Bản án số 39/2025/DS-PT ngày 11/03/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 39/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 39/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 39/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 39/2025/DS-PT ngày 11/03/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lâm Đồng |
Số hiệu: | 39/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vũ Trọng H tranh chấp kiện đòi tài sản Trần Ngọc P |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 39/2025/DS-PT
Ngày: 11-3-2025
V/v: “Tranh chấp về quyền đòi lại
tài sản là quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất, tranh chấp về
bồi thường thiệt hại”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Tâm
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Bà Võ Thị Kim Anh –
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 11 tháng 3 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 331/2024/TLPT-DS ngày 23 tháng 12
năm 2024 về việc “Tranh chấp về quyền đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất, tranh chấp về bồi thường thiệt hại”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2024/DS-ST ngày 21 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 13/2025/QĐ-PT ngày 07
tháng 02 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 30/2025/QĐ-PT
ngày 24 tháng 02 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Vũ Trọng H, sinh năm: 1973, bà Trần Thị Tố U, sinh
năm: 1990; địa chỉ: số C Lô A, chung cư Đ, Phường D, Quận H, Thành phố Hồ
Chí Minh; cư trú tại BQ15.03, khu R N, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Văn S, sinh năm: 1974; cư trú tại
tổ dân phố A, thị trấn D, huyện D, tỉnh Lâm Đồng (Văn bản ủy quyền ngày
10/01/2025).
2
- Bị đơn: Ông Trần Ngọc P, sinh năm: 1975; cư trú tại số nhà C, đường H,
Phường A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Đinh Thị Cẩm T, sinh năm: 1987;
+ Cháu Trần Cao Đ, sinh năm: 2010;
+ Cháu Trần Đại N, sinh năm: 2015;
+ Cháu Trần Phương D, sinh năm: 2019;
Cùng cư trú tại số C, đường H, Phường A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật của cháu Đ, cháu N, cháu D: Ông Trần Ngọc
P, sinh năm: 1975, bà Đinh Thị Cẩm T, sinh năm: 1987; cư trú tại số C, đường H,
Phường A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền của ông P, bà T: Bà Mai Hồng Đ1, sinh năm:
1987; cư trú tại số B, đường N, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh (Văn
bản ủy quyền ngày 30/9/2024).
Người kháng cáo: Ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U – Nguyên đơn; ông
Trần Ngọc P – Bị đơn.
(Ông S, ông P có mặt tại phiên tòa; các đương sự còn lại vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện đề ngày 17/3/2023, các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án cũng như tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông
Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U là ông Đinh Văn S trình bày: Nguồn gốc căn nhà
diện tích xây dựng 48m
2
nền gạch, tường xây, mái ngói, 01 tầng (diện tích theo
đo đạc thực tế là 85,17m
2
), trên diện tích đất ở 131m
2
(diện tích theo đo đạc thực
tế là 132m
2
), thuộc thửa đất số 125a, tờ bản đồ số F.135.II.D, tọa lạc tại Phường
A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và
QSD đất ở số 4205010567 do UBND tỉnh L cấp ngày 22/8/2001 đứng tên ông
Trần Ngọc K, bà Phạm Thị H1 và diện tích đất lâu năm 550m
2
(diện tích theo đo
đạc thực tế là 612m
2
), thuộc thửa đất số 846, tờ bản đồ số F.135.II.D, tọa lạc tại
Phường A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, theo Giấy chứng nhận QSD đất số G
421737 do UBND thị xã (nay là thành phố) Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng cấp ngày
19/12/1996 đứng tên ông Trần Ngọc K, bà Phạm Thị Hoàng T1 cho ông Vũ Trọng
H, bà Trần Thị Tố U theo Hợp đồng tặng cho QSD đất và tài sản gắn liền với đất
ngày 14/8/2017, công chứng tại Văn phòng C, địa chỉ số A, đường B, Phường B,
thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng số công chứng 3985, quyển số 55-TP/CC-
SCC/HĐGD. Thủ tục đăng ký biến động ngày 25/8/2017 và ngày 29/8/2017 sang
tên ông Vũ Trọng H cùng vợ bà Trần Thị Tố U.
3
Sau khi vợ chồng ông H, bà U đứng tên chủ sở hữu và sử dụng thì có nhờ
ông Trần Ngọc P là anh cùng cha khác mẹ của bà Trần Thị Tố U, là anh vợ của
ông Vũ Trọng H trông coi hộ nhà và đất từ ngày 29/8/2017. Đầu năm 2023 vợ
chồng ông H, bà U yêu cầu ông Trần Ngọc P giao trả lại nhà, đất thì ông Trần
Ngọc P không đồng ý giao trả lại.
Nay ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ
chồng ông Trần Ngọc P, bà Đinh Thị Cẩm T cùng các con của ông P, bà T là cháu
Trần Cao Đ, Trần Đại N và Trần Phương D phải di dời tài sản cá nhân để trả lại
diện tích căn nhà 48m
2
nền gạch, tường xây, mái ngói, 01 tầng (diện tích theo đo
đạc thực tế là 85,17m
2
) trên diện tích đất ở 131m
2
(diện tích theo đo đạc thực tế
là 132m
2
), thuộc thửa đất số 125a, tờ bản đồ số F.135.II.D, tọa lạc tại Phường A,
thành phố B, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và QSD
đất ở số 4205010567 do UBND tỉnh L cấp ngày 22/8/2001 đứng tên ông Trần
Ngọc K, bà Phạm Thị H1 và diện tích đất lâu năm 550m
2
(diện tích theo đo đạc
thực tế là 612m
2
) thuộc thửa đất số 846, tờ bản đồ số F.135.II.D, tọa lạc tại Phường
A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng theo Giấy chứng nhận QSD đất số G 421737 do
UBND thị xã (nay là thành phố) Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 19/12/1996
đứng tên ông Trần Ngọc K, bà Phạm Thị H1. Thủ tục đăng ký biến động ngày
25/8/2017 và ngày 29/8/2017 sang tên ông Vũ Trọng H cùng vợ bà Trần Thị Tố
U.
Ông H, bà U thống nhất với bản vẽ trích đo hiện trạng thửa đất do Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai thành phố B, tỉnh Lâm Đồng cung cấp ngày
09/11/2023. Chứng thư thẩm định giá số 2024059.IVC-CT ngày 08/7/2024 của
Công ty cổ phần Đ2. Về chi phí tố tụng đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật.
Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Ngọc P thì ông Vũ Trọng H và
bà Trần Thị Tố U đồng ý bồi thường các tài sản và cây trồng trên đất tính từ ngày
29/8/2017 đến nay, gồm: Nhà tạm (1) trị giá là 4.108.860đ; nhà tạm (2) trị giá là
7.711.200đ; nhà tạm (3) trị giá là 1.587.600đ; nhà tạm (4) trị giá là 1.512.000đ;
cổng, hàng rào trị giá là 14.400.000đ; 01 cây ổi (2) trị giá 137.600đ; 01 cây mít
Thái (1) trị giá là 1.930.100đ; 02 cây mít Thái (2) trị giá 635.400đ; 03 cây chanh
(1) trị giá 1.222.500đ; 02 cây chanh (2) trị giá 344.400đ và 01 cây mận trị giá là
137.600đ. Tổng cộng là 33.727.200đ.
Đối với công sức quản lý, trông coi, chăm sóc nhà, đất và tài sản trên ông H,
bà U đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Các khoản khác, không đồng
ý bồi thường với lý do đây là tài sản thuộc quyền sở hữu và sử dụng hợp pháp của
ông H, bà U, ông Trần Ngọc P chỉ là người được cho ở nhờ.
- Tại đơn phản tố đề ngày 27/7/2023, các lời khai trong quá trình giải quyết
vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn ông Trần Ngọc P và đại diện theo ủy quyền
4
của bị đơn và người có quyền lợi có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Mai Hồng
Đ1 trình bày: Nhà, đất và tài sản gắn liền với đất tại số C, đường H, Phường A,
thành phố B, tỉnh Lâm Đồng được cha mẹ đẻ của ông là ông Trần Ngọc K và bà
Nguyễn Thị M nhận chuyển nhượng vào năm 2007. Số tiền dùng để mua nhà, đất
nói trên được cha mẹ ông lấy từ tiền đền bù đất tại địa chỉ số F L, phường T, quận
T, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó, nhà, đất và tài sản gắn liền với đất tại địa chỉ
số C, đường H, Phường A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng là tài sản chung của cha
mẹ ông. Lúc cha mẹ ông nhận chuyển nhượng chỉ có một căn nhà dựng tạm. Sau
đó, cha mẹ ông cho ông quản lý để làm ăn sinh sống. Vợ chồng ông đã dỡ bỏ và
xây dựng lại căn nhà có hiện trạng như bây giờ và giữ gìn, trông coi, nâng cấp.
Quá trình ông xây dựng căn nhà có cha đẻ là ông Trần Ngọc K và mẹ là bà Nguyễn
Thị M, các em của ông là Trần Thị Thu H2, Trần Thị Kim P1, Trần Thị Tố U và
em rể là Vũ Trọng H chứng kiến.
Vì vậy, ông yêu cầu ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U bồi thường tiền xây
dựng nhà, tài sản trên đất và cây trồng trên đất, tại địa chỉ số C, đường H, Phường
A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng là 322.159.000đ theo Chứng thư thẩm định giá
số 2024059.IVC-CT ngày 08/7/2024 của Công ty cổ phần Đ2 và công sức đóng
góp trông coi, giữ gìn căn nhà, đất và tài sản trên đất của vợ chồng ông tương
đương với khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2023, được tính theo mức lương
tối thiểu vùng/tháng tại thành phố B, tỉnh Lâm Đồng số tiền 4.160.000đ × 02
người x 156 tháng = 1.297.920.000đ. Tổng số tiền ông yêu cầu ông Vũ Trọng H,
bà Trần Thị Tố U bồi thường là 1.620.079.000đ.
Ông P thống nhất với bản vẽ trích đo hiện trạng thửa đất do Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố B, tỉnh Lâm Đồng cung cấp ngày 09/11/2023.
Chứng thư thẩm định giá số 2024059.IVC-CT ngày 08/7/2024 của Công ty cổ
phần Đ2. Về chi phí tố tụng đề nghị Tòa án buộc nguyên đơn phải chịu toàn bộ.
Ông P yêu cầu xem xét hợp đồng ủy quyền ngày 25/7/2017 giữa người ủy
quyền bà Trần Thị Tố U và người được ủy quyền ông Vũ Trọng H có trước hợp
đồng ủy quyền ngày 12/8/2017 giữa người ủy quyền bà Phạm Thị H1, ông Trần
Ngọc K và người được ủy quyền ông Nguyễn Thành D1 là không hợp pháp; yêu
cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện và đình chỉ việc giải quyết vụ án và không
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2024/DS-ST ngày 21 tháng 10 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị
Tố U về “Tranh chấp quyền đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất”. Buộc vợ chồng ông Trần Ngọc P, bà Đinh Thị Cẩm T cùng các con của
ông P, bà T là cháu Trần Cao Đ, Trần Đại N và Trần Phương D phải di dời tài sản
5
cá nhân để trả lại căn nhà diện tích xây dựng 48m
2
, nền gạch, tường xây, mái ngói,
01 tầng (theo đo đạc thực tế là 85,17m
2
), trên diện tích đất ở 131m
2
(theo đo đạc
thực tế là 132m
2
), thuộc thửa đất số 125a và diện tích đất lâu năm 550m
2
(theo đo
đạc thực tế là 612m
2
), thuộc thửa đất số 846, đều thuộc tờ bản đồ số F.135.II.D,
tọa lạc tại Phường A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng và tài sản gắn liền với đất, theo
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và QSD đất ở số 4205010567 do UBND
tỉnh L cấp ngày 22/8/2001 và Giấy chứng nhận QSD đất số G 421737 do UBND
thị xã (nay là thành phố) Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 19/12/1996 đều đứng
tên ông Trần Ngọc K, bà Phạm Thị H1. Thủ tục đăng ký biến động ngày 25/8/2017
và ngày 29/8/2017 sang tên ông Vũ Trọng H cùng vợ bà Trần Thị Tố U.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Ngọc P về “Tranh
chấp về bồi thường thiệt hại”. Buộc vợ chồng ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U
có trách nhiệm bồi thường cho ông Trần Ngọc P tổng số tiền là 417.912.700đ.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí, quyền kháng cáo và
trách nhiệm thi hành án của các bên đương sự.
Ngày 25/10/2024, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Vũ
Trọng H, bà Trần Thị Tố U có đơn kháng cáo, chỉ đồng ý thanh toán lại giá trị
công trình, cây trồng bị đơn làm và trồng thêm từ năm 2017 đến nay với tổng số
tiền 33.727.200đ.
Ngày 21/10/2024, ông Trần Ngọc P kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Cho
rằng những gì ông nhận được không đủ bù đắp công sức bỏ ra trong thời gian dài
quản lý tài sản.
Tại phiên tòa hôm nay:Ông S, ông P vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không
chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn; chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn.
Căn cứ khoản 2, Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, sửa bản án sơ thẩm theo hướng
buộc nguyên đơn thanh toán thêm tiền cây trồng trước năm 2017 cho bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của ông Vũ Trọng H, bà Trần
Thị Tố U, ông Trần Ngọc P; người kháng cáo, thủ tục kháng cáo được thực hiện
đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự nên đủ điều
kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U, ông Trần Ngọc P
thì thấy rằng:
6
[2.1] Đối với kháng cáo của ông H, bà U.
Theo Chứng thư thẩm định giá ngày 26/6/2024 của Công ty cổ phần Đ2 giá
Hội nhập thì giá trị công trình xây dựng và cây trồng trên đất là 332.159.000đ (BL
số 342).
Căn nhà trên đất theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở đứng tên vợ chồng ông K, bà H1 đã đăng ký biến động sang tên vợ chồng
ông H, bà U diện tích trên sổ là 48m
2
nhưng diện tích đo vẽ thực tế là 85,17m
2
.
Như vậy, ông P đã làm thêm 37,17m
2
, trị giá 78.707.200đ. Ngoài ra, ông P đã xây
dựng, trồng cây từ ngày 29/8/2017 đến cho đến ngày xét xử sơ thẩm, trị giá công
trình xây dựng và cây trồng trên đất là 33.727.200đ. Tổng cộng: 112.434.400đ.
Do đó, buộc nguyên đơn phải thanh toán lại cho bị đơn số tiền 112.434.400đ là
có căn cứ.
Cấp sơ thẩm nhận định các tài sản trên đất còn lại tính thêm tiền công trông
coi, chăm sóc cho ông P trị giá ½, cụ thể: (322.159.000đ - 112.434.400đ) : 2
=104.862.300đ là không có căn cứ, vì ông H, bà U được sở hữu, sử dụng hợp pháp
tài sản trên, nguyên đơn có yêu cầu thì phía bị đơn phải trả lại tài sản là nhà đất
cho nguyên đơn. Ngoài ra, cấp sơ thẩm buộc nguyên đơn có trách nhiệm bồi
thường cho bị đơn số tiền 200.616.000đ (tính từ ngày 29/8/2017 đến ngày xét xử
sơ thẩm là 85 tháng 22 ngày nhân với mức lương cơ sở 2.340.000đ) là không phù
hợp. Bởi lẽ, căn cứ để tính theo mức lương cơ sở chỉ áp dụng trong trường hợp
bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần, cấp dưỡng. Do đó, cần chấp nhận một
phần kháng cáo của nguyên đơn, không buộc nguyên đơn thanh toán cho bị đơn
công trông coi, chăm sóc số tiền 104.862.300đ + 200.616.000đ = 305.478.300đ
là phù hợp.
[2.2] Đối với kháng cáo của ông P:
Theo hồ sơ thể hiện, năm 2007 ông K, bà H1 nhận chuyển nhượng của ông
H3, bà Lý tài S1 gồm căn nhà diện tích 48m
2
trên diện tích đất ở 131m
2
thuộc
thửa đất số 125a và diện tích đất trồng cây lâu năm 550m
2
thuộc thửa đất số 846.
Ngày 12/8/2017 ông K, bà H1 lập hợp đồng uỷ quyền cho ông D1 thay mặt ông
bà để thực hiện việc chuyển nhượng nhà đất tại thửa 125a và thửa 846 cho ông
Vũ Trọng H. Ngày 14/8/2017 ông D1 lập hợp đồng tặng cho toàn bộ nhà và đất
tại thửa 125a và 846 cho ông H, bà U. Đến ngày 25/8/2017 và ngày 28/8/2017
ông H, bà U được cập nhận quyền sử dụng đất trên giấy chứng nhận của hai thửa
đất trên.
Theo nguyên đơn, sau khi được cha mẹ (ông K, bà H1) tặng cho thì nguyên
đơn cho bị đơn mượn nhà đất để ở và trông coi. Phía bị đơn thì cho rằng diện tích
nhà và đất này là tài sản của bố mẹ (ông K, bà M) nhận chuyển nhượng vào năm
2007 bằng số tiền đền bù đất tại địa chỉ: Số F L, phường T, quận T, TP .. Sau đó,
bố mẹ cho bị đơn quản lý để làm ăn sinh sống nhưng cả nguyên đơn và bị đơn đều
7
không cung cấp được chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Căn cứ
vào hợp đồng tặng cho đã nêu ở trên thì tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng hợp
pháp của ông H, bà U từ ngày 25/8/2017 và ngày 28/8/2017. Do đó, ông P kháng
cáo cho rằng những gì nhận được không đủ bù đắp công sức của ông bỏ ra trong
thời gian dài quản lý, tạo dựng, tu bổ, gìn giữ tài sản trên đất từ năm 2007 đến nay
là không có căn cứ để chấp nhận.
Từ những phân tích trên, cần chấp nhận một phần kháng cáo của ông H, bà
U không chấp nhận kháng cáo ông P, sửa bản án sơ thẩm theo hướng đã nhận
định.
[3] Về chi phí tố tụng: chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo vẽ và thẩm định
giá tài sản tổng số tiền là 53.687.000đ. Ông H đã ứng chi 37.887.000đ, ông
Phương Ứ chi 15.800.000đ. Buộc mỗi bên phải chịu ½, chênh lệch, ông P phải
thanh toán lại cho ông H, bà U số tiền 11.043.500đ.
[4] Về án phí: Buộc ông H, bà U phải chịu 5.621.720đ án phí dân sự sơ thẩm
(112.434.400đ x 5%). Ông P phải chịu 300.000đ án phí không giá ngạch và án
phí có giá ngạch đối với số tiền yêu cầu bồi thường không được chấp nhận
1.507.644.600đ. Cụ thể,{36.000.000đ + 707.644.600đ (phần vượt quá
800.000.000đ) x3%)} = 57.229.338đ. Do yêu cầu kháng cáo không được chấp
nhận nên ông P phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Ông H, bà U không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Vũ Trọng H, bà Trần
Thị Tố U; không chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Trần Ngọc P, sửa bản án
sơ thẩm.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Vũ Trọng H, bà Trần
Thị Tố U về “Tranh chấp quyền đòi lại tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất”.
Buộc vợ chồng ông Trần Ngọc P, bà Đinh Thị Cẩm T cùng các con của ông
P, bà T là cháu Trần Cao Đ, Trần Đại N và Trần Phương D phải di dời tài sản cá
nhân để trả lại căn nhà diện tích xây dựng 48m
2
, nền gạch, tường xây, mái ngói,
01 tầng (theo đo đạc thực tế là 85,17m
2
) trên diện tích đất ở 131m
2
(theo đo đạc
8
thực tế là 132m
2
) thuộc thửa đất số 125a và diện tích đất lâu năm 550m
2
(theo đo
đạc thực tế là 612m
2
) thuộc thửa đất số 846, đều thuộc tờ bản đồ số F.135.II.D,
tọa lạc tại Phường A, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng và tài sản gắn liền với đất, theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà ở và QSD đất ở số 4205010567 do UBND
tỉnh L cấp ngày 22/8/2001 và Giấy chứng nhận QSD đất số G 421737 do UBND
thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 19/12/1996 đều đứng tên
ông Trần Ngọc K, bà Phạm Thị H1. Đăng ký biến động ngày 25/8/2017 và ngày
29/8/2017 sang tên ông Vũ Trọng H cùng vợ bà Trần Thị Tố U.
(Kèm theo Họa đồ hiện trạng sử dụng đất ngày 09/11/2023).
Đương sự được quyền liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký
biến động đúng với diện tích đạc thực tế theo quy định của pháp luật về đất đai.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Trần Ngọc P về
“Tranh chấp về bồi thường thiệt hại”.
Buộc vợ chồng ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U có trách nhiệm thanh
toán cho ông Trần Ngọc P số tiền 112.434.400đ (Một trăm mười hai triệu bốn
trăm ba bốn ngàn bốn trăm đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của
Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Trần Ngọc P có trách nhiệm thanh toán cho
ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U số tiền 11.043.500đ.
4. Về án phí:
Buộc vợ chồng ông Vũ Trọng H, bà Trần Thị Tố U phải chịu 5.621.720đ án
phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 21.000.000đ tiền tạm ứng án phí
đã nộp theo Biên lai thu số 0005656 ngày 24/3/2023 và 600.000đ theo Biên lai
thu số 0006063 và 0006064 cùng ngày 04/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân
sự thành phố Bảo Lộc. Hoàn trả cho ông H, bà U số tiền 15.978.280đ.
Buộc ông Trần Ngọc P phải chịu 57.229.338đ án phí dân sự sơ thẩm và
300.000đ án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ vào số tiền 38.980.000đ tạm
ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0005912 ngày 28/8/2023 và 300.000đ theo
Biên lai thu số 0006066 ngày 04/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Bảo Lộc. Ông P còn phải nộp 18.249.338đ án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi
9
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng TTr,KT&THA (01);
- TAND thành phố Bảo Lộc (01);
- Chi cục THADS thành phố Bảo Lộc (01);
- Đương sự (06);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 17/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm