Bản án số 32/2025/HNGĐ-PT ngày 30/06/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 32/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 32/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 32/2025/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 32/2025/HNGĐ-PT ngày 30/06/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Tháp |
Số hiệu: | 32/2025/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/06/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Hủy một phần bản án, chấp nhận kháng cáo |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG THÁP
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 32/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 19 - 6 - 2025
“V/v ly hôn giữa anh Nguyễn
Văn Phúc và chị Lê Thị Nhản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Nguyễn Thị Thúy Hằng.
Ông Trần Văn Kiến.
Bà Phạm Thị Liên Hiệp.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Lưu Hồng Hạnh - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp: Bà Nguyễn Thị Được-
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 04, 19 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Tháp xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 03/2025/TLPT-HNGĐ
ngày 21 tháng 02 năm 2025 về “Ly hôn, tranh chấp về chia tài sản chung, yêu cầu
hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 53/2024/HNGĐ-ST ngày 30 tháng 12 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 08/2025/QĐ-PT ngày
21 tháng 3 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Phúc, sinh năm 1980; địa chỉ: Khóm An
Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Dương Thị Giàu, sinh năm
1966; địa chỉ: Khóm An Phước, phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng
Tháp, là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn về chia tài sản (được ủy
quyền theo văn bản ủy quyền ngày 22/3/2024); có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Lê Thị Vân
Lan, Luật sư ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp
lý Nhà nước tỉnh Đồng Tháp; có mặt.
2. Bị đơn: Chị Lê Thị Nhản, sinh năm 1978; địa chỉ: Khóm An Lộc, phường
An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; có mặt.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Ngô Trọng Hoàng,
Luật sư Công ty Luật TNHH Luật Hoàng và Công sự; địa chỉ: 89 -91 (Lầu 1, P21)
Nguyễn Du, phường Bến Nghé, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Nguyễn Lê Ngọc Hạnh, sinh ngày 18/4/2001; hộ khẩu thường trú:
Khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; địa
chỉ cư trú: 69, Hoàng Bình Chính, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành
phố Đà Nẵng; có đơn xin xét xử vắng mặt.
3.2. Chị Nguyễn Lê Huỳnh Như, sinh ngày 03/11/2005; địa chỉ: Khóm An
Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; có đơn xin xét
xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Anh Nguyễn Văn Phúc, là nguyên đơn và chị Lê Thị
Nhản, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn Nguyễn Văn Phúc trình bày:
Về hôn nhân: Vào năm 2000, anh Phúc và chị Lê Thị Nhản được cha mẹ tổ
chức đám cưới, đã chung sống với nhau như vợ chồng, có làm Tờ khai đăng ký
kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Thọ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang nhưng
chưa có đăng ký kết hôn theo quy định. Quá trình chung sống rất hạnh phúc, sau
đó anh Phúc bị tai nạn té từ trên nhà xuống đất bị chấn thương cột sống, liệt hai
chi dưới, không đi lại được, từ đó dẫn đến bất đồng quan điểm với nhau, thường
xuyên cải vã nhau. Mặc dù anh Phúc không đi lại được nhưng anh Phúc vẫn gọi
điện thuê người làm ruộng phụ giúp chị Nhản, vì con anh Phúc cũng cố gắng
nhường nhịn để sống nhưng thời gian gần đây chị Nhản có thái độ không tốt đối
với anh Phúc, thường xuyên đi sớm về khuya, có lời lẽ thiếu tôn trọng anh Phúc
nên anh Phúc về nhà mẹ ruột ở An Giang sinh sống từ tháng 11/2023 đến nay.
Xét thấy tình nghĩa không còn và cũng không thể sống chung được nên anh Phúc
yêu cầu được ly hôn chị Lê Thị Nhản.
Về con chung: Có hai con chung là Nguyễn Lê Ngọc Hạnh, sinh ngày
18/4/2001 và Nguyễn Lê Huỳnh Như, sinh ngày 03/11/2005, đã trưởng thành
không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về tài sản chung:
Nguồn gốc đất chuyên trồng lúa: Vào năm 2004 cha vợ anh Phúc là ông Lê
Văn Sự và cậu là ông Phạm Văn Sơn, cư trú xã Phú Thuận B, huyện Hồng Ngự
dẫn anh Phúc mua đất của ông Nguyễn Chí Thiện (Hai cà Lem) là 13 công tầm cắt
với giá 162 chỉ vàng 24 kara 9T8. Lúc này anh Phúc không đủ tiền mua nên cha vợ
anh Phúc cho mượn thêm khoảng 122 chỉ để trả cho ông Hai Cà Lem, sau đó anh
Phúc làm lúa hàng năm xong có trả dần lại cho cha vợ anh Phúc, đến năm 2020
xong nợ. Đến năm 2021 cha vợ anh Phúc chết do bị nhiễm Covid. Thời điểm mua
bán có làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do anh Nguyễn Văn Phúc
3
đứng tên và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2018, anh Phúc
bị tai nạn làm chấn thương cột sống và bị liệt hai chi dưới không đi lại được. Năm
2019 để thuận tiện trong việc làm ăn và vay tiền Ngân hàng nên anh Phúc có làm
hợp đồng hợp thức hóa tặng cho vợ là chị Lê Thị Nhản đứng tên vay tiền của Ngân
hàng Vietinbank Chi nhánh Hồng Ngự số tiền 400.000.000 đồng, để làm ăn và vợ
anh Phúc đã trả cho Ngân hàng xong vào khoảng tháng 3/2024, hiện chị Nhản đang
giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với phần đất ruộng diện tích 17.000m
2
,
theo đo đạc thực tế 17.045,8m
2
gồm hai thửa đất số 164, 174, tờ bản đồ số 5, tại
phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự do chị Lê Thị Nhản đứng tên, anh Phúc
yêu cầu được chia đôi mỗi người 8.500m
2
. Anh Phúc yêu cầu hủy hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất giữa anh Phúc và chị Nhản đối với diện tích đất 9.061,7m
2
,
thửa đất số 164, tờ bản đồ số 5 và diện tích 7.984,1m
2
, thửa đất số 174, tờ bản đồ
số 5, loại đất chuyên trồng lúa nước, tại khóm An Lộc, phường An Bình A, thành
phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp để chia đôi tài sản.
Nguồn gốc đất ở: Trước đây là của cha mẹ bà Trần Thị Khe sử dụng. Năm
1978 - 1979 do chiến tranh biên giới, cha vợ anh Phúc là ông Lê Văn Sự về cất
nhà ở. Năm 2005, bà Khe tranh chấp yêu cầu bồi thường tiền sử dụng đất, lúc này
cha vợ anh Phúc cho anh Phúc phần đất chiều ngang 7,5m, chiều dài 21m và anh
Phúc đã tranh chấp đất với bà Khe. Ngày 16/6/2005 được Ủy ban nhân dân huyện
Hồng Ngự (nay là thành phố Hồng Ngự) giải quyết giữ nguyên hiện trạng sử dụng
đất cho anh Phúc, tổng diện tích 156,5m
2
, cha vợ anh Phúc diện tích đất 414,3m
2
.
Bà Khe khiếu nại, ngày 26/4/2006 Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp giải quyết
“Chuẩn y Quyết định số 1542/QĐ-UB ngày 16/6/2005 của Ủy ban nhân dân
huyện Hồng Ngự”. Đến năm 2014, Phòng Tài nguyên và Môi trường thông báo
cho anh Phúc đến nộp tiền để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất cho anh
Phúc đứng tên và đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là thửa 626, tờ bản đồ
số 3. Anh Phúc phải nộp cho Nhà nước số tiền 50.500.000 đồng nhưng do hoàn
cảnh khó khăn không có tiền đóng cho Nhà nước nên nợ lại. Đến năm 2022, anh
Phúc và chị Nhản mượn tiền của mẹ anh Phúc là bà Phạm Thị Liên giao cho chị
Nhản nộp cho Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Hồng Ngự số tiền 20.000.000
đồng, do anh Phúc bị liệt hai chi dưới không lao động được, dự định làm đơn xin
miễn giảm phần lãi suất nhưng do bất đồng quan điểm với nhau nên anh Phúc làm
đơn xin ly hôn, yêu cầu chia tài sản, sau đó anh Phúc làm đơn xin rút một phần
yêu cầu đối với diện tích đất 156,5m² để anh Phúc và chị Nhản tự thỏa thuận. Đến
ngày 06/8/2024, chị Nhản có đơn yêu cầu công nhận cho chị Nhản được quyền sử
dụng diện tích đất 156,5m² (chiều ngang 7m, chiều dài khoảng 22,35m) thuộc
thửa số 68, tờ bản đồ số 17 (trước là thửa 626, tờ bản đồ số 3), tại khóm An Lộc,
phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Anh Phúc không thống
nhất theo yêu cầu của chị Nhản, anh Phúc yêu cầu công nhận cho anh Phúc được
quyền sử dụng diện tích đất 156,5m² (chiều ngang 7m, chiều dài khoảng 22,35m)
thuộc thửa 68, tờ bản đồ số 17, tại khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp (đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất), anh Phúc chia 50% giá trị đất lại cho chị Nhản, vì hiện nay anh Phúc không
có nhà ở, đang ở tạm với người em. Do anh Phúc bị liệt hai chi dưới không lao
4
động được nên chưa có tiền nộp cho Nhà nước để lấy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, hiện Văn phòng đăng ký đất đai đang giữ giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Anh Phúc giữ yêu cầu khởi kiện chia đôi diện tích đất 17.045,8m
2
, theo đo
đạc thực tế là 17.045,8m
2
, anh Phúc được nhận 8.500m
2
, diện tích đất còn lại chị
Nhản được nhận, thuộc hai thửa 164 và 174, tờ bản đồ số 5. Đối với diện tích đất
156,5m
2
, anh Phúc và chị Nhản có xây dựng nhà ở trên đất, đến năm 2020 thì anh
Phúc và chị Nhản tháo dở nhà nên ở tạm nhà em ruột của chị Nhản và dự định
xây dựng nhà thì anh Phúc và chị Nhản xảy ra mâu thuẫn. Đến tháng 11/2023,
anh Phúc về nhà mẹ ruột ở đến nay. Anh Phúc yêu cầu công nhận diện tích đất
156,5m
2
cho anh Phúc và anh Phúc sẽ trả giá trị cho chị Nhản số tiền 200.000.000
đồng. Đối với nghĩa vụ trả số tiền còn lại cho Nhà nước đối với phần đất này anh
Phúc yêu cầu chị Nhản có nghĩa vụ trả ½ số tiền còn lại cho Nhà nước tại thời
điểm trả tiền đất. Anh Phúc thống nhất phần đất thổ cư tranh chấp diện tích
156,5m
2
(chiều ngang 7m, chiều dài khoảng 22,35m) theo Quyết định của Uỷ ban.
Anh Nguyễn Văn Phúc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
giữa anh Phúc và chị Nhản đối với diện tích đất 9.061,7m
2
, thửa đất số 164, tờ
bản đồ số 5 và diện tích đất 7.984,1m
2
, thửa đất số 174, tờ bản đồ số 5, loại đất
chuyên trồng lúa nước, tại khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp để chia đôi tài sản này.
Anh Phúc trình bày anh Phúc và chị Nhản vay Ngân hàng số tiền
400.000.000 đồng là để nuôi cá, làm lúa và phần còn lại thì mua xe SH (hiện chị
Nguyễn Lê Ngọc Hạnh con anh Phúc quản lý). Số tiền vay này đã trả xong cho
Ngân hàng, số tiền đã trả nợ cho Ngân hàng được lấy từ nguồn tiền thu hoạch lúa
hàng năm, thời điểm này anh Phúc bệnh nên không có giữ tiền mà do chị Nhản
giữ tiền, anh Phúc chỉ trình bày và không có tài liệu, chứng cứ chứng minh về
việc này, anh Phúc không yêu cầu chia xe SH với chị Nhản trong vụ án này. Anh
Phúc không yêu cầu định giá lại tất cả các tài sản tranh chấp trong vụ án này và
thống nhất theo giá của Hội đồng định giá đã định.
Tại phiên toà, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày anh
Phúc giữ yêu cầu khởi kiện. Anh Phúc yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất giữa anh Phúc và chị Nhản đối với diện tích đất 9.061,7m
2
, thửa đất số
164, tờ bản đồ số 5 và diện tích 7.984,1m
2
, thửa đất số 174, tờ bản đồ số 5, loại
đất chuyên trồng lúa nước, tại khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp để chia tài sản. Anh Phúc yêu cầu chị Nhản chia phần đất
ruộng để anh Phúc được nhận 8.500m
2
đất, không yêu cầu chia đôi diện tích theo
đo đạc thực tế là 17.045,8m
2
, phần dư ra anh Phúc đồng ý cho chị Nhản được
nhận. Anh Phúc yêu cầu công nhận diện tích đất 156,5m
2
cho anh Phúc và anh
Phúc trả giá trị cho chị Nhản số tiền 200.000.000đồng. Đối với nghĩa vụ trả tiền
còn lại cho Nhà nước đối với phần đất này thì anh Phúc yêu cầu chị Nhản có nghĩa
5
vụ trả ½ số tiền còn lại cho Nhà nước tại thời điểm trả tiền đất. Anh Phúc thống
nhất phần đất thổ cư đang tranh chấp diện tích 156,5m
2
theo Sơ đồ đo đạc bổ sung
ngày 20/12/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Hồng Ngự,
anh Phúc thống nhất với các sơ đồ đo đạc, sơ đồ đo đạc bổ sung và biên bản định
giá các tài sản tranh chấp trong vụ án này mà không yêu cầu định giá lại tài sản
tranh chấp.
Bị đơn Lê Thị Nhản trình bày:
Về hôn nhân: Chị Nhản và anh Phúc có làm đám cưới nhưng không có đăng
ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đã từ lâu anh Phúc không có phụ giúp trong
gia đình, gia đình bốn người do chị Nhản gánh vác, kể từ khi anh Phúc bị té cầu
thang thì chị Nhản càng thêm gánh nặng. Chị Nhản và anh Phúc đã không sống
chung hơn 10 tháng nay nên chị Nhản đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh Phúc.
Về con chung: Có hai con chung là Nguyễn Lê Ngọc Hạnh, sinh ngày
18/4/2001 và Nguyễn Lê Huỳnh Như, sinh ngày 03/11/2005, đã trưởng thành
không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về tài sản chung:
Phần đất ruộng 9.061,7m² thuộc thửa 164, tờ bản đồ số 5 và phần đất ruộng
7.984,1m² thuộc thửa 174, tờ bản đồ số 5, tại khóm An Lộc, phường An Bình A,
thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, là tài sản của cá nhân chị Nhản nên chị
Nhản không chia theo yêu cầu của anh Nguyễn Văn Phúc. Nguồn gốc hai phần
đất này là của cha chị Nhản là ông Lê Văn Sự mua cho chị Nhản làm của riêng,
thời điểm đó chị Nhản có thai, lo chuyện sinh đẻ và chăm sóc đứa con gái lớn nên
hai phần đất ruộng này ai đứng tên thì chị Nhản không biết. Sau khi chị Nhản biết
được là chồng chị Nhản đứng tên theo hộ đất nên kêu chồng chị Nhản chuyển lại
cho chị Nhản đứng tên riêng vì đây là tài sản của cha chị Nhản mua cho chị Nhản.
Ngày 24/9/2019 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Quang Danh, chị Nhản, anh
Phúc và con gái lớn là Nguyễn Lê Ngọc Hạnh làm thủ tục tặng cho hai phần đất
ruộng là hoàn toàn tự nguyện và đúng quy định pháp luật. Hai phần đất ruộng này
hiện nay chị Nhản quản lý, sử dụng, trước đây chị Nhản thiếu vốn làm ăn nên có
vay Ngân hàng 400 triệu đồng bằng cách thế chấp đất ruộng nhưng chị Nhản đã
trả xong.
Phần đất thổ cư 156,5m², tại khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố
Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp là của cha chị Nhản ông Lê Văn Sự sử dụng từ năm
1978 và tranh chấp với bà Trần Thị Khe mà có theo Quyết định số 1542/QĐ-UB
ngày 16/6/2005 của Ủy ban nhân dân huyện Hồng Ngự và Quyết định số 122/QĐ-
UBND-NĐ ngày 26/4/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Thời điểm năm
2001 vì thấy chị Nhản không có chỗ ở nên cha chị Nhản cho chị Nhản phần đất
đang tranh chấp với bà Khe diện tích 156,5m², lúc này anh Phúc đứng tên chủ hộ
và được xét theo diện 12 hộ tranh chấp với bà Khe và phải nộp tiền cho Nhà nước
thì mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Từ khi nhận được Quyết
định số 122/QĐ-UBND-NĐ ngày 26/4/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng
Tháp, anh Phúc không nộp tiền và không cho chị Nhản biết diễn biến sự việc nên
6
dẫn đến bị phạt đóng tiền trễ hạn và có nguy cơ bị thu hồi đất. Chị Nhản phải lo
tiền chăm sóc cho anh Phúc và hai con, đến ngày 26/3/2021 chị Nhản mới nộp
được tổng cộng 21.076.750 đồng vào ngân sách Nhà nước. Nay chị Nhản yêu cầu
công nhận cho chị Nhản quyền sử dụng đất tổng diện tích 156,5m², mặt trước giáp
đường nhựa Trần Phú, mặt sau giáp đất ông Lê Văn Sự, hai bên hông giáp đất ông
Lê Văn Nghiệp và bà Lê Thị Út Em thuộc thửa đất số 626, tờ bản đồ số 3, tại
khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Chị
Nhản không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn Phúc đối với đất thổ cư.
Phần đất thổ cư từ trước đến nay do chị Nhản quản lý, sử dụng, do chưa đủ
tiền nên chị Nhản chưa xây dựng nhà, trước đây có dựng nhà tạm nhưng hư hỏng
nên đã dỡ bỏ. Xung quanh phần đất này là của bà con ruột của chị Nhản, một bên
là em ruột chị Nhản (Lê Thị Út Em), một bên là chú ruột của chị Nhản (Lê Văn
Nghiệp). Anh Nguyễn Văn Phúc không có bà con ở gần phần đất thổ cư này, bản
thân lại bị thương, khó tự chăm sóc cho bản thân nên anh Phúc yêu cầu chia đất
và cất nhà ở thì không phù hợp. Chị Nhản không mượn số tiền 20.000.000 đồng
bên chồng để đóng tiền đất cho Nhà nước, chị Nhản không có nợ tiền bên chồng,
nguyên đơn trình bày là không có thật.
Đối với yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho đất có công chứng của nguyên đơn
thì chị Nhản không chấp nhận, chị Nhản yêu cầu Tòa án giữ nguyên. Đây là hợp
đồng tự nguyện của các bên và đúng quy định pháp luật, không có điều kiện hay
mục đích nào khác. Chị Nhản thống nhất với biên bản thẩm định và định giá đã có
giá trị, không yêu cầu thẩm định và định giá lại. Phần mái hiên của nhà chị Nhản
nằm trên đất đang tranh chấp với diện tích là 0,8m
2
, chị Nhản đã tháo dở xong.
Về nợ chung: Chị Nhản và anh Phúc không có nợ chung và không ai nợ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Lê Ngọc Hạnh vắng mặt,
có văn bản trình bày:
Chị Hạnh là con gái lớn của anh Nguyễn Văn Phúc và chị Lê Thị Nhản. Chị
Hạnh đã kết hôn và đang sinh sống ở gia đình bên chồng tại số 69, đường Hoàng
Bình Chính, phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Từ khi
có hiểu biết cho đến nay, chị Hạnh thấy ông bà ngoại và mẹ chị Hạnh là những
người lo kinh tế, chuyện trong ngoài của gia đình, anh Phúc không có giúp gì cho
gia đình, khi anh Phúc bị tai nạn thì chị Nhản vẫn chăm sóc anh Phúc. Sự việc anh
Phúc và chị Nhản ly hôn do anh Phúc, chị Nhản quyết định. Việc làm hợp đồng
cho đất ruộng ngày 24/9/2019 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Quang Danh
thì cha mẹ chị Hạnh và chị Hạnh là hoàn toàn tự nguyện và đúng quy định pháp
luật. Việc chị Nhản vay tiền Ngân hàng là do thiếu vốn sản xuất và trả nợ bên
ngoài khi nuôi bệnh anh Phúc, không liên quan gì đến hợp đồng tặng cho đất
ruộng. Từ khi anh Phúc bỏ đi thì nhiều lần xúc phạm, lời nói thô tục và có lần gọi
điện qua ứng dụng Messenger (của Facebook bây giờ là Meta) đe dọa tính mạng
của chị Nhản.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Lê Huỳnh Như vắng mặt,
có văn bản trình bày:
7
Chị Như là con gái út của anh Nguyễn Văn Phúc và chị Lê Thị Nhản. Từ
khi có hiểu biết đến nay, chị Như thấy ông bà ngoại và mẹ chị Như là những người
lo kinh tế và chuyện trong ngoài của gia đình, cha chị Như không có giúp gì cho
gia đình, khi cha chị Như bị tai nạn thì mẹ chị Như vẫn chăm sóc. Việc cha mẹ
chị Như ly hôn do cha mẹ chị Như quyết định. Việc làm hợp đồng tặng cho đất
ruộng ngày 24/9/2019 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Quang Danh thì cha mẹ
chị Như và chị Nguyễn Lê Ngọc Hạnh là hoàn toàn tự nguyện và đúng quy định
pháp luật. Việc chị Nhản vay tiền Ngân hàng là do thiếu vốn sản xuất và trả nợ
bên ngoài khi nuôi bệnh cha chị Như, không liên quan gì đến hợp đồng tặng cho
đất ruộng.
Tại bản án sơ thẩm số: 53/2024/HNGĐ-ST ngày 30 tháng 12 năm 2024,
Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã quyết định:
Căn cứ vào các điều 9, 14, 51, 59, 62 của Luật hôn nhân và gia đình năm
2014; Điều 457, Điều 459 Bộ luật dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều
26, điểm a, b khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Nguyễn Văn
Phúc
và chị
Lê Thị Nhản.
2. Về con chung: Các con đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem
xét, giải quyết.
3. Về tài sản chung:
3.1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn
Phúc.
Giao toàn bộ phần diện tích đất ruộng 17.045,8m
2
thuộc thửa 164 và 174,
cùng tờ bản đồ số 5, tọa lạc khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng
Ngự, tỉnh Đồng Tháp, do chị Lê Thị Nhản đang đứng tên giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho chị Lê Thị Nhản được tiếp tục quản lý, sử dụng. Cụ thể: Tính từ
mốc M1 đến M2 đến M3 đến M4 đến M5 đến M6 đến M12 đến M11 đến M10
đến M9 đến M1 theo Sơ đồ đo đạc số 20/2024/SĐĐĐ/CNVPĐKĐĐ TPHN ngày
04/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Hồng Ngự.
Buộc chị Lê Thị Nhản có nghĩa vụ trả lại cho anh Nguyễn Văn Phúc giá trị
phần đất ruộng diện tích 8.500m
2
x 165.000đ/m
2
là 1.402.500.000 (Một tỷ bốn
trăm lẻ hai triệu năm trăm nghìn đồng).
3.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Văn Phúc
về việc yêu cầu huỷ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Văn
Phúc và chị Lê Thị Nhản đối với phần diện tích đất ruộng 17.045,8m
2
thuộc thửa
164 và 174, cùng tờ bản đồ số 5, tọa lạc khóm An Lộc, phường An Bình A, thành
phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, do chị Lê Thị Nhản đang đứng tên giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
8
3.3. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Lê Thị Nhản.
Công nhận cho chị Lê Thị Nhản được tiếp tục quản lý, sử dụng phần diện
tích đất 156,5m
2
, thuộc một phần thửa 626, tờ bản đồ số 3, tại khóm An Lộc,
phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ thể: Tính từ mốc M2 đến M3 đến M4 đến
M5 đến M6 đến M12 đến M11 đến M2 theo Sơ đồ đo đạc bổ sung ngày
20/12/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Hồng Ngự.
Buộc chị Lê Thị Nhản có nghĩa vụ trả lại cho anh Nguyễn Văn Phúc phân
nửa giá trị phần đất diện tích 156,5m
2
theo giá của Hội đồng định giá tài sản là
330.000đ/m
2
bằng 51.645.000đồng chia hai là 25.822.500đ (Hai mươi lăm triệu
tám trăm hai mươi hai nghìn năm trăm đồng).
Các đương sự được quyền đến Cơ quan chức năng có thẩm quyền để làm
thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích
đất 156,5m
2
nêu trên theo quy định pháp luật.
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp Cơ quan Thi
hành án có quyền chủ động ra Quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
4. Về nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Buộc anh Nguyễn Văn Phúc phải chịu án phí dân sự sơ thẩm hôn nhân gia
đình là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Nhưng anh Phúc là người khuyết tật nên
được miễn toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Buộc anh Nguyễn Văn Phúc phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5% phần
tài sản được hưởng (tổng giá trị: 1.402.500.000đ + 25.822.500đ =
1.428.322.500đ) là 54.850.000đ (Năm mươi bốn triệu tám trăm năm mươi nghìn
đồng). Nhưng anh Nguyễn Văn Phúc là người khuyết tật nên được miễn toàn bộ
án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc chị Lê Thị Nhản phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 5% phần tài sản
được hưởng (tổng giá trị: 1.410.057.000đ + 25.822.500đ = 1.435.879.500đ) là
55.076.000đ (Năm mươi lăm triệu không trăm bảy mươi sáu nghìn đồng). Được
khấu trừ 1.291.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 011889
ngày 06/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng
Tháp. Nên chị Lê Thị Nhản còn phải nộp thêm 53.785.000đ (Năm mươi ba triệu
bảy trăm tám mươi lăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí tố tụng là 12.153.000đ (Mười hai triệu
một trăm năm mươi ba nghìn đồng). Anh Nguyễn Văn Phúc và chị Lê Thị Nhản
mỗi người phải chịu phân nửa là 6.076.500đ (Sáu triệu không trăm bảy mươi sáu
9
nghìn năm trăm đồng). Chị Lê Thị Nhản có nghĩa vụ trả cho anh Nguyên Văn
Phúc số tiền 6.076.500đ (Sáu triệu không trăm bảy mươi sáu nghìn năm trăm
đồng) chi phí tố tụng vì anh Nguyễn Văn Phúc đã tạm ứng trước và đã chi xong.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về quyền và thời hạn kháng cáo
của đương sự, quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành
án, thời hiệu thi hành án theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 08/01/2025, chị Lê Thị Nhản kháng cáo một phần bản án sơ thẩm với
nội dung yêu cầu tuyên xử phần đất ruộng 9.061,7m² thuộc thửa 164, tờ bản đồ
số 5 và phần đất ruộng 7.984,1m², thuộc thửa 174, tờ bản đồ số 5, tại khóm An
Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp là tài sản riêng
của chị Lê Thị Nhản, không chấp nhận yêu cầu được chia hưởng 8.500m² cho anh
Nguyễn Văn Phúc; yêu cầu tuyên xử chị Nhản tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất
156,5m², thuộc một phần thửa 626, tờ bản đồ số 03, tại khóm An Lộc, phường An
Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Không chấp nhận yêu cầu chia
hưởng của anh Nguyễn Văn Phúc.
Ngày 11/01/2025, anh Nguyễn Văn Phúc kháng cáo một phần bản án sơ
thẩm với nội dung yêu cầu được nhận ½ phần đất ruộng diện tích 17.045,8m²,
thuộc thửa 164, 174 cùng tờ bản đồ số 5, tại khóm An Lộc, phường An Bình A,
thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp với diện tích là 8.500m²; yêu cầu chia phần
đất ở diện tích 156,5m² thuộc một phần thửa 626, tờ bản đồ số 3, tỷ lệ chia 6/4
(chia 60% cho anh Phúc và 40% cho chị Nhản vì anh Phúc có công sức đóng góp
nhiều hơn trong việc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất này). Anh
Phúc yêu cầu nhận đất để ổn định cuộc sống vì hiện nay anh Phúc không có chỗ
ở và khó khăn trong đi lại tìm chỗ ở mới và đồng ý trả lại 40% giá trị phần đất
diện tích 156,5m² theo giá của Hội đồng định giá là 20.658.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Nguyễn Văn Phúc trình bày
anh Phúc xin được rút đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng
đất diện tích 156,5m² thuộc một phần thửa 626, tờ bản đồ số 3, đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng. Bị đơn Lê Thị Nhản đồng ý việc anh Phúc rút
đơn khởi kiện. Anh Phúc, chị Nhản xin được rút kháng cáo về yêu cầu này.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn Nguyễn Văn Phúc trình bày
đối với yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung là quyền sử dụng đất thửa số 164,
174, cùng tờ bản đồ số 5, diện tích 17.045,8m², tại khóm An Lộc, phường An
Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp anh Phúc không rút đơn khởi kiện,
không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của chị Nhản vì hai thửa đất số 164, 174 là
do anh Phúc và chị Nhản tạo lập được trong thời gian chung sống với nhau như
vợ chồng, anh Phúc được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2005,
đến năm 2018 anh Phúc bị tai nạn không đi lại được, lúc này gia đình cần vốn
nuôi cá nên phải vay tiền Ngân hàng, qua giải thích và hướng dẫn của cán bộ ở
10
thành phố Hồng Ngự vợ chồng ai đứng tên quyền sử dụng đất cũng là tài sản
chung nên anh Phúc và con gái Nguyễn Lê Ngọc Hạnh lập hợp đồng tặng cho đất
chị Nhản để chị Nhản đứng tên nhằm tiện lợi cho việc vay vốn Ngân hàng. Sau
khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 164, 174, chị Nhản và
anh Phúc vẫn chung sống cùng nhà, anh Phúc có ủy quyền cho chị Nhản vay tiền
Ngân hàng và thế chấp quyền sử dụng đất thửa 164, 174 do chị Nhản đứng tên,
chị Nhản đã sử dụng tiền vào việc nuôi cá, chi tiêu sinh hoạt gia đình, hiện đã trả
xong nợ cho Ngân hàng.
Bị đơn Lê Thị Nhản không rút kháng cáo, không đồng ý với kháng cáo của
anh Phúc vì hai thửa đất số 164, 174 mà anh Phúc tranh chấp chia tài sản chung
là tài sản riêng của chị Nhản, do cha chị Nhản mua đất cho riêng chị Nhản nhưng
vì năm 2005 chị Nhản có thai, không có giấy chứng minh nhân dân nên không
được đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau này biết anh Phúc đứng
tên thì chị Nhản đã đề nghị anh Phúc chuyển quyền sử dụng đất thửa số 164, 174
sang tên chị Nhản nên năm 2019 anh Phúc làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng
đất cho chị Nhản.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày tranh
luận: Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa đất số 164, 174 do chị Nhản đứng tên là
tài sản chung của anh Phúc và chị Nhản là phù hợp. Anh Phúc yêu cầu được nhận
hiện vật, không đồng ý nhận giá trị đất, bởi vì anh Phúc tuy bị liệt hai chân nhưng
qua công nghệ vẫn có thể liên lạc nhờ người khác làm thuê nên anh Phúc vẫn giữ
yêu cầu chia tài sản chung là quyền sử dụng đất thửa 164, 174 bằng hiện vật, yêu
cầu được nhận diện tích đất 8.500m
2
vị trí tiếp giáp đất ông Phạm Văn Sơn (1a và
2a theo Sơ đồ đo đạc), việc nhận hiện vật của anh Phúc và hiện vật còn lại mà chị
Nhản được quyền sử dụng đất vẫn đảm bảo việc sử dụng đất của các bên. Đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của anh Phúc.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày tranh luận:
Quan hệ hôn nhân giữa anh Phúc và chị Nhản không đăng ký kết hôn nên về quan
hệ tài sản áp dụng Bộ luật dân sự giải quyết. Xét thấy kháng cáo của chị Nhản là
có căn cứ, bởi lẽ hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất không có điều kiện, hợp
đồng được công chứng theo quy định pháp luật và chị Nhản đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất các thửa 164 và 174 vào năm 2019 nên là tài sản
riêng của chị Nhản, do đó Tòa án cấp sơ thẩm không hủy hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất giữa anh Phúc và chị Nhản là phù hợp, việc anh Phúc nêu ra có điều
kiện là không phù hợp. Anh Phúc muốn xác định tài sản đang tranh chấp là tài sản
chung thì phải có căn cứ xác lập quyền sở hữu theo Điều 223 của Bộ luật dân sự.
Đối với việc thế chấp quyền sử dụng đất có anh Phúc tham gia ký kết để xác định
là tài sản chung cũng không phù hợp. Do hôn nhân không hợp pháp, việc Tòa án
cấp sơ thẩm áp dụng Điều 59, Điều 62 Luật Hôn nhân và gia đình nhận định và
quyết định là không phù hợp. Do là tài sản riêng của chị Nhản, cũng không có văn
bản nào của chị Nhản sáp nhập vào tài sản chung nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định
tài sản chung là không phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận
kháng cáo của chị Nhản, xác định thửa đất số 164, 174 là tài sản riêng của chị
11
Nhản nên chị Nhản không phải chia tài sản theo yêu cầu của anh Phúc. Về định
giá tài sản, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng giá không phù hợp, mà giá trị đất 90.000
đồng/1m
2
mới là phù hợp, đề nghị xem xét để tính án phí cho các đương sự.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký, đương sự và người tham
gia tố tụng khác đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá
trình thụ lý phúc thẩm và xét xử. Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Văn Phúc, chị Lê
Thị Nhản đúng thời hạn, thủ tục theo luật định nên hợp lệ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Phúc xin được rút đơn khởi kiện, rút kháng
cáo yêu cầu chia tài sản chung là diện tích đất 156,5m² thuộc một phần thửa số
626, tờ bản đồ số 3, chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chị Nhản
đồng ý việc rút đơn khởi kiện của anh Phúc. Xét thấy việc rút đơn khởi kiện và
rút đơn kháng cáo của anh Phúc là hoàn toàn tự nguyện, được chị Nhản đồng ý.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 299, Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng
xét xử phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu
khởi kiện này.
Về nội dung: Căn cứ vào khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của anh Phúc, sửa bản án sơ thẩm
về chia tài sản chung theo hướng chia cho anh Phúc được quyền sử dụng đất diện
tích 8.500m
2
thuộc một phần của thửa số 164, 174 do chị Nhản đứng tên; không
chấp nhận kháng cáo của chị Nhản.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của anh Nguyễn Văn Phúc, chị Lê Thị Nhản nộp trong
thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên hợp lệ. Tòa án cấp sơ
thẩm đã thụ lý, giải quyết yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất theo
đơn khởi kiện của anh Phúc, nhưng xác định yêu cầu hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là chưa phù hợp. Nội dung này được Hội đồng xét xử
phúc thẩm khắc phục trong bản án phúc thẩm.
[2] Chị Nguyễn Lê Ngọc Hạnh và chị Nguyễn Lê Huỳnh Như đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, chị Hạnh và chị Như có đơn xin xét xử vắng mặt
nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn
Văn Phúc trình bày anh Phúc xin được rút đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản
chung đối với diện tích đất 156,5m² thuộc một phần của thửa số 626, tờ bản đồ số
3, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Chị Lê Thị Nhản đồng ý
việc rút đơn khởi kiện của anh Phúc, anh Phúc và chị Nhản xin được rút kháng
cáo đối với diện tích đất 156,5m² nêu trên. Xét thấy việc rút đơn khởi kiện của
anh Phúc về chia tài sản chung đối với diện tích đất 156,5m² thuộc một phần thửa
số 626 và việc chị Nhản đồng ý việc rút đơn khởi kiện của anh Phúc, anh Phúc và
chị Nhản xin rút kháng cáo là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền,
12
lợi ích hợp pháp của người khác. Căn cứ vào Điều 299, khoản 4 Điều 308; Điều
311 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy một phần bản án dân
sự sơ thẩm số: 53/2024/HNGĐ-ST ngày 30/12/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số:
03/2025/TLPT-HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2025 về việc tranh chấp về chia tài
sản chung giữa nguyên đơn Nguyễn Văn Phúc và bị đơn Lê Thị Nhản đối với diện
tích đất 156,5m² thuộc một phần thửa số 626, tờ bản đồ số 3, đất chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng. Anh Phúc có quyền khởi kiện lại vụ án theo thủ
tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.
[4] Xét kháng cáo của anh Nguyễn Văn Phúc, chị Lê Thị Nhản, Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận thấy:
[4.1] Anh Phúc và chị Nhản chung sống với nhau như vợ chồng vào năm
2000, không đăng ký kết hôn. Năm 2018, anh Phúc bị tai nạn liệt hai chi dưới
không đi lại được nhưng anh Phúc và chị Nhản vẫn sống chung nhà, đến tháng
11/2023 anh Phúc về nhà mẹ ruột ở tỉnh An Giang sinh sống đến nay. Anh Phúc
yêu cầu được ly hôn chị Nhản, chị Nhản đồng ý ly hôn, Tòa án cấp sơ thẩm đã
quyết định không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Phúc và chị Nhản.
[4.2] Về chia tài sản chung: Anh Phúc và chị Nhản thống nhất tài sản anh
Phúc đang tranh chấp với chị Nhản về chia tài sản chung là quyền sử dụng đất thửa
số 164, tờ bản đồ số 5, diện tích 9.061,7m
2
và thửa 174, tờ bản đồ số 5, diện tích
7.984,1m
2
, đo đạc thực tế 17.045,8m
2
, mục đích sử dụng: Đất chuyên trồng lúa
nước, tại phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho chị Lê Thị Nhản ngày 23/11/2022. Anh Phúc trình
bày thửa đất số 164 và 174 là tài sản chung của anh Phúc và chị Nhản. Anh Phúc
yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa số 164, 174 giữa anh Phúc
và chị Nhản, anh Phúc yêu cầu chia đôi tài sản, yêu cầu được nhận bằng hiện vật là
8.500m
2
đất. Chị Nhản cho rằng thửa đất số 164 và 174 là tài sản riêng của chị
Nhản nên không đồng ý chia diện tích đất 8.500m
2
theo yêu cầu của anh Phúc.
[4.3] Anh Phúc và chị Nhản đều thống nhất nguồn gốc đất thửa đất số 164,
174 là của hộ ông Nguyễn Chí Thiện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất lần đầu vào năm 2001, đến năm 2005 thì ông Thiện đã chuyển nhượng đất.
Tuy nhiên giữa anh Phúc và chị Nhản không thống nhất với nhau về người nhận
chuyển nhượng đất của ông Thiện vào năm 2005. Anh Phúc trình bày anh Phúc
và chị Nhản đã nhận chuyển nhượng đất của ông Thiện, giá chuyển nhượng là
162 chỉ vàng 24k, sau khi thỏa thuận thì ông Thiện đã làm thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho anh Phúc và hộ anh Phúc đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa số 693, tờ bản đồ số 5, diện tích 7.077m
2
và thửa 104, tờ
bản đồ số 5, diện tích 10.192m
2
vào năm 2005. Về nguồn vàng, sau khi chung
sống anh Phúc và chị Nhản có thuê hơn 20 công ruộng canh tác tích lũy được, có
mượn cha vợ anh Phúc là ông Lê Văn Sự 122 chỉ vàng 24k, sau đó anh Phúc và
chị Nhản trả dần hàng năm cho ông Sự và đã trả xong nợ. Chị Nhản cho rằng đất
tranh chấp là do ông Sự cha của chị Nhản mua cho riêng chị Nhản, khi đó chị
Nhản đang có thai nên không biết ai đứng tên. Khi chị Nhản biết anh Phúc đứng
13
tên đã đề nghị anh Phúc chuyển quyền sử dụng đất lại cho chị Nhản và anh Phúc
đã chuyển quyền sử dụng đất cho chị Nhản vào năm 2019. Tại phiên tòa phúc
thẩm, chị Nhản trình bày năm 2000 chị Nhản và anh Phúc chung sống với nhau,
thấy chị Nhản không có cơ sở làm ăn nên vào năm 2005 ông Phạm Văn Sơn nói
với cha chị Nhản mua đất của ông Thiện cho chị Nhản, giá 162 chỉ vàng 24k, do
khi đó chị Nhản đang mang thai và không có giấy chứng minh nhân dân nên chị
Nhản nhờ anh Phúc đứng tên dùm, hiện ông Sự và ông Thiện đã chết. Lời trình
bày của chị Nhản không được người đại diện theo ủy quyền của anh Phúc thừa
nhận, ông Sự và ông Thiện đã chết, ông Sơn khai cách nay khoảng 20 năm có giới
thiệu ông Sự mua 14 công tầm cắt của ông Hai Cà Lem còn việc trao đổi như thế
nào thì ông Sơn không biết, không biết ông Sự mua hay mua cho ai, có thấy anh
Phúc và chị Nhản canh tác đất, từ ngày anh Phúc bị bệnh thì chị Nhản canh tác
(bút lục số 161). Thực tế chị Nhản không có chứng cứ để chứng minh có sự việc
vào năm 2005 cha chị Nhản là người nhận chuyển nhượng đất của ông Thiện và
cho riêng chị Nhản, không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh chị Nhản nhờ anh
Phúc đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất dùm chị Nhản vào năm 2005.
Do đó việc chị Nhản xác định thửa 164, 174 do cha chị Nhản mua và tặng cho
riêng chị Nhản nên là tài sản riêng của chị Nhản là chưa phù hợp, mà cần xác định
quyền sử dụng đất thửa số 164 và 174 hình thành vào năm 2005 là tài sản do anh
Phúc và chị Nhản tạo lập được và thuộc sở hữu chung của anh Phúc và chị Nhản.
[4.4] Sau khi nhận chuyển nhượng đất, anh Phúc và chị Nhản cùng canh
tác đất đến năm 2018. Quá trình sử dụng đất, vào năm 2017 anh Phúc đã thực hiện
việc cấp đổi quyền sử dụng đất và ngày 14/8/2017 hộ anh Phúc đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa số 693, tờ bản đồ số 5, diện tích 7.077m
2
và
thửa số 104, tờ bản đồ số 5, diện tích 10.192m
2
; năm 2018 anh Phúc bị tai nạn
không đi lại được; năm 2019 anh Phúc và thành viên trong hộ là Nguyễn Lê Ngọc
Hạnh ký kết hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa số 693 và 104 cho chị
Nhản, hợp đồng được công chứng ngày 24/9/2019 và đến ngày 08/10/2019 chị
Nhản được đứng tên quyền sử dụng đất. Chị Nhản thực hiện thủ tục hợp thửa số
693 và 104 thành thửa 921, tờ bản đồ 05, diện tích 17.264m
2
, đến năm 2022 chị
Nhản thực hiện thủ tục cấp đổi thửa số 921 thành thửa 164 và 174 như nêu trên.
[4.5] Anh Phúc trình bày việc ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho
chị Nhản vào năm 2019 nhằm để chị Nhản đứng tên quyền sử dụng đất để chị
Nhản thuận tiện cho việc vay vốn Ngân hàng về nuôi cá, lo gia đình chứ không
có sự việc tặng cho đất, bởi khi đó anh Phúc bị liệt hai chân không đi lại được nên
không thuận tiện cho việc giao dịch tại Ngân hàng, anh Phúc có ký văn bản ủy
quyền cho chị Nhản vay vốn Ngân hàng và thế chấp quyền sử dụng đất tranh chấp,
đồng thời anh Phúc và chị Nhản vẫn sống chung nhà đến cuối năm 2023 mới ly
thân. Chị Nhản cũng thống nhất từ năm 2005 đến năm 2018 anh Phúc và chị Nhản
cùng sử dụng đất tranh chấp, có sự việc anh Phúc bị tại nạn năm 2018 liệt hai
chân, năm 2019 anh Phúc có ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất thửa số 104
và 693 cho chị Nhản vì là tài sản riêng của chị Nhản nên anh Phúc chuyển quyền
sử dụng đất lại cho chị Nhản, sau khi chị Nhản đứng tên quyền sử dụng có cùng
14
anh Phúc vay vốn Ngân hàng và thế chấp quyền sử dụng đất tranh chấp, mục đích
vay vốn ghi nhận trên hợp đồng để bổ sung vốn nuôi cá tra, nhưng thực tế để lo
tiền thuốc cho anh Phúc và có vốn làm ăn, tại phiên tòa phúc thẩm chị Nhản trình
bày số tiền vay của Ngân hàng chị Nhản đã cho mẹ và em anh Phúc mượn 150
triệu đồng, số tiền còn lại đã chi vào việc điều trị cho anh Phúc, chi sinh hoạt của
gia đình. Tuy nhiên lời trình bày của chị Nhản không được anh Phúc thừa nhận,
không phù hợp như đã nhận định trên nên không có cơ sở xem xét.
[4.6] Từ những căn cứ trên, xét thấy trong quá trình chung sống như vợ
chồng anh Phúc và chị Nhản có tạo lập được hai thửa 164 và 174, ngoài ra còn
được cha chị Nhản cho sử dụng một phần của thửa đất số 626 nêu trên. Anh Phúc
và chị Nhản đã sử dụng đất liên tục từ khi tạo lập tài sản và được tặng cho đất.
Năm 2018 anh Phúc bị tai nạn liệt hai chân, sống phụ thuộc vào chị Nhản nhưng
vào năm 2019 anh Phúc và con gái lập hợp đồng tặng cho đất cho chị Nhản nhưng
sau đó anh Phúc và chị Nhản vẫn sống chung nhà đến cuối 11/2023 mới ly thân.
Mặc dù hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa anh Phúc và chị Nhản đã hoàn
thành, không có ghi nhận điều kiện tặng cho đất, chị Nhản đã đứng tên quyền sử
dụng đất nhưng vào thời điểm năm 2019 anh Phúc bị liệt hai chân, tài sản thuộc
sở hữu chung của anh Phúc và chị Nhản là thửa 164, 174 và là nguồn thu nhập
chính của gia đình, việc tặng cho đất tự nguyện, hoàn thành thì anh Phúc không
có tài sản đảm bảo điều kiện sinh sống sau này. Mặt khác sau khi tặng cho đất,
anh Phúc và chị Nhản vẫn sống chung nhà, anh Phúc đã ủy quyền cho chị Nhản
ký kết hợp đồng cho vay, thế chấp quyền sử dụng đất tranh chấp do chị Nhản
đứng tên cho Ngân hàng, chị Nhản vay tiền nhằm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu
của gia đình anh Phúc và chị Nhản. Do đó có căn cứ xác định hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất giữa anh Phúc và chị Nhản nhằm để chị Nhản thực hiện một
giao dịch khác để lo kinh tế gia đình chứ không có sự việc tặng cho quyền sử dụng
đất nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định thửa đất số 164, 174 là tài sản thuộc sở hữu
chung của anh Phúc và chị Nhản là phù hợp.
[4.7] Do quyền sử dụng đất thửa số 164 và 174 thuộc sở hữu chung của anh
Phúc và chị Nhản, do anh Phúc và chị Nhản cùng tạo lập, công sức đóng góp như
nhau. Với diện tích đất 17.045,8m
2
đang tranh chấp thì việc chia tài sản bằng hiện
vật là diện tích đất 8.500m
2
trong phạm vi các mốc M11, M15, M14, M13, M4,
M5, M6, M12, trở về M11, thuộc một phần của thửa 164, 174, tờ bản đồ số 5 nêu
trên theo yêu cầu của anh Phúc vẫn đảm bảo điều kiện sử dụng đất của các đương
sự. Việc Tòa án cấp sơ thẩm nhận định anh Phúc bị liệt hai chi dưới, không đi lại
được, không lao động được, không đủ hai yếu tố là có nhu cầu và có điều kiện
trực tiếp sử dụng đất nên không thể chia quyền sử dụng đất cho anh Phúc và quyết
định chia cho chị Nhản được quyền sử dụng đất thửa số 164 và 174, chị Nhản trả
giá trị diện tích đất 8.500m
2
cho anh Phúc là chưa phù hợp. Do vậy kháng cáo yêu
cầu được chia quyền sử dụng đất diện tích 8.500m
2
trong phạm vi các mốc M11,
M15, M14, M13, M4, M5, M6, M12, trở về M11, thuộc một phần của thửa 164,
174, tờ bản đồ số 5, mục đích sử dụng: Đất chuyên trồng lúa nước, tại phường An
Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, giấy chứng nhận quyền sử dụng
15
đất cấp cho chị Nhản ngày 23/11/2022 là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử
phúc thẩm chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm.
[4.8] Xét kháng cáo của chị Nhản yêu cầu tuyên xử phần đất ruộng
9.061,7m² thuộc thửa 164, tờ bản đồ số 5 và phần đất ruộng 7.984,1m², thuộc thửa
174, tờ bản đồ số 5, tại khóm An Lộc, phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự,
tỉnh Đồng Tháp là tài sản riêng của chị Lê Thị Nhản, không chấp nhận yêu cầu
được chia hưởng 8.500m² cho anh Nguyễn Văn Phúc do chưa phù hợp như đã
nhận định trên nên không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.
[4.9] Việc chị Nhản được cấp quyền sử dụng đất trên cơ sở anh Phúc ký
hợp đồng tặng cho đất. Do hai thửa đất số 164, 174 là tài sản thuộc sở hữu chung
của anh Phúc và chị Nhản, tranh chấp về chia tài sản chung của anh Phúc là có
căn cứ nên chỉ cần đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất cấp
cho chị Nhản để cấp lại quyền sử dụng đất cho anh Phúc cũng đảm bảo.
[5] Về án phí sơ thẩm:
Anh Phúc và chị Nhản phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về chia tài sản đối
với tài sản mà anh Phúc đã rút đơn khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Anh Phúc và chị Nhản phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần
tài sản đương sự được chia.
Theo quy định pháp luật anh Phúc là người khuyết tật nên được miễn nộp
tiền án phí.
[6] Về án phí phúc thẩm:
Chị Nhản phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Anh Phúc không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
[7] Xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn
do phù hợp như đã nhận định trên nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận.
Xét đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn do chưa
phù hợp như đã nhận định trên nên không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp
nhận.
[8] Những ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị
hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện chia tài
sản chung là diện tích đất 156,5m² thuộc một phần thửa 626, tờ bản đồ số 3, chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chấp nhận kháng cáo của anh
Nguyễn Văn Phúc, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận kháng cáo của chị Lê
Thị Nhản do phù hợp như đã nhận định trên nên được Hội đồng xét xử phúc thẩm
chấp nhận.
[9] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
16
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2, 4 Điều 308, Điều 148, Điều 296, điểm b khoản 1 Điều
299, Điều 311 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 219 Bộ luật dân sự; Điều
12, 26, 27, 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Hủy một phần bản án dân sự sơ thẩm số: 53/2024/HNGĐ-ST ngày
30/12/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp và đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự thụ lý số: 03/2025/TLPT-HNGĐ ngày 21 tháng 02
năm 2025 về việc tranh chấp về chia tài sản chung giữa nguyên đơn Nguyễn Văn
Phúc và bị đơn Lê Thị Nhản đối với diện tích đất 156,5m² thuộc một phần thửa
số 626, tờ bản đồ số 3, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng, hiện
chị Nhản đang quản lý. Anh Nguyễn Văn Phúc có quyền khởi kiện lại vụ án theo
thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.
Chấp nhận kháng cáo của anh Nguyễn Văn Phúc.
Không chấp nhận kháng cáo của chị Lê Thị Nhản.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 53/2024/HNGĐ-ST ngày 30 tháng 12 năm
2024 của Tòa án nhân dân thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
1. Về chia tài sản: Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Văn Phúc.
Ông Nguyễn Văn Phúc được quyền sử dụng đất diện tích 8.500m
2
trong
phạm vi các mốc M11, M15, M14, M13, M4, M5, M6, M12, trở về M11, thuộc
một phần của thửa số 164, 174, tờ bản đồ số 5, mục đích sử dụng: Đất chuyên
trồng lúa nước, tại phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp,
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho chị Lê Thị Nhản ngày 23/11/2022.
Chị Lê Thị Nhản được quyền sử dụng đất diện tích 8.545,8m
2
trong phạm
vi các mốc M15, M10, M9, M1, M2, M3, M13, M14, trở về M15, thuộc một phần
của thửa số 164, 174, tờ bản đồ số 5, mục đích sử dụng: Đất chuyên trồng lúa
nước, tại phường An Bình A, thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cấp cho chị Lê Thị Nhản ngày 23/11/2022.
Đề nghị Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp thu hồi quyền sử
dụng đất diện tích 8.500m
2
thuộc một phần của thửa 164, 174, tờ bản đồ số 5, giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho chị Lê Thị Nhản ngày 23/11/2022 để cấp
lại quyền sử dụng đất cho anh Nguyễn Văn Phúc.
Các đương sự được quyền đến Cơ quan chức năng có thẩm quyền để làm
thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần diện tích
đất như nêu trên theo quy định pháp luật.
(kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 29/5/2024 và Sơ đồ bổ
sung ngày 27/5/2025 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Hồng
Ngự)
17
2. Về án phí sơ thẩm:
Anh Nguyễn Văn Phúc là người khuyết tật nên được miễn nộp án phí dân
sự sơ thẩm.
Chị Lê Thị Nhản phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền 25.822.500
đồng theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm trong trường hợp anh Phúc rút đơn
khởi kiện về chia tài sản và phải chịu án phí về chia tài sản đối với diện tích đất
8545,8m
2
, trị giá 1.410.057.000 đồng nên chị Nhản phải chịu 55.076.000 đồng án
phí dân sự sơ thẩm; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.291.000
đồng theo biên lai số 0011889 ngày 06/8/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Chị Nhản còn phải nộp số tiền 53.785.000
đồng.
3. Về án phí phúc thẩm:
Anh Nguyễn Văn Phúc không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Chị Lê Thị Nhản phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm; được khấu
trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0012343 ngày
08/01/2025 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp.
4. Về chi phí tố tụng số tiền 12.153.000 đồng, anh Nguyễn Văn Phúc và chị
Lê Thị Nhản mỗi người phải chịu 6.076.500 đồng. Anh Nguyễn Văn Phúc đã tạm
ứng và đã chi xong nên chị Lê Thị Nhản có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Văn
Phúc số tiền 6.076.500 đồng.
5. Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi
hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND Tỉnh;
- TAND thành phố Hồng Ngự;
- CCTHADS thành phố Hồng Ngự;
- Phòng TT, KT-THA TAT;
- Lưu: VT, HS (Hạnh)
Nguyễn Thị Thúy Hằng
18
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thành Tôn - Nguyễn Thị Vĩnh
Nguyễn Thị Thúy Hằng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 09/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm