Bản án số 35/2025/DS-ST ngày 12/06/2025 của TAND Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 35/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 35/2025/DS-ST ngày 12/06/2025 của TAND Q. Sơn Trà, TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Q. Sơn Trà (TAND TP. Đà Nẵng)
Số hiệu: 35/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp đòi tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
QUẬN S-TP Đ Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 35/2025/DSST
Ngày: 12/6/2025
V/v: Tranh chấp đòi tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S - THÀNH PHỐ Đ
Với thành phần HĐXX sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Dương Thị Kim Nhung
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Vũ Thị Lệ Thủy
2. Ông Nguyễn Kim Thành
Thư Toà án ghi biên bản phiên tòa: Ông Phú Huy - n bộ Toà án
nhân dân quận S, thành phố Đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S: Thị ch Thủy Kiểm sát
viên.
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận S - Số B H, quận
S, thành phĐ tiến hành xét xử công khai vụ án dân sự thụ số 68/2024/TLST-
DS ngày 01 tháng 4 năm 2024 về việc Tranh chấp đòi tài sảntheo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 68/2025/QĐST-DS ngày 09 tháng 4 năm 2025; Quyết định
hoãn phiên tòa số 55/2025/QĐST-DS ngày 07 tháng 5 năm 2025; Quyết định hoãn
phiên tòa số 69/2025/QĐST-DS ngày 28 tháng 5 năm 2025.
* Nguyên đơn: Nguyễn Minh N, sinh năm: 2003, Địa chỉ: số B, đường I
phường L, thành phố T, thành phố H. Đại diện theo ủy quyền: Thị Thanh P,
sinh năm; 1993. Địa chỉ: Thôn N, Q, huyện Q, tỉnh T (theo giấy ủy quyền ngày
12/4/2025 tại Văn phòng công chứng N). Có mặt.
* Bị đơn:
- Ông Minh H, sinh năm: 1976; Địa chỉ: tổ C, phường T, quận S, thành
phố Đ. Vắng mặt.
- Ông Minh H1, sinh năm: 2004; Địa chỉ: tổ C, phường T, quận S, thành
phố Đ. Vắng mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1962 Huỳnh Phương M, sinh năm
1971; Địa chỉ: 2 đường I, phường L, thành phố T, thành phố H. Đại diện theo ủy
quyền: ông Trần Văn H2, sinh năm; 1977. Địa chỉ: tổ H, phường A, quận T, thành
phố Đ (theo giấy ủy quyền ngày 12/4/2025 tại Văn phòng công chứng N). Vắng
mặt
2
- Văn phòng công chứng Nguyễn Văn T1. Địa chỉ: Số B đường số E,
phường A, quận C, thành phố H. Vắng mặt
- Ngân hàng TMCP Q - Chi nhánh V. Địa chỉ: Số C đường L, phường T,
quận G, thành phố H.
Đại diện theo uỷ quyền: Ông Phạm Thanh H3 - chức vụ: Giám đốc THN Trực
tiếp XLN Vùng- Vùng Bắc Trung B- Khối mạng lưới kinh doanh Ngân hàng
bán lẻ VIB theo giấy uỷ quyền tham gia tố tụng số: 226369.24 ngày 23/10/2024
của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Q Giấy Uỷ quyền tham gia tố tụng số:
232921.24 ngày 23/10/2024 của Tổng Giám đốc Khối mạng lưới kinh doanh Ngân
hàng bán lẻ.
Đại diên theo ủy quyền lại: ông Nguyễn Tiến H4 chức vụ: Cán bộ Ngân
hàng TMCP Q; ông Lê Huy T2 chức vụ: Cán bộ Ngân hàng TMCP Q; ông
Nguyễn Trung H5 chức vụ: Cán bộ Ngân hàng TMCP Q và ông Hồ Xuân N1
chức vụ: Cán bộ Ngân hàng TMCP Q. Địa chỉ liên lạc: Số A Đ, phường C, quận T,
thành phố Đ (Theo giấy ủy quyền s032066.25 ngày 19/02/2025 của Giám đốc
THN Trực tiếp XLN Vùng- Vùng Bắc Trung B- Khối mạng lưới kinh doanh
Ngân hàng V). Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện nộp cho Tòa án nhân dân quận S của Nguyễn
Minh N. Tại bản tự khai, tại phiên tòa hôm nay người đại diện ủy quyền
Lê Thị Thanh P trình bày:
Ba mẹ của Nguyễn Minh N ông Nguyễn Minh T và Huỳnh Phương
M nhờ bà N đứng tên hộ thửa đất số 535, tờ bản đồ số 39, diện tích 136,9m2 do Sở
Tài nguyên Môi trường thành phố H cấp ngày 01/7/2022 tại địa chỉ: Đường số I, tổ
B, khu phố T, phường L, thành phố T, thành phố H. Khoảng cuối năm 2023, ông T
M thoả thuận bán thửa đất nói trên cho ông Minh H với g5.500.000.000
đồng (Năm tỷ năm trăm triệu đồng). Ngày 11/12/2023, ông Lê Minh H1 gọi điện
báo cho N Văn phòng C1, địa chỉ số B - B đường số E phường T, quận G,
thành phố H đến tại nhà ông T M để hợp đồng chuyển nhượng cho ông
Minh H. Tuy nhiên khi hợp đồng chuyển nhượng N thấy người mua không
phải Lê Minh H mà là Lê Minh H1, bà N có hỏi thì ông T và ông H trả lời ông H là
người mua nhưng để cho con mình Minh H1 đứng tên hộ. Người mua trả
tiền là ông H, bà N nhận thấy giống như trường hợp của mình đứng tên hộ thửa đất
này cho ba mẹ nên không có ý kiến gì và ký vào hợp đồng chuyển nhượng.
Trong lúc ký kết thì giữa các bên có bàn bạc là ông T bà M bán cho ông H với
giá 5.500.000.000 đồng nhưng hợp đồng chuyển nhượng ghi nhận các bên thoả
thuận giá bán là 5.100.000.000 đồng (Năm tmột trăm triệu đồng). Đồng thời ông
T M cho ông H nợ số tiền 5.500.000.000 đồng. Lúc ký, ông H cam kết sau khi
làm xong các thủ tục sang tên cải nghiệp, ông H vay Ngân hàng TMCP Q - Chi
nhánh V. Địa chỉ: Số C đường L, phường T, quận G, thành phố H, đồng thời gom
3
tiền đtrả cho ông T M. Tuy nhiên đến nay ông H chưa thanh toán số tiền nêu
trên cho bà N hoặc ông T bà M.
Sau thời gian dài liên hệ, tìm gặp và yêu cầu trả số tiền bán đất nói trên nhưng
phía ông H cũng như con của mình ông H1 nhưng không kết quả, bà N đã
làm đơn khởi kiện tại TAND quận S để yêu cầu giải quyết: Buộc ông Minh H
Minh H1 nghĩa vụ thanh toán số tiền 5.500.000.000 đồng (Năm tỷ m
trăm triệu đồng) cho bà Nguyễn Minh N.
Sau khi nộp đơn khởi kiện, ông H đã chuyển khoản cho bà M số tiền
100.000.000 đồng để trả nợ. Trước đó, ông T nợ ông H số tiền 500.000.000
đồng và vợ chồng ông T bà M xác định sẽ cấn trừ nợ số tiền này vào khoản tiền 5,5
tỷ đồng ông H mua đất. Vậy ông T M xác nhận tổng số tiền ông H đã trả
được cho ông T bà M 600 triệu đồng. Số tiền ông H còn nợ khi mua đất là 4,9 tỷ
đồng. Tại phiên a ngày hôm nay, N yêu cầu ông H ông H1 phải nghĩa
vụ thanh toán cho bà N hoặc vợ chồng ông T bà mai số tiền 4,9 tỷ đồng nêu trên.
* Tại phiên tòa ông Minh H ông Minh H1 vắng mặt nhưng trong
quá trình giải quyết vụ án, tại bản tự khai ông H trình bày:
Do mối quan hệ quen biết với vợ chồng ông Nguyễn Minh T và bà Huỳnh
Phương M nên chúng tôi thỏa thuận mua làm hợp đồng chuyển nhượng đất
tại địa chỉ: Đường số I, tổ B, khu phố T, phường L, thành phố T, thành phố H, thửa
đất số 535, tờ bản đồ số 39, diện tích 136,9m2 do Sở Tài nguyên Môi trường thành
phố H cấp ngày 01/7/2022. đất này đứng tên Nguyễn Minh N, con gái của
ông T M đứng tên dùm ông T M, chuyển nhượng sang cho con tôi
Minh H1 (đứng tên dùm cho tôi). Thực tế việc chuyển nhượng đất nói trên Nguyễn
Minh N Lê Minh H1 không biết gì. Giá trị chuyển nhượng 40.000.000
đồng/m2, tương đương 5.476.000.000 đồng (Năm tỷ bốn trăm bày mươi u triệu
đồng). Tôi đã hứa sẽ trả số tiền nêu trên trong thời gian như sau: Khoảng tháng
3/2024, tôi sẽ trả trước số tiền 2.500.000.000 đồng (Hai tỷ năm trăm triệu đồng).
Số tiền còn lại tôi sẽ trả dần trong vòng 04 đến 05 tháng sau. Nhưng vì kinh tế khó
khăn nên tôi mới trả được 100.000.000 đồng chuyển qua số tài khoản của bà M.
Nay vợ chồng bà M cùng con gái kiện tôi yêu cầu tôi trả hết số tiền trên thì tôi
ý kiến như sau: Tôi thống nhất số tiền mua bán 5.476.000.000 đồng đúng,
nhưng trừ đi số tiền tôi đã trả 100.000.000 đồng. Trong quá trình làm ăn chung,
ông T mượn tôi 500.000.000 đồng, vợ tôi chuyển khoản qua số tài khoản của
anh T vào ngày 05/6/2023. Số tiền còn lại tôi sẽ trả cho vợ chồng anh T trong vòng
10 tháng, bắt đầu từ ngày 01/6/2024.
* Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của ông T, bà M - ông Trần Văn H2
có đơn xin vắng mặt nhưng tại bản tự khai ông H2 trình bày:
Ông Nguyễn Minh T Huỳnh Phương M nhờ con gái Nguyễn Minh N
(sinh năm 2003) đứng tên hộ thửa đất số 535, tbản đsố 39, diện tích 136,9m2
do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố H cấp ngày 01/7/2022 tại địa chỉ: Đường
4
số I, tổ B, khu phố T, phường L, thành phố T, thành phố H. Khoảng cuối năm
2023, ông T M thoả thuận bán thửa đất nói trên cho ông Minh H với g5,5
tỷ đồng. Ngày 11/12/2023, anh Lê Minh H1 (là con trai của ông Minh H, người
đứng tên hộ cho ông H để mua thửa đất) gọi điện báo cho N Văn phòng C1,
địa chỉ số B - B đường số E phường T, quận G, thành phố H sẽ đến tại nhà của ông
T bà M để ký Hợp đồng chuyển nhượng.
Vợ chồng ông T M ông H bàn bạc chuyển nhượng với giá
5.500.000.000 đồng (Năm tỷ năm trăm triệu đồng) nhưng hợp đồng chuyển
nhượng ghi nhận các bên thoả thuận giá bán 5.100.000.000 đồng (Năm tỷ một
trăm triệu đồng). Đồng thời ông TM cho ông H nợ số tiền 5.500.000.000 đồng.
Lúc ký ông H cam kết sau khi làm xong các thủ tục sang tên cải nghiệp, ông H vay
Ngân hàng TMCP Q - Chi nhánh V. Địa chỉ: Số C đường L, phường T, quận G,
thành phố H, đồng thời gom tiền để trả đủ. Tuy nhiên, ông H cũng như ông H1
chưa thanh toán bất kỳ một đồng nào từ tiền mua đất nói trên cho vợ chồng ông T
M hay N mặc đã rất nhiều lần liên hệ đòi tiền nhưng ông H hết lần này
đến lần khác cứ hẹn nhưng không chịu thanh toán số tiền 5,5 tỷ đồng như đã cam
kết nói trên.
vậy, N đã làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đ xem
xét thụ giải quyết buộc ông Minh H và Minh H1 phải nghĩa vụ trả nợ
số tiền 5.500.000.000 đồng (Năm tỷ năm trăm triệu đồng), đây stiền bán thửa
đất của ông T bà M nhờ bà N đứng tên hộ để bà N trả lại cho ba mẹ của chị N.
Ông H đã chuyển khoản cho M số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu
đồng) để trả nợ. Trước đó, ông T có nợ ông H số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm
triệu đồng) vợ chồng ông T M xác định sẽ cấn trừ nợ số tiền này vào khoản
tiền 5.500.000.000 đồng ông H mua đất. Vậy ông T M xác nhận tổng số tiền
ông H đã trả được cho ông T M 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng). Số
tiền ông H còn nợ khi mua đất 4.900.000.000 đồng (bốn tỷ chín trăm triệu
đồng), yêu cầu ông H phải nghĩa vụ thanh toán dứt điểm một lần cho vợ chồng
ông T bà M số tiền còn nợ 4.900.000.000 đồng nêu trên.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đại diện theo ủy quyền của
Ngân hàng TMCP Q - Chi nhánh V trình bày:
VIB nhận được Thông báo 68/2024/TB.TA ngày 02/01/2025 về việc bổ sung
thành phần tham gia tố tụng trong vụ án dân sự thụ số 68/2024/TB-TLVA ngày
01/04/2024 về việc “Tranh chấp đòi tài sản” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Minh N
bị đơn ông Minh H, ông Minh H1 đang được Tòa án nhân dân (TAND)
quận S, thành phố Đ thụ lý giải quyết.
Ngân hàng TMCP Q (V) cấp tín dụng cho ông Minh H1 theo Hợp đồng tín
dụng số 9621074.24 ngày 29/12/2023, số tiền V đã giải ngân cho ông Lê Minh H1
là 3.500.000.000 đồng (Ba tỷ năm trăm triệu đồng).
5
Tài sản bảo đảm (TSBĐ) cho khoản vay Quyền sử dụng đất tài sản gắn
liền với đất tại thửa đất số: 535, tờ bản đồ số: 39, địa chỉ: Phường L, thành phố T,
TP H theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số: DĐ872328, số vào sổ cấp GCN: CS 14002 do Sở Tài nguyên
Môi trường thành phố H cấp ngày 01/07/2022, cập nhật chuyển nhượng cho ông
Minh H1 ngày 25/12/2023. Tài sản này được thế chấp tại VIB theo Hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất số công chứng: 000091, Quyển số:01/2024 TP/CC-
SCC/HĐGD do Văn phòng C2, TP ., công chứng ngày 03/01/2024. Việc thế chấp
đăng giao dịch bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Quá trình xử
thu hồi khoản vay: Khoản vay của ông Minh H1 đã quá hạn thanh toán ktừ
ngày 10/8/2024. VIB đã đôn đốc, tạo điều kiện cho ông Minh H1 trả nợ tuy
nhiên ông vẫn không thực hiện. Ngày 09/01/2025, V đã nộp đơn khởi kiện ông
Minh H1 đến TAND quận S, thành phố Đ đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc ông
Minh H1 phải thanh toán ngay cho Ngân hàng TMCP Q số tiền tạm tính đến ngày
20/12/2024 là: 3.598.638.556 đồng (Ba tỷ, năm trăm chín mươi tám triệu, sáu trăm
ba mươi tám nghìn, năm trăm năm mươi sáu đồng), bao gồm: Nợ gốc
3.441.668.000 đồng, nợ lãi trong hạn 152.755.664 đồng, nợ lãi quá hạn là
4.214.892 đồng. Trường hợp ông Minh H1 không thanh toán hoặc thanh toán
không đầy đủ, V có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền kê biên, phát mãi TSBĐ
để thu hồi nợ và đã được TAND quận S, Thành phố Đ thụ lý giải quyết theo Thông
báo thụ lý vụ án số 19/2025/TB-TLVA ngày 10/02/2025.
Theo như nội dung của Thông báo thụ vụ án số 68/2024/TB-TLVA ngày
01/04/2024 về việc “Tranh chấp đòi tài sản” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Minh N
bị đơn ông Minh H, ông Minh H1 đang được Tòa án nhân dân (TAND)
quận S, thành phố Đ thụ lý giải quyết, thì việc ông Minh Hông Lê Minh H1
phát sinh giao dịch vay mượn tiền với ông Nguyễn Minh N, V không hề biết
việc này và hiện nay V cũng đã khởi kiện ông Minh H1 để yêu cầu trả nợ bằng
một vụ án khác TAND quận S, thành phố Đ đã thụ theo thông báo số
19/2025/TB-TLVA ngày 10/02/2025 nêu trên.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Văn phòng công chứng Nguyễn
Văn T1 bị đơn ông Minh H1: Mặc đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
nhưng vắng mặt tại tất cả các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải, cũng không có văn bản trình bày ý kiến nên không có ý kiến
trình bày của những người này trong hồ sơ vụ án.
* Tại phiên tòa hôm nay, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận S phát biểu
ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của người tham gia
tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị
án. Theo đó, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng theo quy định của
Bộ luật tố tụng dân sự. T khi thụ vụ án, nguyên đơn, NCQLNVLQ: ông
Nguyễn Minh T, Huỳnh Phương M và Ngân hàng TMCP Q đã thực hiện đúng,
6
đầy đủ các quyền nghĩa vụ được quy định tại các Điều 70, 71, 73 BLTTDS.
Riêng bị đơn và NCQLNVLQ Văn phòng công chứng Nguyễn Văn T1: mặc dù đã
được Tòa án tống đạt quyết định triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại tất cả các
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, ng khai chứng cứ hòa giải, không
gửi văn bản trình bày ý kiến là không thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ được
quy định tại các Điều 70, 72, 73 BLTTDS.
* Về nội dung vụ án:
- Căn cứ Điều 280 BLDS, đề nghị XX: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, buộc ông Lê Minh H, ông Lê Minh H1 phi tr mt ln cho
bà Nguyn Minh N tng s tiền là 4.900.000.000 đng.
- Án phí DSST bị đơn ông Minh H và ông Lê Minh H1 phải chịu theo quy
định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp đòi tài sản giữa nguyên đơn Nguyễn
Minh N với bị đơn ông Minh H1 ông Minh H thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân quận S, thành phố Đ theo quy định tại khoản 2 Điều 26,
điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Ông Minh H1, Minh H (là bị đơn trong vụ án, không yêu cầu phản
tố) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn
vắng mặt không do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự,
HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông H1, ông H.
[2]. Về nội dung vụ án:
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Minh N thì vào ngày
11/12/2023, Nguyễn Minh N ông Minh H1 đã thống nhất với nhau về
việc kết “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. N đồng ý bán cho
ông H1 thửa đất số 535, tờ bản đồ số 39, diện tích 136,9m2 do Sở Tài nguyên Môi
trường thành phố H cấp ngày 01/7/2022 tại địa chỉ: Đường số I, tổ B, khu phố T,
phường L, thành phố T, thành phố H với giá trị 5.100.000.000 đồng (Năm tỷ
một trăm triệu đồng). Tuy nhiên, nguyên đơn bà N và người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan ông T M đã căn cứ vào các tin nhắn trao đổi qua lại giữa các bên khi
tiến hành kết hợp đồng nêu trên, thống nhất xác định số tiền thực tế ông H
phải thanh toán theo thỏa thuận phát sinh từ Hợp đồng chuyển nhượng
5.500.000.000 đồng. Nhưng đến hiện nay ông H chỉ mới thanh toán 100.000.000
đồng các bên cũng thống nhất đồng ý cấn trừ số tiền 500.000.000 đồng ông T
nợ ông H vào số tiền cần thanh toán. Nvậy, ông H ông H1 còn nghĩa vụ
7
phải thanh toán cho N số tiền còn lại là 4.900.000.000 đồng. Nay N yêu cầu
ông H và ông H1 phải trả lại số tiền trên.
[3]. Hội đồng xét xử xét thấy:
Giao dịch dân sự giữa nguyên đơn Nguyễn Minh N, với bị đơn ông Minh
H1 là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc. Tại Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 11 tháng 12 năm 2023 Nguyễn Minh N đã chuyển nhượng
thửa đất số 535, tờ bản đồ số 39, diện tích 136,9m2 do Sở Tài nguyên Môi trường
thành phố H cấp ngày 01/7/2022 cho ông Lê Minh H1. Ông Lê Minh H1 và ông Lê
Minh H đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Việc khởi kiện của bà N yêu cầu Tòa án buộc
ông H ông H1 trả số tiền 4.900.000.000 đồng (Bốn tỷ chín trăm triệu đồng) là
căn cứ, phù hợp với các Điều 117, 166, 274, 275, 280 của Bộ luật Dân sự năm
2015 nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Minh N đối với ông H
ông H1.
HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Minh N đối với ông
Minh H1 và Lê Minh H. Buộc ông H1 và ông H phải trả cho bà Nguyễn Minh N số
tiền 4.900.000.000 đồng (Bốn tỷ chín trăm triệu đồng).
Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn N người quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đơn đề nghị Tòa án nhân dân quận S chuyển toàn bộ hồ
sang quan Cảnh sát điều Công an thành phố Đ yêu cầu làm hành vi Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản đối với ông Lê Minh H1 và ông Lê Minh H.
Ngày 12/7/2024, Tòa án nhân dân quận S đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án sang
quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đề nghị làm ông Minh H,
ông Lê Minh H1 có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà Nguyễn Minh N hay
không.
Ngày 08/10/2024, quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ trả lời
phúc đáp bằng Công văn số 5240 với nội dung: Quá trình xác minh, sở để
xác định: “Vụ việc nêu trên là tranh chấp trong giao dịch dân sự không có dấu hiệu
của tội phạm hình sự.Do đó, Tòa án nhân dân quận S đã đưa vụ án ra xét xử theo
thủ tục dân sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay, Ngân hàng Q trình bày về việc khởi kiện của bà
Nguyễn Minh N đối với ông Minh H1, Minh H đã được Tòa án nhân dân
quận S thụ theo thông báo thụ 68/2024/TB-TLVA ngày 01/4/2024 thì
Ngân hàng đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc ông
Minh H1 đã thế chấp tài sản là thửa đất số 535, tờ bản đồ số 39, diện tích 136,9m2
do Sở Tài nguyên Môi trường thành phố H cấp ngày 01/7/2022 tại địa chỉ: Đường
số I, tổ B, khu phố T, phường L, thành phố T, thành phố H, hiện nay ông Minh
H1 đã quá hạn thanh toán nên Ngân hàng đã khởi kiện bằng một vụ án “Tranh
chấp hợp đồng tín dụng” đã được Tòa án nhân dân quận S thụ số 19/2025/TB-
TLVA ngày 10/02/2025.
8
[4]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn là bà Nguyễn Minh N được chấp
nhận nên bị đơn ông Minh H ông Minh H1 phải chịu án phí theo Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí và lệ pTòa án của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, ông H ông H1 phải chịu là: 112.900.000 đồng (Một trăm mười hai
triệu chín trăm ngàn đồng).
Hoàn trả cho bà Nguyễn Minh N số tiền tạm ứng án phí 56.750.000 đồng
(Năm mươi sáu triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số
0001924 ngày 29/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đ.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Khoản 2 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2
Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều Điều 117, 166, 274, 275, 280 của Bộ luật Dân sự 2015.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp đòi tài sản” của
Nguyễn Minh N đối với ông Lê Minh H và ông Lê Minh H1.
1. Buộc ông Minh H ông Minh H1 phi tr cho Nguyễn Minh N
s tin 4.900.000.000 đồng (Bốn tỷ chín trăm triệu đồng).
2. Án phí DS-ST: 112.900.000 đồng (Một trăm mười hai triệu chín trăm ngàn
đồng) ông Lê Minh H và ông Lê Minh H1 phải chịu.
Hoàn trả cho bà Nguyễn Minh N số tiền tạm ứng án phí 56.750.000 đồng
(Năm mươi sáu triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số
0001924 ngày 29/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự quận S, thành phố Đ.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự quyền làm đơn kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không
mặt khi tuyên án do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận
được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật
Dân sự năm 2015.
9
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND quận S, TP. ĐN;
- Chi cục THADS quận S, TP. ĐN;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
DƯƠNG THỊ KIM NHUNG
Tải về
Bản án số 35/2025/DS-ST Bản án số 35/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 35/2025/DS-ST Bản án số 35/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất