Bản án số 404/2024/HC-PT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 404/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 404/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 404/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 404/2024/HC-PT ngày 23/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 404/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/10/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc G {gồm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
--------------
Bản án số 404/2024/HC-PT
Ngày 23/10/2024
Về “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
------------------------------
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Chủ tọa phiên tòa: ông Đặng Kim Nhân - Thẩm phán
Các Thẩm phán: ông Nguyễn Cường, ông Trần Quốc Cường
- Thư ký phiên tòa: bà Đoàn Thị Thu Hiền
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: bà Bùi Ngô Ý Nhi - Kiểm sát viên cao cấp.
Ngày 23 tháng 10 năm 2024, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở
phiên tòa công khai tại trụ sở để xét xử phúc thẩm vụ án hành chính thụ lý số
161/2024/TLPT-HC ngày 24/6/2024 về “Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai” đối với Bản án hành chính sơ
thẩm số 53/2024/HC-ST ngày 10/4/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị
kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1981/2024/QĐ-PT
ngày 02/10/2024 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữa:
Người khởi kiện: ông Nguyễn Ngọc G, sinh năm 1954, địa chỉ: A Hồ T,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn T;
địa chỉ: B L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
Người bị kiện:
1. Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ trụ sở: D P, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của VPĐKĐĐ tỉnh Đắk Lắk: ông
Lê Ly Đ, Trưởng phòng Đăng ký và cấp Giấy chứng nhận thuộc Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
2. Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ
trụ sở: C T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk do ông Nguyễn Văn M – Giám đốc Chi
nhánh đại diện có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Chị Trần Thị Thanh L, sinh năm 1988, địa chỉ: nhà số B A, phường B, quận
B, thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại Đơn khởi kiện ngày 25/8/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
21/11/2023 và quá trình giải quyết vụ án, Người khởi kiện ông Nguyễn Ngọc G
và người đại diện theo ủy quyền của ông G trình bày:
2
Tháng 10/2021, ông G khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma
Thuột, yêu cầu giải quyết công nhận ông G có quyền sử dụng 335m
2
đất nhận
chuyển nhượng theo giấy viết tay giữa vợ chồng ông Trần Thanh C, bà Ngô X
với ông G ngày 15/10/2007; yêu cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số D 0410954 mà UBND thị xã B (nay là thành phố B) cấp cho“hộ ông
Trần Thanh C” ngày 06/3/1995 đối với phần diện tích đất 335m
2
mà ông C, bà X
đã chuyển nhượng cho ông G; yêu cầu hủy một phần Văn bản phân chia di sản
thừa kế do bà Ngô Thị X và các con Trần Thị Thanh L, Trần Thị Thanh X1, Trần
Thị Thanh M1, Trần Bảo L1 lập ngày 08/3/2012 tại Văn phòng C đối với diện
tích đất 335m
2
ông C, bà X đã chuyển nhượng cho ông G. Quá trình Tòa án giải
quyết, ông G rút một phần yêu cầu khởi kiện về yêu cầu hủy một phần Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2022/DSST ngày 30/3/2022, Tòa án nhân
dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk quyết định: 1. “Chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc G: 1.1 Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 15/10/2007 giữa ông Trần Thanh C, bà Ngô Thị X và
ông Nguyễn Ngọc G đối với diện tích đất 335m
2
(trong đó đất ở 133m
2
, đất nông
nghiệp, đất màu 202m
2
); thuộc thửa đất số 111, tờ bản đồ số 13, có tổng diện
tích 1.000m
2
…… Ông G có trách nhiệm liên hệ các cơ quan có thẩm quyền để
thực hiện kê khai, tách thửa, đăng ký, xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với diện tích đất trên theo quy định của pháp luật và chịu mọi khoản
thuế, phí, chi phí liên quan; 1.2 Hủy một phần Văn bản phân chia di sản thừa kế
ngày 08/3/2012 giữa bà Ngô Thị X với bà Trần Thị Thanh L, bà Trần Thị Thanh
X1, bà Trần Thị Thanh M1, ông Trần Bảo L1 đối với phần diện tích đất 335m
2
ông C, bà X đã chuyển nhượng cho ông G vào ngày 15/10/2007. Kiến nghị Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B hủy bỏ một phần nội dung đăng
ký biến động ngày 26/3/2012 tại trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số D 0410954 đối với phần diện tích đất ông C, bà X đã chuyển nhượng cho ông
G vào ngày 15/10/2007, để ông G thực hiện các thủ tục tách thửa, đăng ký, xin
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nhận chuyển
nhượng”. Bà X và chị L kháng cáo, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành
phố Buôn Ma Thuột kháng nghị. Tại Bản án Dân sự phúc thẩm số 170/2022/DS-
PT ngày 09/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết định giữ nguyên bản án
dân sự sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, ông G gửi đơn đến Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố B xin tách thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đối với 335m
2
đất theo quyết định của bản án phúc thẩm, nhưng Phòng
một cửa Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B từ chối nhận hồ sơ
và trả lời ông G tại Văn bản số 1344/CNBMT-HCTH ngày 31/5/2023 là không
đủ điều kiện tách thửa, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông G. Ông
Giao tiếp T1 khiếu nại, thì ngày 09/8/2023 Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh
ĐăkLăk ban hành Văn bản số 728/VPĐKĐĐ-HCTH trả lời ông G “Để đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, VPĐKĐĐ - Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đắk Lắk đã hướng dẫn ông Nguyễn Ngọc G khởi kiện đến Tòa án để
yêu cầu bà Trần Thị Thanh L giao GCNQSDĐ để thực hiện việc chỉnh lý biến
3
động quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị Thanh L, làm căn cứ cấpGCNQSDĐ
cho ông Nguyễn Ngọc G theo đúng quy định của pháp luật ”.
Nay, ông G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: (i) hủy Văn bản số
1344/CNBMT-HCTH ngày 31/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố B và hủy Văn bản số 728/VPĐKĐĐ-HCTH ngày 09/8/2023 của Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk; (ii) Buộc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai thành phố B và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk thực hiện quyết
định của Bản án phúc thẩm số 170/2022/DS-PT ngày 09/9/2022 của Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk theo khoản 3, khoản 7 Điều 87 Nghị định 43 của Chính phủ
ngày 15/5/2014 là hủy bỏ nội dung đăng ký biến động ngày 26/3/2012 tại trang
04 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 đối với phần diện tích
đất ông C, bà X đã chuyển nhượng cho ông G, để ông G thực hiện các thủ tục
tách thửa, đăng ký, xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích
335m
2
đất nhận chuyển nhượng.
Ngày 21/11/2023, ông G bổ sung yêu cầu khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B và Văn phòng đăng ký đất đai
tỉnh Đắk Lắk thực hiện hành vi hành chính hủy bỏ nội dung đăng ký biến động
ngày 26/3/2012 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Đắk Lắk tại
trang 04 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954, cụ thể hủy nội
dung đăng ký biến động ngày 26/3/2012:“bà Trần Thị Thanh L…nhận thừa kế
quyền sử dụng đất được Văn phòng C chứng thực theo hợp đồng số 2739, Quyển
số 02/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 08/3/2023, đã xác định Nghĩa vụ tài chính ngày
15/03/2012 “Không phải nộp”.
* Người bị kiện Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B trình
bày:
Ngày 10/3/2012 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B tiếp
nhận hồ sơ phân chia di sản thừa kế của chị Trần Thị Thanh L đối với thửa đất số
111, tờ bản đồ số 13, diện tích 1.000m
2
loại đất ở khu dân cư, tọa lạc tại xã H,
thành phố B, mã hồ sơ HOAPH-002315C. Hồ sơ tiếp nhận gồm: Đơn đề nghị
đăng ký biến động về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 do UBND thị xã
B cấp ngày 06/3/1995 cho hộ Trần Thanh C; Văn bản phân chia di sản thừa kế số
2739, quyển sổ 02/TP/CC- SCC/HĐGD của Vãn phòng C1; Bản sao Giấy chứng
tử của ông Trần Thanh C; bản sao Giấy khai sinh của chị Trần Thị Thanh L; Tờ
khai lệ phí trước bạ; Tờ khai thuế thu nhập cá nhân. Căn cứ Điều 106 Luật Đất
đai năm 2003 Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố B (nay là Chi
nhánh VPĐKĐĐ thành phố B) xử lý hồ sơ, lập phiếu chuyển thông tin địa chính
chuyển cơ quan thuế. Ngày 15/3/2012 Chi cục T4 phát hành thông báo nghĩa vụ
tài chính, ngày 26/3/2012 Văn phòng xác nhận biến động chủ sử dụng sang tên
“bà Trần Thị Thanh L” là đúng quy định.
Ngày 31/5/2023 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B nhận
được đơn đề ngày 20/5/2023 của ông G đề nghị Chi nhánh cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông G đối với diện tích đất ông Giao nhận chuyển
nhượng của cha mẹ chị L, đồng thời yêu cầu dừng giải quyết hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất ông Giao nhận chuyển nhượng
4
của cha mẹ chị L; sau khi xem xét nội dung đơn, các giấy tờ có liên quan, Chi
nhánh có ý kiến như sau:
- Ngày 19/10/2022 Chi nhánh nhận được đơn của ông G đề nghị hủy một
phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 cấp ngày 06/3/1995
theo Bản án dân sự phúc thẩm số 170/2022/DS-PT ngày 09/9/2022 của Tòa án
nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Ngày 31/10/2022 và ngày 10/11/2022, Chi nhánh đã tổ
chức họp mời đại diện UBND xã H, ông G và chị L tham gia, nhưng chị L vắng
cả 02 lần mời họp
- Để có cơ sở thi hành Bản án số 170/2022/DS-PT, ngày 30/11/2022 Chi
nhánh ban hành Thông báo số 3059/TB-CNBMT gửi, đề nghị chị L giao Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 để Chi nhánh có thể thực hiện việc
đo đạc, đăng ký biến động cho ông G, đồng thời cấp đổi phần diện tích đất còn
lại cho chị L, nhưng chị L không nộp Giấy chứng nhận.
- Chi nhánh VPĐKĐĐ thành phố Buôn Ma T2 và Văn phòng Đăng ký đất
đai tỉnh Đắk Lắk đã có Văn bản đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk trả lời.
Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk có Công văn trả lời số 501/TA-CV ngày
10/5/2023 thì ngày 31/5/2023 Chi nhánh ban hành Công văn số 1344/CNBMT-
HCTH giải quyết đơn đề nghị của ông G như sau: + Đối với khiếu nại cho rằng
Chi nhánh chậm trễ trong việc giải quyết hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông G thì Chi nhánh chưa nhận được hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của gia đình ông G nên khiếu nại của ông G là không có
cơ sở; + Đối với đề nghị hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D
0410954 thì ông G đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về nội dung này tại Tòa
án; + Bản án phúc thẩm số 170/2022/DS-PT ngày 09/9/2022 của Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk không quyết định thu hồi hoặc buộc chị L giao nộp Giấy chứng
nhận để ông G có thể liên hệ các cơ quan có thẩm quyền thực hiện kê khai, tách
thửa, đăng ký, cấp giấy chứng nhận đối với phần diện tích 335m
2
và hủy một
phần nội dung đăng ký biến động tại trang IV của Giấy chúng nhận mà chỉ công
nhận Hợp đồng chuyển nhượng đất giữa vợ chồng ông C, bà X với ông G nên
Chi nhánh không có cơ sở trình UBND thành phố Buôn Ma T2 hủy một phần
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Đơn đề nghị của ông G nên đề nghị
ông G khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Người bị kiện Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk trình bày: Ngày
24/7/2023 Văn phòng Đ nhận được đơn của ông G khiếu nại việc không được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quyết định tại Bản án dân sự phúc
thẩm số 170/2022/DS-PT ngày 09/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Ngày 03/8/2023, Văn phòng mời ông G (do ông T3 là đại diện theo ủy quyền),
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B làm việc, tại buổi làm việc
Chi nhánh cho biết ông G chưa xuất trình đủ các tài liệu theo quy định để Chi
nhánh trình UBND thành phố B thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
D 0410954, cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông G nên Chi
nhánh từ chối nhận hồ sơ. Quan điểm của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk
Lắk là đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông G.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 53/2024/HC-ST ngày 10/4/2024, Tòa
án nhân dân tỉnh Đăk Lăk quyết định:
5
Căn cứ: Điều 30; Điều 32; Điều 116; điểm b khoản 2 Điều 193 và Điều 206
của Luật Tố tụng hành chính; Áp dụng Điều 106 Luật Đất đai năm 2003; Điều
87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ;
Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19 tháng 05 năm 2014 của Bộ T5 quy
định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất; khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc G.
Buộc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk thực hiện hành vi hành
chính hủy bỏ nội dung đăng ký biến động ngày 26/3/2012 của Văn phòng Đăng
ký quyền sử dụng đất tỉnh Đắk Lắk tại trang 04 của Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số D 0410954 ngày 06/3/1995 do Ủy ban nhân dân thị xã B cấp cho hộ
ông Trần Thanh C, cụ thể hủy nội dung đăng ký biến động ngày 26/3/2012 như
sau: Bà Trần Thị Thanh L, sinh năm 1988, số CMND: 240996324; Địa chỉ
thường trú: 143/65 Khu phố A - Đường P - Phường B - Quận B - Tp HCM.
Nhận thừa kế QSD đất được Văn phòng C chứng thực theo hợp đồng số: 2739
Quyển số: 02/TP/CC-SCC/HĐGD ngày 08/3/2023. Đã xác định NVTC ngày
15/03/2012 “Không phải nộp”.
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk có trách nhiệm chỉnh lý, đăng ký
biến động cho ông Nguyễn Ngọc G đối với phần diện tích đất 335m
2
mà ông C,
bà X đã chuyển nhượng cho ông G vào ngày 15/10/2007 trong GCNQSDĐ số D
0410954.
[2]. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc G
về việc:
Yêu cầu hủy Văn bản số 1344/CNBMT-HCTH ngày 31/5/2023 của
CNVPĐKĐĐ thành phố B và hủy Văn bản số 728/VPĐKĐĐ-HCTH, ngày
09/8/2023 của VPĐKĐĐ tỉnh Đắk Lắk.
Buộc CNVPĐKĐĐ thành phố Buôn Ma T2 thực hiện Quyết định của Bản
án Phúc thẩm số 170/2022/DS-PT ngày 09/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk theo khoản 3, khoản 7 Điều 87 Nghị định 43 của Chính phủ ngày
15/5/2014 là: CNVPĐKĐĐ thành phố B hủy bỏ một phần nội dung đăng ký biến
động ngày 26/3/2012 tại trang 04 của GCNQSDĐ số D 0410954 đối với phần
diện tích đất ông C, bà X đã chuyển nhượng cho ông G vào ngày 15/10/2007
trên, để ông G thực hiện các thủ tục tách thửa, đăng ký, xin cấp GCNQSDĐ đối
với diện tích đất nhận chuyển nhượng.
[3]. Về án phí: Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk phải chịu 300.000
đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B và Văn phòng đăng ký
đất đai tỉnh Đắk Lắk đều có Đơn kháng cáo
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B và Văn phòng đăng ký
đất đai tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên kháng cáo.
6
- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:
+ Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng, Hội đồng xét xử phúc thẩm và Thư ký Tòa án đã thực hiện
đúng quy định của Luật tố tụng hành chính;
+ Về nội dung vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án đúng nội dung
vụ án, đúng pháp luật, nên đề nghị bác kháng cáo của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai thành phố B và Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh ĐắkLắk, giữ
nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được kiểm tra, xem
xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 15/10/2007 ông Trần Thanh C và vợ bà Ngô Thị X ký Giấy sang
nhượng (không có công chứng, chứng thực) chuyển nhượng cho ông Ngô Ngọc
G1 300m
2
đất (10mx10m) là một phần thửa đất số 111, tờ bản đồ số 13 diện tích
1.000m
2
loại đất “khu dân cư lâu dài” xã H, thị xã B được UBND thị xã B cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 ngày 06/3/1995 cho “hộ ông
Trần Thanh C”. Cuối năm 2011 ông C chết không để lại di chúc, ngày 08/3/2012
tại Văn phòng C bà X cùng các con Trần Thị Thanh L, Trần Thị Thanh X1, Trần
Thị Thanh M1 và Trần Bảo L1 lập Văn bản phân chia di sản thừa kế thống nhất
cho chị L được hưởng toàn bộ quyền sử dụng thửa đất 111, ngày 26/3/2012 chị L
được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B chỉnh lý đứng tên chủ
sử dụng thửa đất 111 tại trang 4 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D
0410954.
[2] Năm 2021 ông G1 khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận ông G1 có
quyền sử dụng 335m
2
đất (đo thực tế) mà ông G1 đã nhận chuyển nhượng, yêu
cầu hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 và hủy một
phần Văn bản phân chia di sản thừa kế đối với diện tích đất ông G1 đã nhận
chuyển nhượng. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 170/2022/DS-PT ngày
09/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số
21/2022/DSST ngày 30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột
với quyết định: 1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc G về việc
công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 15/10/2007 giữa
ông Trần Thanh C, bà Ngô Thị X và ông Nguyễn Ngọc G đối với diện tích đất
335m
2
(trong đó đất ở 133m
2
, đất nông nghiệp, đất màu 202m
2
), thuộc thửa đất
số 111, tờ bản đồ số 13, có tổng diện tích 1.000m
2
…có tứ cận: + Phía đông giáp
đất ông S, cạnh dài 10m; Phía tây giáp đường bê tông, cạnh dài 10m; + Phía
nam giáp đường bê tông, cạnh dài 33,5m; + Phía bắc giáp phần đất còn lại của
thửa 111, cạnh dài 33,5m. Ông G có trách nhiệm liên hệ các cơ quan có thẩm
quyền để thực hiện kê khai, tách thửa, đăng ký, xin cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với diện tích đất trên theo quy định của pháp luật và chịu mọi
khoản thuế, phí, chi phí liên quan. 2/ Hủy một phần Văn bản phân chia di sản
thừa kế ngày 08/3/2012 giữa bà Ngô Thị X với bà Trần Thị Thanh L, bà Trần
Thị Thanh X1, bà Trần Thị Thanh M1, ông Trần Bảo L1 đối với phần diện tích
7
đất 335m
2
ông C, bà X đã chuyển nhượng cho ông G vào ngày 15/10/2007. 3/
Kiến nghị Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B hủy bỏ một phần
nội dung đăng ký biến động ngày 26/3/2012 tại trang 4 của Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số D 0410954 đối với phần diện tích đất ông C, bà X đã
chuyển nhượng cho ông G vào ngày 15/10/2007, để ông G thực hiện các thủ tục
tách thửa, đăng ký, xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích
đất nhận chuyển nhượng…”. Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực, ông G yêu
cầu Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B thi hành phán quyết tại
bản án, cấp cho ông G Giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích 335m
2
đất,
nhưng Chi nhánh từ chối nhận hồ sơ xin đo đạc, tách thửa và cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông G vì không đủ điều kiện.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử tổ chức cho hai bên đối thoại
theo hướng ông G chịu trách nhiệm thuyết phục chị L giao nộp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số D 0410954 và ký biên bản bàn giao đất để Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố B thực hiện quy trình thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số D 0410954, cấp cho ông G Giấy chứng nhận quyền sử
dụng diện tích nhận chuyển nhượng và cấp cho chị L Giấy chứng nhận quyền sử
dụng diện tích đất còn lại, nếu đối thoại được thì sẽ dừng phiên tòa để thực hiện.
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B đồng ý với phương án Tòa án
đưa ra, vì như vậy là cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo yêu cầu đồng
thuận của các đương sự không có tranh chấp, nhưng ông G trình bày đã trao đổi,
nhưng chị L không đồng ý giao nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D
0410954 và cũng không đồng ý giao đất.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành
phố B trình bày lý do Chi nhánh từ chối nhận hồ sơ xin đo đạc, tách thửa và cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông G vì: (i) theo quy định tại điểm b
khoản 1 Điều 17 Thông tư số 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5
thì khi đăng ký, chỉnh lý biến động chủ sử dụng đất trên Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất thì “Bên chuyển quyền phải giao nộp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất”, nhưng Bản án dân sự phúc thẩm không buộc chị L giao nộp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 mặc dù Chi nhánh đã gửi Văn bản
cho chị L, nhưng chị L không giao nộp Giấy chứng nhận và cũng không hợp tác
đo đạc, ký biên bản bàn giao đất nên Chi nhánh không có cơ sở thực hiện việc
chỉnh lý; (ii) Đăng ký biến động ngày 26/3/2012 tại trang 4 của Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số D 0410954 thực hiện theo nội dung Văn bản phân chia di
sản thừa kế ngày 08/3/2012 lập tại Văn phòng C giữa bà X và các con nên Chi
nhánh không có quyền “hủy bỏ” đăng ký kiến động này mà thuộc thẩm quyền
của Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự có quyền hủy bỏ quyết định cá biệt quy
định tại Khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự; (iii) Vì chị L không giao nộp
lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 nên việc Bản án dân sự
phúc thẩm buộc Chi nhánh phải đăng ký biến động công nhận ông G có quyền sử
dụng đất 335m
2
đất, đồng nghĩa buộc cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông G thì lẽ ra Tòa án phải hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số D 0410954 vì việc hủy quyết định cá biệt này thuộc thẩm quyền của
Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết
8
vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông G
với vợ chồng ông C, bà X, không thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân; (iv)
Bản án dân sự phúc thẩm buộc Chi nhánh đăng ký biến động cho ông G đối với
quyền sử dụng 335m
2
đất gồm 133m
2
đất ở, 202m
2
đất nông nghiệp, đất màu,
thuộc thuộc thửa đất số 111, tờ bản đồ số 13 có tổng diện tích 1.000m
2
đất“khu
dân cư lâu dài” là không chính xác; buộc đăng ký biến động cho ông G quyền
sử dụng 335m
2
đất (kích thước 10m x 33,5m) là cách tính diện tích đất“ước
lượng” theo hình chữ nhật, trong khi thực tế đất hình chéo và theo quy định thì
việc cấp Giấy chứng nhận phải căn cứ kích thước, hình dạng, diện tích thửa đất
được đo đạc, chỉnh lý trên bản đồ địa chính, theo phương pháp toán học (phần
mềm).
[4] Xét, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B từ chối nhận hồ
sơ xin đo đạc, tách thửa và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông G
với lý do đã trình bày tại mục [3] là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Lẽ
ra, khi giải quyết vụ án dân sự tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông G với vợ chồng ông C, bà X, nếu có đủ căn cứ công nhận hợp
đồng chuyển nhượng thì Tòa án phải hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số D 0410954, hủy một phần Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày
08/3/2012 và hủy nội dung đăng ký biến động ngày 26/3/2012 tại trang 04 của
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 theo quy đinh tại khoản 1
Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự; yêu cầu Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
thành phố B đo đạc, lập sơ đồ hiện trạng đất dự định công nhận quyền sử dụng
cho ông G theo phương pháp toán học (phần mềm); yêu cầu chị L giao nộp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 trong thời hạn nhất định và bàn
giao đất để Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B thực hiện chỉnh lý
khi các bên hợp tác hoặc làm thủ tục thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số D 0410954 để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông G đối với
diện tích nhận chuyển nhượng và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
chị L phần đất còn lại mới có thể thi hành án. Vì các lẽ trên, cấp phúc thẩm xét
Tòa án cấp sơ thẩm (Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk) khi giải quyết vụ án hành
chính đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông G “Buộc Văn phòng đăng ký đất
đai tỉnh Đắk Lắk hủy bỏ nội dung đăng ký biến động ngày 26/3/2012, tại trang
04 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954… và có trách nhiệm
chỉnh lý, đăng ký biến động cho ông Nguyễn Ngọc G đối với phần diện tích đất
335m
2
mà ông C, bà X đã chuyển nhượng cho ông G vào ngày 15/10/2007 trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954” là không đúng pháp luật nên
sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông G. Theo quy định tại
khoản 5 Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và
Điều 1 Quyết định số 251/QĐ-STNMT ngày 22/5/2023 của Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh Đắk Lắk thì từ Quý III năm 2003 thẩm quyền xác nhận thay đổi
(chỉnh lý) vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai thành phố B, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc Văn phòng đăng
ký đất đai tỉnh Đắk Lắk thực hiện là không đúng và cách tuyên bản án sơ thẩm
khó hiểu, mâu thuẫn (phần [1] tuyên chấp nhận, phần [2] tuyên không chấp nhận,
9
đối với cùng bản chất yêu cầu khởi kiện của ông G, tuy khác chủ thể phải thực
hiện), các thiếu sót này cần rút kinh nghiệm.
[5] Bản án dân sự phúc thẩm số 170/2022/DS-PT ngày 09/9/2022 của Tòa
án nhân dân tỉnh Đắk Lắk và Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2022/DSST ngày
30/3/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột giải quyết vụ án “Yêu
cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy một phần văn
bản phân chia di sản thừa kế” giữa Nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc G với Bị đơn
vợ chồng ông Trần Thanh C, bà Ngô Thị X có nhiều thiếu sót dẫn đến không thể
thi hành án nên ông G hoặc các đương sự khác trong vụ án có quyền đề nghị
xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án này theo quy định của
pháp luật.
[6] Về án phí: Cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông G, nhưng do bản án dân sự phúc thẩm mà ông G viện dẫn để khởi
kiện vụ án hành chính này có nhiều thiếu sót không thể thi hành án, mặt khác,
ông G là người cao tuổi đã có Đơn xin miễn án phí nên ông G không phải chịu
án phí hành chính sơ thẩm. Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B và Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk không phải chịu án hành chính phúc thẩm
nên được hoàn lại tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, sửa toàn bộ
bản án hành chính sơ thẩm số 53/2024/HC-ST ngày 10/4/2024 của Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk, như sau:
Căn cứ Điều 30, Điều 32, Điều 116, điểm b khoản 2 Điều 193, Điều 206
Điều 348, 349 của Luật Tố tụng hành chính, Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Áp dụng Điều 106 Luật Đất đai năm 2003; Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2014 của Chính phủ; điểm b khoản 1 Điều 17 Thông tư số
23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 của Bộ T5 quy định về Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; khoản 1
Điều 34 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 1 Nghị định số 10/2023/NĐ-CP
ngày 03/4/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định
hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Điều 1 Quyết định số 251/QĐ-STNMT ngày
22/5/2023 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk, xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc G {gồm: - Yêu cầu
hủy Văn bản số 1344/CNBMT-HCTH ngày 31/5/2023 của Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai thành phố B và Văn bản số 728/VPĐKĐĐ-HCTH ngày
09/8/2023 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk; - Yêu cầu Văn phòng
Đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk hoặc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành
phố B thực hiện hành vi hành chính hủy bỏ nội dung đăng ký biến động ngày
26/3/2012 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất tỉnh Đắk Lắk tại trang 04
của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 0410954 ngày 06/3/1995 do Ủy
10
ban nhân dân thị xã B cấp cho hộ ông Trần Thanh C; - Yêu cầu Văn phòng Đăng
ký đất đai tỉnh Đắk Lắk hoặc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B
chỉnh lý, đăng ký biến động hoặc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Nguyễn Ngọc G đối với phần diện tích đất 335m
2
mà ông C, bà X đã chuyển
nhượng cho ông G ngày 15/10/2007 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số D 0410954}.
2. Về án phí:
Ông Nguyễn Ngọc G không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm.
Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đắk Lắk được hoàn trả 300.000 đồng đã
nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0012850 ngày 02/5/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B được hoàn trả 300.000
đồng đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0012856 ngày 07/5/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ giám đốc kiểm tra III-TANDTC;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk;
- Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lăk
(để thi hành);
- Lưu: Phòng lưu trữ; hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Đặng Kim Nhân
Tải về
Bản án số 404/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 404/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm