Bản án số 395/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 395/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 395/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 395/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bác kháng cáo của ông Đặng Văn A, bà Nguyễn Thị D, giữ nguyên quyết định Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2024/HC-ST ngày 27 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 395/2024/HC-PT
Ngày: 30/9/2024
V/v: Khiếu kiện quyết định hành
chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Hợp
Ông Đặng Kim Nhân
Ông Lê Văn Thường
Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Thị Thanh Yên - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Phạm Tấn Ánh - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 206/2024/TLPT-HC ngày
22 tháng 7 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính thẩm số 18/2024/HC-ST ngày 27 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1912/2024/-PT ngày 09 tháng
9 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Ông Đặng Văn A, sinh năm: 1958 và bà Nguyễn Thị
D, sinh năm: 1955.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đặng Văn A: Nguyễn Thị D, sinh
năm: 1955 (theo Văn bản ủy quyền lập ngày 07/12/2023). mặt tại điểm cầu
trung tâm.
Cùng địa chỉ: Thôn N, xã N, huyện N, tỉnh Khánh Hòa.
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân (UBND) huyện L, tỉnh Quảng Ngãi;
2.2. Chủ tịch UBND huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
2
Người đại diện theo pháp luật: Chủ tịch UBND huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện: Ông Mai Văn
T - Trưởng phòng Tài nguyên Môi trường huyện L. đơn đề nghị xét xử
vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Đặng A1 (Đặng Văn A2), sinh năm: 1954. Địa chỉ: Khu dân cư S,
thôn T, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
3.2. Ông Nguyễn Hùng H.
3.3. Bà Võ Thị H1.
Cùng địa chỉ: Khu dân cư S, thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
3.4. Ông Phù Văn H2. Địa chỉ: Thôn Đ, huyện L, tỉnh Quảng Ngãi.
Ông A, ông H, bà H1, ông H2 đều vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 23/10/2023, đơn khởi kiện bổ sung ngày
05/12/2023, trong quá trình tham gia tố tụng tại phiên tòa, người khởi kiện
trình bày:
Về diện tích đất khoảng 1.200m
2
trồng hành, tỏi tại núi H ông, nội của
Nguyễn Thị D khai phá từ lâu đời để lại cho cha mẹ là ông Nguyễn M
(chết năm 1985) bà Thị T1 (chết năm 2003) sản xuất, canh tác từ năm
1968 đến sau ngày giải phóng. Năm 1977, lập gia đình cha mẹ giao lại toàn
bộ diện tích đất trên cho sản xuất. Đến năm 1993 thì bà cho ông Bùi Thanh
H3 canh tác khoảng 100m
2
, ông H3 sản xuất đến năm 1995 thì trả lại. Vợ chồng
ông bà tiếp tục sản xuất đến cui năm 2004. Đến giữa năm 2005, ông bà cho
Dương Thị A3 con dâu của ông Nguyễn X thuê toàn bộ diện tích đất khoảng
1.200m
2
để trồng hành, tỏi. Tuy nhiên, A3 chưa kịp làm hết diện tích đất thuê
thì năm 2006 ông Đặng A2 đã tự ý sdụng 01 triền (gọi lô) đất diện tích
172,6m
2
(trong số đất ông H3 trả lại D cho Dương Thị A3 thuê chưa
trồng trọt) để trồng hành, tỏi mà không hỏi ý kiến ông bà. Dương Thị A3 nói
với ông Đặng A2: “Tôi thuê đất của D và dượng A sao ông dành làm”, Ông
Đặng A2 trả lời: “Đất Hai A tao làm, nó về tao trả”. Khi vợ chồng bà về gặp ông
Đặng A2 để lấy lại thửa đất ông đã sử dụng, thì ông Đặng A2 ng nói: “Bây
về tao trả”, nhưng cho đến nay ông Đặng A v chưa trả lại thửa đất cho vợ chồng
bà. Đến tháng 5/2008, Dương Thị A3 không làm nữa và giao lại toàn bộ diện
tích đất này cho vợ chồng ông bà. Năm 2008, vợ chồng ông Nguyễn Hùng H
Thị H1 (gọi bà là cô ruột) thuê diện tích đất do A3 trả lại để canh tác.
Vợ chồng ông H H1 viết giấy xác nhận thuê đất tnăm 2008 đến năm
2018 và gia hạn từ năm 2019 đến năm 2021. Trong 10 năm đầu từ năm 2008 đến
3
năm 2018 thì mỗi năm tiền thuê 500.000 đồng (năm trăm ngàn đồng) những
năm sau mỗi năm tiền thuê 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Diện tích đất
khoảng 1.200m
2
đất trồng hành, tỏi, gồm 08 thửa (bậc triền kề nhau). Năm
2017, UBND huyện L chỉ mới cấp được 01 thửa với diện ch 139,9m
2
(thửa 819,
tờ bản đồ số 9, tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BO 507350). Hiện nay
còn lại 07 thửa như sau: 01 (lô) thửa đất số 831, hiệu BHK, diện tích là
172,6m
2
ông Đặng A c của bà (từ năm 2006); 01 diện tích khoảng 888,0m
2
trên bản đhiện trạng chưa đo đạc giải thửa (gồm 06 thửa đất ranh giới bờ
thửa riêng liền kề), ranh giới như sau: Đông giáp Đất ông N đang sản xuất
(trong thửa 710 tờ bản đồ số 9, diện tích 30.303,0m
2
). Tây giáp Đất đo gộp trong
thửa 710 tờ bản đồ số 9, diện tích 30.303,0m
2
. Nam giáp Thửa 819, ký hiệu
BHK diện tích 139,9m
2
đã cấp sổ cho bà, hiện tại ông H đang sản xuất; thửa 831
có diện tích 172,6m
2
ký hiệu BHK (ông A chiếm của bà) và thửa đất 832 do ông
Đặng N1 đang sản xuất. Bắc giáp Đất của bà khai hoang, Nguyễn Hùng H thuê
sản xuất hành tỏi khoảng 1200m
2
giáp ông Đặng N1 (đo gộp trong thửa 710 tờ
bản đồ số 9, diện tích là 30.303,0m
2
).
Đối với diện tích đất khoảng 1.300m
2
đất trồng khoai tía tại núi H: Một
thửa do ông Nguyễn C một thửa do ông Nguyễn C1 (hai người bác ruột của
bà) để lại cho bà. Hai thửa của cha, mẹ ng Nguyễn M + T1) đlại cho
bà. Một thửa của ông N2 để lại cho sản xuất từ năm 1977 đến cuối năm
2004 năm 2005 cũng cho Dương Thị A3 thuê nhưng A3 không
khả năng sản xuất. Tiếp theo đến năm 2008, vợ chồng ông Nguyễn Hùng H
Thị H1 thuê sản xuất nhưng ông H và bà H1 cũng không có khả năng sản
xuất. Đến năm 2014 ông xin cấp sổ đỏ nhưng UBND nói là đất rừng
đất quốc phòng nên không được cấp sổ. Năm 2015, ông Phù Văn H2 nghe ông
Trần Văn T2 (là cán bộ địa chính xã) nói đất này là đất rừng và đất quốc phòng
không được cấp sổ đỏ nên ông H2 lên sản xuất, chăn nuôi trên đất. Ông đã
yêu cầu ông H2 tháo dỡ và ngừng sản xuất, trả lại đất cho ông bà nhưng ông H2
không đồng ý.
Ngày 13/9/2018, ông bà làm đơn khiếu nại yêu cầu Chủ tịch UBND huyện
L giải quyết việc tranh chấp đất nông nghiệp tại núi H giữa hộ gia đình với
ông Đặng A2, ông Nguyễn Hùng H, ông Phù Văn H2 yêu cầu quan
thẩm quyền cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông
bà. Ngày 18/10/2018, UBND huyện L ban hành Công văn số 2294/UBND trả
lời đơn có nội dung như sau: “Bà Nguyễn Thị D yêu cầu trả lại toàn bộ diện tích
ông Đặng A2, ông Nguyễn Hùng H ông Phù Văn H2 đang canh tác
yêu cầu cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà là không có cơ sở.
hiện tại không các loại giấy tliên quan nào để chứng minh toàn bộ
diện tích mà ông Đặng A2, ông Nguyễn Hùng Hông Phù Văn H2 canh tác là
đất của bà”.
Ngày 08/4/2019, ông bà tiếp tục làm đơn khiếu nại, yêu cầu các ông Đặng
A2, ông Nguyễn Hùng H, ông Phù Văn H2 trả lại đất cho bà và yêu cầu các
quan có thẩm quyền đo đạc, cấp giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông
nghiệp tại khu vực núi H cho hộ gia đình D. Ngày 15/8/2019, UBND huyện
4
L ban hành Quyết định số 984/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại (lần
đầu) quyết định bác đơn khiếu nại, không công nhận yêu cầu của ông bà.
Ông làm đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi để yêu
cầu giải quyết. Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2022/HC-ST ngày
30/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã tuyên chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của ông bà, hủy Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 15/8/2019
của Chủ tịch UBND huyện L.
Sau khi bản án hiệu lực pháp luật, ông đã làm đơn yêu cầu UBND
huyện L cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất toàn bộ diện tích khoảng
2.500m
2
tại một phần thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9 huyện L cho hộ gia đình
ông bà. Tuy nhiên ngày 24/4/2023, UBND huyện L Công văn số 1243/UBND
từ chối việc đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng bà.
Ngày 02/6/2023, ông bà đã đơn khiếu nại yêu cầu UBND huyện L hủy
Công văn s 1243/UBND ngày 24/4/2023 yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tại một phần thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9 huyện L cho hộ gia đình
ông bà theo đúng diện tích đo đạc thực tế.
Sau đó, Chủ tịch UBND huyện L đã ban hành Quyết định số 984/QĐ-UB
ngày 15/8/2023 quyết định không công nhận toàn bnội dung khiếu nại của ông
bà về việc yêu cầu UBND huyện L hủy Công văn số 1243/UBND ngày
24/4/2023 và từ chối cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông
đối với toàn bộ diện tích khoảng 2.500m
2
tại một phần thửa đất số 710, tờ bản
đồ số 9 huyện L. Việc Chủ tịch UBND huyện L không chấp nhận nội dung khiếu
nại của ông bà là không đúng, bởi vì:
Tại huyện đảo L trước ngày giải phóng (chế độ cũ) chưa kê khai cấp trích
lục hoặc Chứng thư Kiến Điền cho ông bà, cha mẹ những người tkhai
hoang vỡ hóa đất trồng trọt, sản xuất mưu sinh. Việc sử dụng đất thông thường
chuyển giao từ đời này sang cho đời khác (cha mẹ, ông giao lại cho con,
cháu). Vì vậy, những người có liên quan hoặc sản xuất liền kề với nhau mới biết
rõ. Thực tế việc sử dụng đất ở mỗi vùng miền và tại các thời kỳ hội có khác
nhau. Từ năm 1977 bà sử dụng đất sản xuất tại núi H có nhiều người biết, cụ th
là: Ông Đặng N1 sản xuất trồng trọt bên cạnh đất của bà biết rõ ông bà là người
sử dụng đất. Ông Đặng S là Trưởng ban tuần tra tại xã A biết rõ việc ông bà sử
dụng đất. Việc ông sử dụng đất tại đây những người cùng sản xuất biết,
trong đó có ông Võ Văn B và những người khác làm chứng xác nhận. Như vậy,
theo quy định của pháp luật, trường hợp của ông được cấp giấy chứng nhận
quyền sdụng đất nhưng UBND huyện L hết lần này đến lần khác cố tình không
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ diện tích khoảng 2.500m
2
tại một phần thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9 huyện L cho gia đình ông
không đúng với quy định của pháp luật, gây thiệt hại nghiêm trọng đến quyền
lợi ích hợp pháp của công dân.
Do đó, Nguyễn Thị D, ông Đặng Văn A đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi giải quyết:
5
- Hủy Công văn số 1243/UBND ngày 24/4/2023 của UBND huyện L về
việc trả lời đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đặng
Văn A và bà Nguyễn Thị D.
- Hủy Quyết định số 984/QĐ-UB ngày 15/8/2023 của Chủ tịch UBND
huyện L về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị D.
- Buộc UBND huyện L thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Đặng Văn A Nguyễn Thị D tại một phần thửa đất số 710,
tờ bản đồ số 9, huyện L theo đúng quy định của pháp luật.
* Tại Văn bản số 235/UBND ngày 17/01/2024, người bị kiện UBND, Chủ
tịch UBND huyện L trình bày:
Việc người khởi kiện (bà Nguyễn Thị Dông Đặng Văn A) yêu cầu hủy
Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 15/8/2023 của Chủ tịch UBND huyện L về
việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với Nguyễn Thị D; Công văn số
1243/UBND ngày 24/4/2023 về việc trả lời đơn đnghị cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Đặng Văn A Nguyễn Thị D; buộc UBND huyện
L thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đặng Văn
A và Nguyễn Thị D tại một phần thửa đất số 710, tờ bản đồ s9, huyện L
đúng theo quy định của pháp luật:
Ngày 14/6/2023, Ban Tiếp công dân huyện L nhận được đơn khiếu nại của
Nguyễn Thị D, địa chỉ thôn T, huyện L đề ngày 02/6/2023 gửi Chủ tịch UBND
huyện L về việc khiếu nại Công văn số 1243/UBND ngày 24/4/2023 về việc trả
lời đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đặng Văn A và
Nguyễn Thị D; ngày 17/7/2023 Thanh tra huyện làm việc với người khiếu nại
Nguyễn Thị D xác nhận lại nội dung khiếu nại hành vi hành chính UBND
huyện L từ chối không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đặng
Văn A và bà Nguyễn Thị D tại thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9 huyện L.
Qua xem xét nội dung đơn của công dân biên bản làm việc ngày
17/7/2023 với bà Nguyễn ThD;n cứ Điều 9, Điều 11 và Điều 18 Luật Khiếu
nại năm 2011, ngày 27/6/2023, Chủ tịch UBND huyện ban hành Thông báo số
146/TB-UBND về việc thụ giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị D khiếu
nại hành vi hành chính UBND huyện L từ chối không cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông Đặng Văn A Nguyễn Thị D tại thửa đất s 710,
tờ bản đồ số 9 huyện L. Đồng thời ban hành Quyết định số 706/QĐ-UBND về
việc giao nhiệm vụ xác minh nội dung khiếu nại; ngày 28/6/2023, Thanh tra
huyện thành lập Tổ xác minh nội dung khiếu nại tại Quyết định số 05/QĐ-TTH.
Từ ngày 28/6/2023 đến ngày 31/7/2023, Thanh tra huyện L đã tiến hành
xác minh nội dung khiếu nại của Nguyễn Thị D. Ngày 15/8/2023, Chủ tịch
UBND huyện L ban hành Quyết định số 984/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu
nại lần đầu đối với Nguyễn Thị D, địa chỉ: thôn Đ, huyện S (lần đầu) là đúng
quy định của pháp luật.
Việc UBND huyện L từ chối cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Đặng Văn ANguyễn Thị D đối với toàn bộ diện tích khoảng 2.500m
2
6
thuộc một phần thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9 huyện L lập năm 2010 đúng
quy định của pháp luật; UBND huyện L ban hành Công văn số 1243/UBND
ngày 24/4/2023 về việc trả lời đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của ông Đặng Văn A và Nguyễn Thị D là đúng quy định. Việc buộc
UBND huyện L thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Đặng Văn A và bà Nguyễn Thị D tại một phần thửa đất số 710, tờ bản đồ số
9, huyện L là không có cơ sở.
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xem xét xử bác đơn khởi kiện
của Nguyễn Thị D ông Đặng Văn A về việc yêu cầu hủy Quyết định số
984/QĐ-UBND ngày 15/8/2023 của Chủ tịch UBND huyện L về việc giải quyết
khiếu nại lần đầu đối với Nguyễn Thị D; Công văn số 1243/UBND ngày
24/4/2023 về việc trả lời đơn đnghị cấp giấy chng nhận quyền sử dụng đất
của ông Đặng Văn A Nguyễn Thị D; buộc UBND huyện L thực hiện thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đặng Văn A Nguyễn Thị
D tại một phần thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9, huyện L đúng theo quy định của
pháp luật.
* Tại các Bản trình bày ngày 02/4/2024, những người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan ông Đặng A2, ông Phù Văn H2, ông Nguyễn Hùng H, bà Võ Thị
H1 trình bày: Các ông, bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của Nguyễn
Thị D, ông Đặng Văn A.
* Ý kiến của người bo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện:
Yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D, ông Đặng Văn A đã được người
bị kiện thể hiện trong Công văn số 1243/UBND ngày 24/4/2023 của UBND
huyện L và Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 15/8/2023 của Chủ tịch UBND
huyện L. Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị D,
ông Đặng Văn A; giữ nguyên Quyết định s984/QĐ-UBND ngày 15/8/2023
của Chủ tịch UBND huyện L về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với bà
Nguyễn Thị D; Công văn số 1243/UBND ngày 24/4/2023 của UBND huyện L
về việc trả lời đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất của ông Đặng
Văn A và bà Nguyễn Thị D.
Tại Bản án hành chính thẩm số 18/2024/HC-ST ngày 27 tháng 5
năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32; khoản 1 Điều 115; điểm a khoản
2 Điều 116; điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204, Điều 206, Điều 348
Luật Tố tụng hành chính; khoản 9 Điều 3, Điều 22, Điều 100, Điều 101 Luật Đất
đai năm 2013; Điều 70 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ Quy định chi tiết một số điều của Luật Đất đai; Điều 18, Điều 27, Điều 28,
Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu nại năm 2011; Nghị định số
124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều
biện pháp thi hành Luật Khiếu nại, Thông tư số 07/2013/TT-TTCP ngày
31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình giải quyết khiếu nại
hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ p Tòa án.
7
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị D
về việc yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Hủy Công văn số 1243/UBND ngày 24/4/2023 của UBND huyện L về
việc trả lời đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Đặng
Văn A và bà Nguyễn Thị D.
- Hủy Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 15/8/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện L về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị D.
- Buộc UBND huyện L thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Đặng Văn A Nguyễn Thị D tại một phần thửa đất số 710,
tờ bản đồ số 9, huyện L theo đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra bản án thẩm còn quyết định về án phí, chi phí xem xét thẩm
định tại chỗ và đo đạc, quy định về thi hành án thông báo về quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
Ngày 04/6/2024, người khởi kiện ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị D kháng
cáo với nội dung đề nghị huỷ án sơ thẩm để giải quyết lại.
Tại phiên tòa phúc thẩm: người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến: Quá
trình giải quyết v án, Hội đồng xét xvà Thư ký đã tuân thủ đúng quy định ca
Luật tố tụng hành chính. Tòa án cấp thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông Đặng
Văn A, bà Nguyễn Thị D là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo,
giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHN ĐNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra, kết quả tranh tụng tại
phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm
nhận thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Đơn kháng cáo của người khởi kiện ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị D
đúng thủ tục trong thời hạn nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm theo
quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm người bị kiện đơn xin xét xử vắng mặt; người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều vắng mặt. Thấy đây là phiên tòa lần th02,
việc vắng mặt của những đương snêu trên không làm ảnh hưởng đến quá trình
giải quyết vụ án các đương sự đều đã lời trình bày trong hồ sơ vụ án nên
Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những đương sự trên.
[2] Xét nội dung kháng cáo
8
[2.1] Về trình tự, thủ tục, thẩm quyền ban hành:
Ngày 13/3/2023, ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị D đơn đề nghị gửi
UBND huyện L, phòng Tài nguyên Môi trường huyện L yêu cầu UBND
huyện L đo đạc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích
2.500m
2
tại thửa đất 710, tờ bản đồ số 9, huyện L cho ông, bà. Ngày 24/4/2023,
UBND huyện L ban hành Công văn số 1243/UBND về việc trả lời đơn của ông
Đặng Văn A, Nguyễn Thị D, có nội dung: ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị
D không đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa
đất số 710, tờ bản đồ số 9, huyện L (bút lục A, 124).
Ngày 02/6/2023, bà Nguyễn Thị D, ông Đặng Văn A có đơn khiếu nại gửi
Chủ tịch UBND huyện L về việc khiếu nại Công văn số 1243/UBND ngày
24/4/2023 của UBND huyện L.
Ngày 27/6/2023, Chủ tịch UBND huyện L ban hành Thông báo số 146/TB-
UBND vviệc thụ giải quyết khiếu nại lần đầu. Sau khi xác minh nội dung
khiếu nại và tổ chức đối thoại với Nguyễn Thị D, ông Đặng Văn A nhưng kết
quả đối thoại không thành; ngày 15/8/2023, Chủ tịch UBND huyện L ban hành
Quyết định số 984/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại (lần đầu) của
Nguyễn Thị D, ông Đặng Văn A (bút lục 98-101).
Xét thấy, UBND huyện L ban hành Công văn số 1243/UBND đúng trình
tự, thủ tục thẩm quyền theo quy định tại Điều 22 Luật Đất đai năm 2013, Điều
70 Nghị định s43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ Quy định chi
tiết một số điều của Luật Đất đai; Chủ tịch UBND huyện L ban hành Quyết đnh
số 984/QĐ-UBND ngày 15/8/2023 đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo
quy định tại Điều 18, Điều 27, Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu
nại năm 2011; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ
Quy đnh chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại, Thông tư số
07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình
giải quyết khiếu nại hành chính.
[2.2] Về nội dung, căn cứ của các văn bản, quyết định bị khởi kiện:
Nguyễn Thị D ông Đặng Văn A khởi kiện yêu cầu UBND huyện L
thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông bà đối với
diện tích đất khoảng 2.500m
2
tại một phần thửa đất số 710, tờ bản đsố 9, huyện
L, tỉnh Quảng Ngãi.
[2.1.1] Theo hồ địa chính thửa đất các tài liệu, chứng cứ liên quan,
thể hiện: Nguyên diện tích 2.500m
2
thuộc thửa đất 710, tờ bản đồ số 9, huyện L,
theo Sổ mục kê đất do xã An Vĩnh lập ngày 18/3/2003 thuộc một phần thửa đất
số 755, diện tích 79.000m
2
, do ông Nguyễn Văn T3 (Đ5), ông Nguyễn T4 (Đ5)
và ông Nguyễn N3 (Đ9) kê khai đứng tên chủ sử dụng (bút lục 93).
Theo Bản đồ đo vẽ năm 2010 (được Sở Tài nguyên Môi trường thẩm
định ngày 24/4/2011): Thửa đất 755, tờ bản đồ số 02, L được chỉnh lý thành
thửa số 710, thuộc tờ bản đồ số 9, xã A (nay là tờ bản đồ s 9 huyện L), có diện
tích 30.303m
2
(bút lục 92).
9
Theo Bản đồ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của UBND huyện L
được UBND tỉnh Q phê duyệt tại Quyết định số 192/QĐ-UBND ngày 10/6/2014
và quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 của UBND huyện L được UBND tỉnh
Q phê duyệt tại Quyết định số 824/QĐ-UBND ngày 10/9/2021, thửa đất số 710,
tờ bản đồ số 09, huyện L thuộc một phần quy hoạch đất Đồi núi chưa sdụng
(NCS) và một phần quy hoạch đất Rừng phòng hộ (RPH) (bút lc 91).
Như vậy, đối chiếu với hồ sơ địa chính qua các thời kỳ và được bà D thừa
nhận tại phiên toà; diện tích 2.500m
2
đất vợ chồng Nguyễn Thị D đnghị cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc một phần diện tích thửa đất số 710, tờ
bản đsố 9 huyện L, diện tích 30.303m
2
, loại đất đồi núi chưa sử dụng (NCS)
và một phần quy hoạch đất Rừng phòng hộ (RPH).
[2.2.2] Theo kết quả xác minh đối với một số người đang sử dụng phần diện
tích đất thuc thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9, huyện L thể hiện:
Tại Biên bản xác minh ngày 19/7/2023, bà Trần Thị T5 trình bày: “Không
thửa đất này của ai”; ông Nguyễn T6 (là cha đẻ ông Nguyễn Hùng H, anh
ruột Nguyễn Thị D) trình bày:“thửa đất này trước đây Dương Thị A3 canh
tác sau đó bỏ hoang không làm, khoảng thời gian bắt đu từ năm 2006 đến năm
2009 (không nhnăm) tôi khai hoang thửa đất này (không đơn xin khai
hoang), bồi đắp khoảng 7 thửa diện tích khoảng 800m
2
để trồng hành tỏi; năm
2007 tôi chuyển cho con trai Nguyễn Hùng H tiếp tục canh tác hành tỏi cho đến
nay. Trong quá trình sử dụng tôi và con tôi không có đơn đề nghị Nhà nước cp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Nguồn gốc các thửa đất này trước kia của
gia đình tôi, đến năm 1979 đưa vào hợp tác quản lý”; ông Phù Văn H2,
nhân đang sử dụng các thửa đất Nguyễn Thị D đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho biết: “Hiện nay tôi có làm 5 thửa (theo bậc thang) tổng
diện tích khoảng 500m
2
, bắt đầu khai hoang tnăm 2006 đến năm 2009 trồng
hành hành tỏi cho đến nay (tôi có làm đơn xin khai hoang nhưng xã A từ chối),
năm 2013, Ban Chỉ huy quân sự huyện có làm việc trồng cây xanh phủ trọc đồi
núi, tôi có nói khi nào nhà nước lấy đất tôi sẽ giao lại cho Nhà nước. Trong quá
trình sử dụng tôi không đơn đề nghị Nnước cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất”.
Tại Biên bản xác minh ngày 20/7/2023, ông Phan Hùng V - Trưởng thôn
T, cho biết: “Tôi biết các thửa đất thuộc thửa đất gộp số 710, tờ bản đồ số 9
huyện L đất thuộc nhà nước quản lý; hiện nay một số hộ dân tự khai hoang
để trồng hoa màu”; ông Võ Văn B trình bày: “Trước kia tôi làm cạnh các thửa
đất này nên tôi biết: Trước năm 1975, các thửa đất này đất của cha, m
Nguyễn Thị D sử dụng đến năm 1985 diện tích đất này chia đất màu cho những
người dân thuộc đội 17 sản xuất, sau này có một số người dân thuộc đội 17 bỏ
hoang không làm nữa, sau đó bà Nguyễn Thị D canh tác. Đến năm 1993, tôi
không làm cạnh các thửa đất này nữa, tôi biết khoảng 2 năm sau Nguyễn Thị
D cũng không còn làm tại các thửa đất này nữa; tôi biết các thửa đất thuộc thửa
đất gộp số 710, tờ bản đồ số 9 huyện L là đất thuộc nhà nước quản lý”.
Tại Biên bản xác minh ngày 21/7/2023, ông Đặng Quang N4 trình bày:
10
“Đất này từ lâu của cha Nguyễn Thị D, đến năm 1979 diện tích đất này đã
đưa vào Hợp tác nông nghiệp để chia đất màu cho đội viên đội 17 để sản
xuất, nhưng có mt số người không làm nên bà Nguyễn Thị D vào sản xuất (lúc
đó Nguyễn Thị D không phải đội viên đội 17 đội viên đội 12), sau
đó một thời gian Nguyễn Thị D đi làm ăn xa nên không làm nữa. Trước đây
tôi Phó Chủ nhiệm Hợp tác N6 (từ năm 1979 - 1981) nên tôi biết điều
này, đất này là đất nhà nước quản lý”.
[2.2.3] Tại biên bản kiểm tra hiện trạng ngày 24/7/2023 của Tổ xác minh
Thanh tra huyện L, thể hiện trên phần diện tích thuộc thửa đất 710, tờ bản đồ số
9, huyện L có diện tích 139,9m
2
thuộc thửa đất số 819, tờ bản đồ số 9, huyện L
đã được UBND huyện L cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đặng
Văn A Nguyễn Thị D, phần diện tích đất này hiện ông Nguyễn Hùng H
đang sử dụng. Diện tích 172,5m
2
thuộc thửa đất 831, tờ bản đồ số 9, hiện ông
Đặng A2 đang sử dụng. Phía Tây thửa đất 819, gồm có 6 thửa đất, tổng diện tích
đo đạc được 745,8m
2
, hiện ông Nguyễn Hùng H đang sử dụng. Phía Bắc thửa
đất 819, gồm có 5 triền đất, trong đó 3 triền đất có 8 thửa tổng diện tích đo đạc
được 532,7m
2
, 2 triền đất phía trên cây bụi um tùm, không có ranh giới thửa đất,
không thể đo đạc được, 5 triền đất này hiện ông Phù Văn H2 đang sử dụng. Qua
kết quả kiểm tra hiện trường thể hiện Nguyễn Thị D ông Đặng Văn A
không trực tiếp sản xuất trên các thửa đất này. Theo trình bày của Nguyễn
Thị D một phần diện tích đất này hiện nay ông Đặng A2, ông Phù Văn H2 đang
sử dụng.
Như vậy, nội dung trình bày của các ông Nguyễn T6, Phù Văn H2, Phan
Hùng V, Văn B, Đặng Quang N4 phù hợp với quá trình sử dụng đối với một
phần diện tích đất thuộc thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9, huyện L; biên bản kiểm
tra hiện trạng lập ngày 24/7/2023 của Tổ xác minh. Đồng thời, đối chiếu với hồ
sơ địa chính, quá trình quản lý sử dụng đất qua các thời kỳ thì ông Đặng Văn A
Nguyễn Thị D từ năm 1979 đến nay không sử dụng phần diện tích thuộc
thửa đất 710, tờ bản đồ số 9 huyện L và không đăng khai đối với phần diện
tích này, ông bà cũng không có tài liệu chứng minh diện tích đất này do cha mẹ
D để lại.
[2.2.4] Từ những cơ sở nêu trên, xét thấy: Diện tích đất thuộc thửa đất số
710, tờ bản đồ số 9, huyện L Nguyễn Thị D, ông Đặng Văn A đề nghị cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông không đăng khai quyền sử
dụng đất; quá trình thực hiện Nghị định 64/CP, hộ gia đình D, ông A cũng
không được cân đối giao cho phần diện tích đất này; các thửa đất này hiện nay
do người khác sử dụng mà không phải do bà D, ông A sử dụng; ông Đặng Văn
A, Nguyễn Thị D cung cấp các tài liệu ông Nguyễn Hùng H thuê đất, lời
trình bày của ông Võ Văn B, Trần Thị N5, bà Dương Thị A3, ông Bùi Thanh
H3 về việc sử dụng phần diện tích đất trên; tuy nhiên, các tài liệu này không đủ
căn cứ thể hiện phần diện tích đất này của cha mẹ D để lại cho D, các
tài liệu này cũng không phải một trong các loại giấy ttheo Điều 100 của Luật
Đất đai; Điều 18 Ngh định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Đất đai.
11
Do đó, UBND huyện L ban hành Công văn số 1243/UBND về việc trả li
đơn của ông Đặng Văn A, bà Nguyễn Thị D, có nội dung: ông Đặng Văn A, bà
Nguyễn Thị D không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng
đất tại thửa đất số 710, tờ bản đồ số 9, huyện L là có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật. Chủ tịch UBND huyện L ban hành Quyết định số 984/QĐ-UBND
ngày 15/8/2023 không công nhận nội dung khiếu nại của Nguyễn Thị D về
việc yêu cầu UBND huyện L huỷ Công văn số 1243/UBND ngày 24/4/2023 là
có căn cứ, đúng quy định.
[2.2.5] Do Công văn số 1243/UBND ngày 24/4/2023 của UBND huyện L;
Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 15/8/2023 của Chủ tịch UBND huyện L
sở, đúng quy định của pháp luật nên việc ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị
D yêu cầu buộc UBND huyện L thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông Đặng Văn A Nguyễn Thị D tại một phần thửa đất số 710,
tờ bản đồ số 9, huyện L không có căn cứ để chấp nhận.
Từ nhận định trên, Toà án cấp thẩm bác toàn byêu cầu khởi kiện của
ông Đặng Văn A, bà Nguyễn Thị D là căn cứ, đúng quy định của pháp
luật.
[3] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại
phiên tòa đúng quy định pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử
nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị D người cao tuổi, đơn
xin miễn án phí nên được miễn án phí hành chính phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật t tụng hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Bác kháng cáo của ông Đặng Văn A, Nguyễn Thị D, giữ nguyên quyết
định Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2024/HC-ST ngày 27 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
2. Ván phí hành chính phúc thẩm: ông Đặng Văn A, bà Nguyễn Thị D
được miễn án phí.
3. Những quyết định khác của bản án hành chính sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật kể t ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
12
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Cục THADS tỉnh Quảng Ngãi;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
ĐÃ KÝ
Phạm Văn Hợp
Tải về
Bản án số 395/2024/HC-PT Bản án số 395/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 395/2024/HC-PT Bản án số 395/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất