tòa án thay đổi
người trực tiếp nuôi con chung đối với cháuNguyễn Thị Minh P từ anh Nguyễn
Quang Đ sang cho chị. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị không yêu cầu Tòa án
giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Quang Đ được triệu tập hợp lệ tại phiên tòa mở lần
thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, không có lý do. Hội đồng xét xử công
bố lời khai của anh Đ. Chị T không nhất trí,chị vẫn giữ nguyên quan điểm như
đã trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Dũng tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng và quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ quy định của
BLTTDS
Đối với việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn đã chấp
hành đầy đủ quy định của pháp luật; bị đơn chấp hành pháp luật chưa nghiêm.
Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 81, 82, 83, 84 của Luật
hôn nhân và gia đình; Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật
tố tụng dân sự; nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy bản thường vụ Quốc
hội, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn của chị Phạm Thị T, giao con chung là cháuNguyễn
Thị Minh P, sinh ngày 09/3/2011 cho chị Phạm Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Không đặt ra giải quyết.
Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
- Kiến nghị khắc phục: không.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại
phiên toà. Sau khi thảo luận và nghị án. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn là Nguyễn Quang Đ đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do; căn cứ vào
Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử
vắng mặt anh Đ theo quy định.
6
[2]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đơn khởi kiện của
chị Phạm Thị T cùng các tài liệu nộp theo đơn là hợp lệ, đảm bảo đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức, nội dung đơn khởi kiện. Đây là
tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Bị đơn anh Nguyễn
Quang Đ có hộ khẩu thường trú tại xã Quỳnh Sơn, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc
Giang nên căn cứ vào khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố
tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng,
tỉnh Bắc Giang.
[3]. Về nội dung:
[3.1]. Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các
đương sự số 42/2014/QĐST-HNGĐ ngày 26/5/2014 của Tòa án nhân dân
huyện Yên Dũng đã công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Phạm Thị T và
anh Nguyễn Quang Đ, giao cho anh Đ trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung
là cháuNguyễn Thị Minh P, sinh ngày 09/3/2011. Đến nay, chị T đề nghị Tòa án
giải quyết thay đổi người nuôi con chung đối với cháuNguyễn Thị Minh P từ
anh Đ sang cho chị, giao cho chị trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung là
cháuNguyễn Thị Minh P. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị không đề nghị Tòa
án giải quyết; anh Đ không đồng ý để chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu
P.
Xét yêu cầu khởi kiện của chị T, Hội đồng xét xử thấy: Hiện nay chị T
đang kinh doanh phòng vé máy bay và kinh doanh tour du lịch lữ hành với thu
nhập khoảng 30.000.000 đồng/tháng. Với công việc và mức thu nhập như vậy
chị T hoàn toàn có đủ điều kiện kinh tế và thời gian để chăm lo cho con tốt. Anh
Đ mặc dù không đồng ý để chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu P, nhưng
bản thân anh Đ đã lập gia đình và có con riêng, cháu P không ở cùng anh Đ mà
ở cùng với ông bà nội. Như vậy việc anh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu
P là không có. Ngoài ra anh Đ tính khí nóng nảy, bản thân cháu P là con gái,
cháu lại đang trong giai đoạn phát triển thay đổi tâm sinh lý nên cần sự nhẹ
nhàng, quan tâm, giáo dục của người mẹ. Đồng thời phía cháu P cũng có
nguyện vọng được ở với mẹ. Từ tháng 5 năm 2024, khi cháu P bắt đầu nghỉ hè,
cháu lên ở với chị T từ đó đến nay, chị T cũng đã xin chuyển trường cho cháu
lên thành phố Bắc Giang học để được gần gũi cháu và tiện chăm sóc cháu, việc
này ông bà nội cháu cùng anh Đ biết nhưng cũng không có ý kiến phản đối gì.
7
Hiện cháu P đang học lớp 8A5 trường THCS Hoàng Văn Thụ, thành phố Bắc
Giang. Cháu P ở với mẹ sẽ đảm bảo điều kiện cho cháu phát triển toàn diện hơn.
Mặc dù chị T có nhân thân về tội Cố ý gây T tích, bị hại là anh Đ, lý do
xảy ra sự việc này là do chị bị anh Đ cấm đoán thăm đón con, mâu thuẫn xuất
phát từ lòng T yêu con của người mẹ chứ bản chị rất yêu T, quan tâm chăm sóc
con.
Ngoài ra, Đối với quyền thăm nom con, tại khoản 3 Điều 82 Luật hôn
nhân và gia đình đã quy định rõ “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con
có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”, khi Tòa án giải
quyết cho chị T và anh Đ ly hôn đã giải thích rõ cho các đương sự quyền, nghĩa
vụ, đồng thời cũng đã ghi rõ trong quyết định của Tòa án, song anh Đ không
cho chị đón con mà chỉ cho thăm con, việc này được chính anh Đ thừa nhận và
địa P cũng nắm được. Tòa án đã xác minh tại địa P, địa P cũng xác nhận anh Đ
gây khó khăn, cản trở chị T thăm đón cháu P như chị T trình bày là đúng. Như
vậy, HĐXX thấy anh Đ đã vi phạm quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và
không phù hợp đạo đức, truyền thống.
Từ những phân tích ở trên, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của các con
chung, để đảm bảo sự phát triển về mặt thể chất lẫn điều kiện chăm sóc, nuôi
dưỡng, học tập của cháu P, HĐXX xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị T,
thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, giao cháuNguyễn Thị Minh P,
sinh ngày 09/3/2011 từ anh Đ sang cho chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng giáo dục là phù hợp theo quy định tại các Điều 81, 82, 83 và Điều
84 của Luật Hôn nhân và gia đình cũng như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tại phiên tòa.
Anh Đ không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung
không ai được phép ngăn cản anh Đ thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con
chung, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu
cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
[3.2]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu giải quyết về
cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4]. Về án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy
định tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
8
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273 của
Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin thay đổi người trực tiếp nuôi con sau
khi ly hôn của chị Phạm Thị T. Giao con chung là cháuNguyễn Thị Minh P,
sinh ngày 09/3/2011 cho chị Phạm Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục.
Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được phép ngăn
cản anh Đ thực hiện quyền này.
2. Án phí: Chị Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ
thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng chị đã nộp tiền tạm ứng án phí
theo biên lai thu thu số 0005234 ngày 14/6/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự
huyện Yên Dũng. Xác nhận chị T đã nộp đủ án phí.
3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền
kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án
được niêm yết.
Án xử công khai sơ thẩm.
Nơi nhận:
-TAND tỉnh Bắc Giang;
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
- VKSND huyện Yên D;
- Các đương sự;
- UBND xã Quỳnh S;
- Chi cục THADS huyện Yên D;
-Lưu HS, Vp.
Nguyễn Thị Anh
9
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
Nguyễn Thị Thủy Khơi Đinh Thị Thu Huyền
THẨM PHÁN -CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nguyễn Thị Anh
10
Nơi nhận:
-TAND tỉnh Bắc Giang;
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
- VKSND huyện Yên Dũng;
- Các đương sự;
- UBND xã Quỳnh Sơn;
- Chi cục THADS huyện Yên Dũng;
-Lưu HS, Vp.
Nguyễn Thị Anh
11
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
Nguyễn Văn Thái Lương Ngọc Biên
THẨM PHÁN -CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nguyễn Thị Anh
12
Nơi nhận:
-TAND tỉnh Bắc Giang;
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà
- VKSND huyện Y D;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS huyện Y D;
-Lưu HS, Vp.
Nguyễn Thị Anh
13
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 18/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm