Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 18/06/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/HNGĐ-PT ngày 18/06/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 09/2025/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/06/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn, nợ chung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
25 1806202
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
ông Nguyễn Tấn Long
ông Lê Văn Thường
ông Phạm Tồn
- Thư ký phiên tòa: ông Nguyễn Văn Nam, Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: bà Nguyễn Thị Hà - Kiểm sát viên.
Ngày 18 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 02/2025/TLPT-
HNGĐ ngày 26-03-2025 về việc “Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn, nợ chung”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 09/2024/ HNGĐ-ST ngày 23/12/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1661/2025/QĐ-PT ngày 03 tháng
6 năm 2025, giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: bà Trần Thị P - sinh năm 1959; nơi thường trú: Đ, thôn
M, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Chỗ ở hiện nay: Số A đường N, tổ dân phố
A, thị trấn C, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Trần Thị P: bà Nguyễn
Thị Thanh T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước
tỉnh Q, có mặt.
2- Bị đơn: ông Trần Trung T1 - sinh năm 1954; cư trú tại đội A, thôn M,
xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền của ông Trần Trung T1: ông Nguyễn Vi Q
- sinh năm 1950; địa chỉ: Khu dân cư S, xóm D, thôn T, xã B, huyện B, tỉnh
Quảng Ngãi (theo văn bản ủy quyền ngày 13/9/2022.
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 09/2025/HNGĐ-PT
Ngày: 18 - 6 - 2025
V/v “Ly hôn, chia tài sản khi
ly hôn, nợ chung”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
3- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ngân hàng N– Chi nhánh huyện B, tỉnh Quảng Ngãi – Địa chỉ: số D
đường P, thị trấn C, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
Người đại diện: ông Phạm Ngọc V, Giám đốc chi nhánh, có đơn xin xét
xử vắng mặt.
3.2. Chị Trần Thị T2 - sinh năm 1990; cư trú tại số A đường N, tổ dân phố
A, thị trấn C, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
3.3. Anh Trần Anh T3 - sinh năm 1981;
3.4. Chị Phạm Thị Ngọc H - sinh năm 1991;
3.5. Cháu Trần Phạm Anh T4 - sinh năm 2018;
Cùng cư trú tại đội A, thôn M, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người đại diện hợp pháp của cháu Trần Phạm Anh T4: anh Trần Anh
T3 và chị Phạm Thị Ngọc H (là cha mẹ đẻ của cháu T4).
3.6. Chị Trần Thị Giang T5 - sinh năm 1979; cư trú tại số D, chung
cư C, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa.
3.7. Bà Trần Thị Xuân D - sinh năm 1969; cư trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện
Đ, tỉnh Đăk Nông.
3.8. Anh Phan Tấn D1 - sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn M, xã B, huyện B,
tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ liên hệ: Số C đường H, phường T, quận I, Thành phố
H.
3.9. Chị Phan Thị Y - sinh năm 1978;
3.10. Chị Nguyễn Thị T6 - sinh năm 1982
Cùng cư trú tại thôn V, xã T, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người đại diện theo ủy quyền của anh Trần Anh T3, bà Trần Thị Xuân
D, chị Trần Thị Giang T5, anh Phan Tấn D1, chị Phan Thị Y, chị Nguyễn Thị
T6, chị Phạm Thị Ngọc H: ông Trần Trung T1, có mặt.
3.11. Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ trụ sở: Tổ dân
phố D, thị trấn C, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Ngọc T7 - Chủ tịch, có đơn
đề nghị xét xử vắng mặt.
4- Người kháng cáo: ông Trần Trung T1, bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như sau:
3
* Theo đơn khởi kiện, các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và tại phiên tòa,
nguyên đơn bà Trần Thị Phúc trình B:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Trần Trung T1 có tổ chức đám cưới và
chung sống với nhau từ năm 1986 nhưng không có đăng ký kết hôn. Quá trình
chung sống cuộc sống hôn nhân của vợ chồng bà không hạnh phúc. Năm 1995,
ông T1 đi làm ăn xa tại thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm đến Tết ông T1 mới về
thăm nhà; năm 2017, ông T1 về nhà và ở luôn cho đến nay. Vào tháng 10/2017,
ông T1 có đơn yêu cầu giải quyết xin ly hôn nhưng sau đó ông T1 rút đơn. Tuy
nhiên, bà không đồng ý việc ông T1 rút đơn khởi kiện vì quan hệ hôn nhân giữa
bà và ông T1 đã mâu thuẫn trầm trọng, giữa hai vợ chồng không có tiếng nói
chung, vợ chồng bà đã sống ly thân, hiện nay bà phải về ở tại nhà con gái của
bà. Nay, xét thấy tình cảm giữa hai vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân
không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông
Trần Trung T1.
Về con chung: Bà và ông T1 có một người con chung là cháu Trần Thị T2
- sinh ngày 24/7/1990, hiện nay cháu T2 đã thành niên và lập gia đình có cuộc
sống riêng nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng bà có các tài sản
chung gồm các thửa đất:
Thửa đất số 816, tờ bản đồ số 41, xã B, diện tích 1.185m
2
(viết tắt là thửa
816)
được Uỷ ban nhân dân (viết tắt là UBND) huyện B cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) số vào sổ cấp GCN 04271
QSDĐ/543/2004/QĐ-UB (H) ngày 14/5/2004 cho hộ ông Trần Trung T1. Bà
yêu cầu chia cho bà diện tích 592m
2
đất, trong đó có 200m
2
đất ở; đối với nhà ở
và các tài sản trên đất bà yêu cầu chia theo giá trị tại chứng thư thẩm định giá.
Thửa đất số 728, tờ bản đồ số 41, xã B, diện tích 2.288,6m
2
(viết tắt là
thửa 728) được UBND huyện B cấp GCNQSDĐ số phát hành BG 891845, số
vào sổ cấp GCN: CH.00221 ngày 03/10/2011 cho hộ ông Trần Trung T1 và bà
Trần Thị P. Bà P yêu cầu chia cho bà diện tích 1.144,3m
2
và yêu cầu được nhận
toàn bộ tài sản gắn liền trên đất.
Thửa đất 775, tờ bản đồ số 41, xã B, diện tích 2.129,5m
2
(viết tắt là thửa
775) bà P yêu cầu chia cho bà diện tích 1.064m
2
; đối với các tài sản trên đất bà
không yêu cầu chia.
Thửa đất số 717, tờ bản đồ số 41, xã B, diện tích 1.475m
2
(viết tắt là thửa
717) bà yêu cầu chia cho bà diện tích 737,5m
2
; đối với các tài sản trên đất bà
không yêu cầu chia.
4
Thửa đất số 762, tờ bản đồ số 41, xã B, diện tích 377m
2
(viết tắt là thửa
762) bà yêu cầu chia cho bà diện tích 188,5m
2
; đối với các tài sản trên đất bà
không yêu cầu chia.
Đối với các thửa đất nông nghiệp được cấp theo Nghị định 64/NĐ-CP cho
hộ gia đình ông Trần Trung T1 gồm: Thửa đất số 902, tờ bản đồ số 40 (viết tắt
là thửa 902); thửa đất số 931, 987, 834, 996 cùng thuộc tờ bản đồ số 41 (viết tắt
là thửa 931, 987, 834, 996); thửa đất số 907, 929 cùng thuộc tờ bản đồ số 30
(viết tắt là thửa 907, 929); thửa đất số 18, tờ bản đồ số 54 (viết tắt là thửa 18)
cùng tại xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Bà yêu cầu được nhận các thửa 902,
929.
- Tại đơn xin thay đổi và rút một phần yêu cầu khởi kiện đề ngày
03/9/2020, 23/7/2024 và ngày 12/11/2024, biên bản làm việc ngày 04/4/2023,
ngày 23/7/2024 và tại phiên tòa sơ thẩm bà P yêu cầu giải quyết:
Bà xin rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện đối với yêu cầu chia tài sản chung là
các thửa đất số 728 và tài sản, cây trồng gắn liền với thửa đất, thửa đất 775, 717
và 762 cùng tờ bản đồ số 41, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi
Trong quá trình giải quyết vụ án gia đình đã tự thỏa thuận phân chia đối
với các thửa đất nông nghiệp nên bà P đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc
chia các thửa đất nông nghiệp 902, 987, 834, 996, 907, 929, 931 và thửa 18.
Đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với thửa 816, bà thay đổi
yêu cầu khởi kiện như sau:
Căn cứ vào GCNQSDĐ thửa 816 diện tích là 1.185m² (diện tích đo đạc
thực tế là 1.185,3m²) trong đó có 400m² đất ở không cân đối chia cho hộ nhân
khẩu, bà không yêu cầu chia tài sản chung; còn lại 785,3m² là đất vườn thừa
được cân đối chia theo Nghị định 64/CP, tại thời điểm cấp GCNQSDĐ thì hộ
gia đình bà có 05 nhân khẩu gồm: Trần Trung T1, Trần Thị P, Trần Anh T3,
Trần Thị Giang T5, Trần Thị T2 nên bà thay đổi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu chia
cho bà được hưởng 1/5 diện tích đất vườn là 157,06m²; bà yêu cầu được nhận
bằng hiện vật.
Đối với tài sản gắn liền trên thửa 816, gồm có nhà ở vật kiến trúc, cây cối
có tổng giá trị là 121.576.816 đồng theo Chứng thư thẩm định giá số
1331/2021/VLAND-HCM ngày 6/4/2021 của Công ty TNHH T12 (viết tắt là
Chứng thư thẩm định giá số 1331). Bà xác định nhà ở cấp 4 bà có tu sửa, cải tạo
chứ không xây dựng, việc tu sửa không có chứng cứ; chuồng bò, chuồng gà,
giếng đào, cây rơm không phải là tài sản của bà nên bà xin rút một phần yêu cầu
khởi kiện về chia giá trị các tài sản trên; còn lại là tài sản chung của bà và ông
T1 bao gồm: kho diện tích 7,6m
2
, sân phơi xi măng diện tích 136,1m
2
, nhà vệ
sinh diện tích 4,2m
2
, mái hiên diện tích 7m
2
, mái tạm diện tích 6,5m
2
, tường rào,
5
cổng ngõ và cây cối trên đất có giá trị là 31.193.206 đồng (thể hiện trong sơ đồ
địa chính thửa đất ngày 07/9/2020). Bà yêu cầu chia tài sản chung cho bà được
hưởng là ½ giá trị tài sản với số tiền 15.000.000 đồng.
Trường hợp Toà án xác định không có căn cứ để quyết định chia diện tích
đất vườn thuộc thửa 816 là tài sản chung của hộ gia đình thì bà yêu cầu Toà án
giải quyết: Buộc các đồng thừa kế của cụ T10, cụ T11 phải chia cho bà một
phần công sức là công giữ gìn, bảo quản làm tăng giá trị quyền sử dụng thửa
816, nuôi các con ăn học, chăm lo cuộc sống gia đình, sửa chữa nhà, thờ cúng
ông bà phía chồng kể từ khi bà về làm dâu từ năm 1986 đến năm 2017, cụ thể là
chia cho bà được nhận bằng giá trị là ¼ giá trị quyền sử dụng đất thửa 816 theo
Chứng thư thẩm định giá số 1331 có giá trị là 742.400.000 đồng/4 (đất ở 400m²
có giá 1.856.000 đồng/m²) + 40.050.300 đồng/4 (đất trồng cây hàng năm khác
785.3m² có giá 51.000 đồng/m²) = 195.612.575 đồng. Tại phiên tòa bà P yêu cầu
ông T1 chia cho bà giá trị tiền công sức là 80.000.000 đồng.
Về nợ chung: Bà và ông T1 có vay vốn tại Ngân hàng N – Chi nhánh
huyện B (viết tắt là A) theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ số tiền
50.000.000 đồng (Năm mươi triệu), vợ chồng bà đã trả cho Ngân hàng số tiền
40.000.0000 đồng (Bốn mươi triệu) hiện còn nợ lại Ngân hàng số tiền
10.000.000 đồng (Mười triệu), bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà có trách
nhiệm trả một nửa số tiền là 5.000.000 đồng (Năm triệu). Trong quá trình giải
quyết vụ án vợ chồng bà đã trả hết tiền nợ cho A nên bà rút yêu cầu giải quyết
về nợ chung, không còn yêu cầu gì về nợ chung.
* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa, bị đơn ông Trần
Trung T1 trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông thống nhất trình bày của bà Trần Thị P về
quan hệ hôn nhân. Ông có vợ tên là bà Vương Thị T8 chết năm 1983, giữa ông
và bà T8 có 02 con chung là cháu Trần Anh T3 và cháu Trần Thị Giang T5.
Năm 1987, ông và bà P tự nguyện sống chung với nhau có tổ chức đám
cưới nhưng không có đăng ký kết hôn. Khi cưới về thì ông và bà P sống tại nhà
của mẹ ông; năm 1994, mẹ ông đến ở với chị gái (bà Đặng Thị T9) nên giao lại
nhà cửa cho vợ chồng ông quản lý, sử dụng (giao bằng miệng không có giấy tờ
gì). Năm 1995, ông dẫn con gái là cháu Trần Thị Giang T5 vào Thành phố Hồ
Chí Minh làm ăn, mỗi năm đến giỗ chạp ông mới về quê. Đến năm 2015, ông về
quê sống cho đến nay. Trong quá trình chung sống với bà P hai vợ chồng ông,
bà thường phát sinh mâu thuẫn, cãi vã; hiện nay ông và bà P đã ly thân, bà P bỏ
xuống nhà con gái ở thị trấn C để sinh sống nên ông có làm đơn yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn với bà P nhưng sau khi được Tòa án động viên ông đã rút đơn
khởi kiện nhưng bà P không đồng ý, vẫn kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết ly
6
hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông không đồng ý ly hôn vì hiện nay vợ
chồng ông đã già, không sống chung với nhau được thì phần ai nấy sống chứ
không có ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông T1 trình
bày ông và bà P không đăng ký kết hôn, sống chung từ năm 1987, tình cảm nay
không còn đề nghị Tòa án không công nhận vợ chồng giữa ông và bà P.
Về con chung: Vợ chồng ông có 01 con chung là cháu Trần Thị T2 - sinh
ngày 24/7/1990; hiện con chung đã thành niên nên ông không yêu cầu Tòa án
giải quyết.
Về tài sản chung: Giữa ông và bà Trần Thị P không có tài sản chung. Việc
bà P yêu cầu chia tài sản chung đối với thửa 816 thì ông không đồng ý vì thửa
đất này là đất của ông, bà lưu hạ lại cho cha mẹ ông là cụ Trần Xuân T10 và cụ
Đinh Thị T11, sau đó giao lại cho ông, ông giao lại cho con trai ông là anh Trần
Anh T3 quản lý, sử dụng để lo hương khói cho ông, bà không phải là tài sản
chung của ông và bà P nên không được quyền chia, yêu cầu Tòa án xem xét hủy
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 816 do UBND huyện B cấp cho hộ
ông Trần Trung T1 ngày 14/5/2004. Tại phiên tòa bà P đã rút yêu cầu chia tài
sản chung đối với thửa đất 728, nên đối với yêu cầu đề nghị hủy GCNQSDĐ
thửa 728 sau này ông sẽ khiếu nại hoặc khởi kiện sau. Ông đồng ý đại diện cho
các đồng thừa kế của cụ T10, cụ T11 thanh toán tiền công sức cho bà P số tiền
30.000.000 đồng.
Về quan hệ gia đình, cụ T11 và cụ T10 có 2 người con chung là ông (Trần
Trung T1) và bà Trần Thị Xuân D. Trước khi chung sống với cụ T10 thì cụ T11
có 01 người con riêng là Đặng Thị T9, chết năm 2018; bà T9 có chồng là Phan
Tấn C chết khoảng năm 1972, giữa bà T9 và ông C có 02 người con là Phan Tấn
D1 và Phan Thị Y; sau khi ông C chết bà T9 có thêm 01 người con là Nguyễn
Thị T6.
Về nợ chung: Vợ chồng ông có nợ A số tiền 50.000.000 đồng nhưng hiện
nay đã trả hết nợ cho A, do đó, giữa ông và bà P không có khoản nợ chung nào.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng N - Chi nhánh huyện
B trình bày:
Ông Trần Trung T1 và bà Trần Thị P có vay vốn tại A theo Nghị định số
55/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ số tiền 50.000.000 đồng đến
ngày 17/4/2024 ông T1 và bà P đã trả hết nợ vay tại A. Hiện nay, ông T1 và bà
P đã trả hết nợ vay tại A.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Thị T2 trình bày: Thửa
816 có nguồn gốc là của ông bà lưu hạ lại cho cha chị là ông Trần Trung T1.
Ông T1 đã bỏ mẹ con chị đi làm ăn xa hơn 20 năm, mẹ chị là người trực tiếp
quản lý và sử dụng ổn định, liên tục thửa 816, việc mẹ chị yêu cầu chia tài sản
7
chung đối với thửa 816 do cha mẹ chị tự thỏa thuận với nhau chị không có ý
kiến; tuy nhiên, chị yêu cầu khi chia phải xem xét đến công sức quản lý, sử dụng
đất cho mẹ chị.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Trần Anh T3 do ông Trần
Trung T1 là người đại diện theo uỷ quyền trình bày: Anh T3 không đồng ý với
yêu yêu cầu chia tài sản chung đối với diện tích đất vườn thuộc thửa 816 của bà
Trần Thị P vì thửa 816 có nguồn gốc là của ông bà lưu hạ lại cho cụ Trần Xuân
T10 và cụ Đinh Thị T11 sử dụng, sau khi cụ T10 chết thì cụ T11 tiếp tục quản lý
sử dụng đến năm 1995 giao lại cho ông T1 quản lý sau đó ông T1 giao lại cho
anh T3 quản lý, sử dụng để lo giỗ chạp cho ông, bà không phải là tài sản chung
của ông T1 và bà P nên không được quyền chia. Về quan hệ hôn nhân, con
chung và nợ chung của ông T1 và bà P thì anh T3 không có ý kiến, đề nghị Tòa
án giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Xuân D, chị Trần
Thị Giang T5, anh Phan Tấn D1, chị Phan Thị Y, chị Nguyễn Thị T6 do ông
Trần Trung T1 là người đại diện theo uỷ quyền trình bày: Bà và các anh, chị
không đồng ý với yêu cầu chia tài sản chung của bà P đối với thửa 816 vì thửa
đất này có nguồn gốc là của ông bà lưu hạ cho ông T1, ông T1 giao lại cho anh
Trần Anh T3 quản lý, sử dụng để lo thờ cúng không được chia và bán, vì đây
không phải là tài sản chung của ông T1 và bà P.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Phạm Thị Ngọc H do ông
Trần Trung T1 là người đại diện theo uỷ quyền trình bày: Chị H và anh Trần
Anh T3 kết hôn vào năm 2017 và sinh sống trên thửa 816; chị H không có tranh
chấp và cũng không có công sức tôn tạo hay xây dựng bất cứ công trình nào trên
các thửa đất đang có tranh chấp.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan UBND huyện B trình bày:
Nguồn gốc thửa 816 là do ông, bà lưu hạ lại cho cha mẹ ông Trần Trung T1 là
cụ Trần Xuân T10 và cụ Đinh Thị Trịnh . Năm 1978, ông T1 có vợ là bà Vương
Thị T8, sau khi bà T8 chết, ông T1 có vợ là bà Trần Thị P. Năm 1994, mẹ ông
T1 giao lại thửa 816 cho ông T1 sử dụng. Quá trình sử dụng bà Trần Thị P tự
đăng ký kê khai và được cấp GCNQSDĐ đối với thửa 816. Thửa 816 được
UBND huyện B cấp GCQNSDĐ cho hộ ông Trần Trung T1 ngày 14/5/2004, số
vào sổ cấp GCNQSDĐ số 04271 QSDĐ/543/2004/QĐ-UB(H). Thửa 816 mặc
dù GCNQSDĐ cấp cho hộ gia đình nhưng thực tế đất do ông, bà lưu hạ lại;
không cấp theo Nghị định 64/CP.
* Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
chia tài sản chung là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với thửa 816 như
8
nguyên đơn (bà Trần Thị P) đã trình bày. Trường hợp không có căn cứ xác định
diện tích đất vườn là tài sản chung của hộ theo Nghị định 64/CP thì nguyên đơn
yêu cầu các đồng thừa kế của cụ T10, cụ T11 thanh toán cho nguyên đơn một
phần công sức bằng một phần giá trị quyền sử dụng đất thửa 816 là 80.000.000
đồng. Đối với một phần nội dung chia tài sản chung và phần nợ chung nguyên
đơn đã rút yêu cầu khởi kiện, đề nghị đình chỉ xét xử.
[2] Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm sơ thẩm số 09/2024/HNGĐ-ST
ngày 23-12-2025 (và Quyết định sửa chữa bổ sung số 01/2025/QĐ-SCBSBA
ngày 13-01-2025) của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 34, 37, 144, 147, 157, 158, 165, 217,
227, 228, Điều 235, Điều 244, 266, 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 và Điều
280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 100, Điều 166, Điều 203 của
Luật đất đai năm 2013; các Điều 89, 91, khoản 3 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000; Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản
3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc Hội, điểm d mục
2 Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày
03/01/2001; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu ly hôn của ông Trần Trung T1 đối với
bà Trần Thị P.
2. Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị P được ly hôn với ông Trần Trung
T1.
3. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện về chia tài sản chung của
bà Trần Thị P đối với các yêu cầu: Yêu cầu chia tài sản chung đối với: Thửa đất
số 728, tờ bản đồ số 41 xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi và tài sản (cây trồng)
gắn liền với đất; thửa đất số 775, thửa đất số 717 và thửa đất số 762 cùng tờ bản
đồ số 41 xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; các thửa đất số 902, tờ bản đồ số 40,
xã B; thửa đất số 931, thửa đất số 987; thửa đất số 834, thửa đất số 996 cùng tờ
bản đồ số 41, xã B; thửa đất số 907, thửa đất số 929 cùng tờ bản đồ số 30, xã B;
thửa đất số 18, tờ bản đồ số 54, xã B.
4. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị P đối với
yêu cầu chia giá trị ngôi nhà cấp 4, giếng đào, cây rơm, chuồng gà, chuồng bò
trên thửa đất 816, tờ bản đồ số 41, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi. Đình chỉ xét
xử một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị P về yêu cầu giải quyết nợ
chung đối với Ngân hàng N.
9
5. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị P về việc chia cho
bà diện tích là 157,06m
2
đất vườn thuộc một phần thửa đất 816, tờ bản đồ số 41,
xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi.
6. Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự ông Trần Trung T1, bà Trần
Thị P về việc ông T1 được quyền quản lý, sử dụng tài sản chung là vật kiến trúc,
cây trồng trên thửa đất số 816, tờ bản đồ số 41, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi
gồm (kho diện tích 7,6m
2
, sân phơi xi măng diện tích 136,1m
2
, nhà vệ sinh diện
tích 4,2m
2
, mái hiên diện tích 7m
2
, mái tạm diện tích 6,5m
2
, tường rào, cổng ngõ
và cây cối trên đất) và có nghĩa vụ thanh toán lại cho bà P giá trị là 15.000.000
đồng (Mười lăm triệu đồng).
7. Buộc ông Trần Trung T1 trích trả giá trị công sức cho bà Trần Thị P số
tiền là 78.245.030 đồng (Bảy mươi tám triệu, hai trăm bốn mươi lăm nghìn,
không trăm ba mươi đồng).
Sau này nếu có tranh chấp thừa kế liên quan đến thửa đất số 816, tờ bản
đồ số 41, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi, các đồng thừa kế phải thanh toán lại
cho ông Trần Trung T1 số tiền công sức.
8. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp Giấy chứng
nhận 04271 QSDĐ/543/2004/QĐ-UB (H) thửa đất số 816, tờ bản đồ số 41, xã
B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi do Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày 14/5/2004 cho hộ ông Trần Trung T1.
Sau khi ông Trần Trung T1 thực hiện xong nghĩa vụ nêu trên, bà P có
trách nhiệm giao lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 816 cho ông Trần
Trung T1 để gia đình ông T1 thực hiện việc đăng ký cấp Giấy chứng nhận theo
quy định pháp luật.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[3] Kháng cáo
Ngày 17-01-2025 và ngày 22-01-2025 bị đơn ông Trần Trung T1 có đơn
kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, về phần nội dung ông không đồng ý bản án
sơ thẩm buộc ông phải thối trả giá trị công sức cho bà Trần Thị P 78.245.030
đồng. Nêu lý do kháng cáo là hiện nay đã già yếu, trên 70 tuổi, sức khoẻ kém
không thể làm ra tiền nên không có gì để thối trả.
[4] Tại phiên toà phúc thẩm:
Người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo, đề nghị không chấp nhận việc
ông T1 phải thối trả 10% công sức tài sản là 78.245.030 đồng. Trình bày ý kiến
là Toà án cấp sơ thẩm không căn cứ vào quy định nào để buộc ông T1 phải thối
10
trả 10% công sức, trong khi toàn bộ tài sản đất đai, là của bên gia đình ông để
lại, bà P không có công sức gì. Đề nghị sửa bản án sơ thẩm tại mục 7 củ phần
quyết định buộc ông T1 thối trả công sức 10%; các phần khác ông không kháng
cáo.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
Về tố tụng: việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét
xử và các bên đương sự đều được đảm bảo, phù hợp với các quy định của pháp
luật.
Về nội dung kháng cáo: khi vợ chồng bà Trần Thị P và ông Trần Trung
T1 lý hôn thì bà P không nhận được tài sản nào, trong khi bà P sinh sống tạo lập
gia đình cùng ông T1 trên thửa đất 816 hơn 30 năm nay. Bản án sơ thẩm trích
10% công sưac là phù hợp, đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản
án dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa,
căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về xác định quan hệ tranh chấp:
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định quan hệ
tranh chấp về việc “Ly hôn, chia tài sản khi ly hôn, nợ chung” và đã tiến hành
giả quyết toàn bộ các yêu cầu của đương sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đã rút nhiều yêu cầu khởi
kiện và Toà án án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết yêu cầu đã rút đó, không
đương sự nào kháng cáo về các phần đình chỉ này.
[2] Đối với yêu cầu xin ly hôn:
Bà P và ông T1 không có đăng ký kết hôn nhưng có tổ chức đám cưới,
sống chung như vợ chồng vào khoảng tháng 09/1986. Như vậy, ông bà được
công nhận là hôn nhân hợp pháp từ thời điểm chung sống theo điểm a khoản 3
Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của kỳ họp thứ 7 Quốc hội Khóa X
về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, điểm d mục 2 Thông tư liên tịch số
01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001; nay xin ly hôn thì
giải quyết theo yêu cầu ly hôn theo quy định luật hôn nhân và gia đình năm
2014. Ông T1 và bà P đều thừa nhận đã ly thân từ năm 2017 đến nay, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bản án sơ
11
thẩm đã chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trần Thị P được ly hôn với ông
Trần Trung T1 theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình năm
2014.
[3] Về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với thửa đất 816:
Về biến động thửa 816, theo bản đồ 299/TTg lập năm 1986 là thửa đất số
258, tờ bản đồ số 12 (bản đồ đo vẽ theo Chỉ thị 299/TTg), diện tích 1.288m
2
loại
đất T (viết tắt là thửa 258). Theo sổ mục kê ruộng đất do UBND xã B lập năm
1987 thửa 258 ông T1 đứng tên kê khai.
Bà Trần Thị P thừa nhận thửa 816 nguồn gốc của ông bà lưu hạ cho cụ
T10, cụ T11 để lại cùng với các thửa đất khác là thửa 728, 717, 775, 762, khi bà
về làm dâu đã có ngôi nhà gắn liền trên thửa 816 và bà ở chung với các cụ. Bà P
cho rằng thửa 816 trong đó có diện tích đất vườn theo thực tế đo đạc là 785,3m
2
được cân đối theo Nghị định 64/CP cho hộ gia đình bà có quyền lợi của bà (Trần
Thị P) và các thành viên là ông Trần Trung T1, Trần Anh T3, Trần Thị Giang
T5, Trần Thị T2 nên bà phải được chia 1/5 quyền sử dụng đất vườn là 157,06m
2
.
Tuy nhiên, theo lời khai bà P thừa nhận: Bà là người đi đăng ký kê khai và được
cấp giấy chứng nhận đối với 02 thửa đất số 816 là do ông T1 đi làm ăn xa,
không có nhà nên bà là người đăng ký kê khai để được cấp GCNQSDĐ, khi bà
đi đăng ký kê khai thì ông T1 không biết, đến năm 2017 khi vay vốn tại ngân
hàng nông nghiệp thì ông T1 mới biết nhưng không có ý kiến gì. Chữ ký Trần
Trung T1 tại đơn xin đăng ký cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất 816 và các thửa
đất nông nghiệp đề ngày 20 tháng 6 năm 2003 là do bà ký.
Tại biên bản làm việc ngày 29/6/2022 giữa Tòa án với UBND xã B thể
hiện: Tại thời điểm cấp GCNQSDĐ đối với thửa 816, thì tại thời điểm đó là kê
khai, cấp đại trà, chỉ lấy ý kiến khu dân cư, không lấy ý kiến đối với những
người thuộc hàng thừa kế của cha mẹ ông Trần Trung T1. Hai thửa đất trên có
nguồn gốc ông, bà lưu hạ cho cha mẹ ông Trần Trung T1 để lại, thửa 258 (nay
là 816) là đất nhà ở và đất vườn, kê khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, không phải đất cân đối theo Nghị định 64/CP.
Như vậy, thửa đất 816 có vườn và nhà là của ông bà lưu hạ lại (cho cụ
Trần Xuân T10, cụ Đinh Thị T11), hai cụ chết không để lại di chúc, thửa đất
chưa được phân chia di sản thừa kế, không có văn bản thỏa thuận của các đồng
thừa kế của cụ T10, cụ T11 giao quyền sử dụng nhà đất thửa 816 cho ông T1, bà
P nhưng năm 2003 bà Trần Thị P đi kê khai nộp đơn xin đăng ký quyền sử dụng
đất thửa 816 và được UBND huyện B cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Trần Trung
T1 là không đúng đối tượng theo quy định pháp luật đất đai. Mặt khác, thửa đất
816 tại GCNQSDĐ, đất vườn không cân đối theo Nghị định 64/CP cho 05 thành
12
viên trong hộ như bà P trình bày được thể hiện tại cung cấp thông tin tài liệu
chứng cứ của UBND huyện B, UBND xã B.
Từ các nhận định trên, Toà án cấp sơ thẩm xác định thửa 816 không phải
là tài sản chung của ông T1, bà P, đồng thời không phải tài sản chung của các
thành viên trong hộ như bà P trình bày nên HĐXX sơ thẩm không có căn cứ
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P về việc chia cho bà 157,06m
2
đất vườn
thuộc một phần thửa đất 816 bằng hiện vật. Về nội dung này bà P không có
kháng cáo.
[4] Đối với yêu cầu chia tài sản chung (vật kiến trúc, cây trồng trên
thửa đất 816) của bà Trần Thị P:
Bà Phúc trình bày bà và ông T1 có tài sản chung gồm: kho diện tích
7,6m
2
, sân phơi xi măng diện tích 136,1m
2
, nhà vệ sinh diện tích 4,2m
2
, mái
hiên diện tích 7m
2
, mái tạm diện tích 6,5m
2
, tường rào, cổng ngõ và cây cối trên
đất (được mô tả tại sơ đồ địa chính thửa đất) có giá trị là 31.193.206 đồng. Bà
yêu cầu chia tài sản chung cho bà được hưởng là ½ giá trị tài sản với số tiền
15.000.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Trần Trung T1 là bị đơn đồng thời
là đại diện theo ủy quyền của các đồng thừa kế là con, cháu của cụ T10, cụ T11
đồng ý các vật kiến trúc, cây trồng gắn liền với thửa 816 (trừ ngôi nhà cấp 4,
giếng đào, cây rơm, chuồng gà, chuồng bò) là tài sản chung của ông T1, bà P
được phép tồn tại trên thửa đất và ông T1 đồng ý được nhận quản lý, sở hữu các
tài sản nêu trên và thanh toán giá trị cho bà P số tiền 15.000.000 đồng, bà P
đồng ý nhận. Xét, việc thỏa thuận giữa các bên đương sự là tự nguyện, phù hợp
quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự thỏa thuận nêu trên giữa
ông T1, bà P.
[6] Xem xét về công sức của bà P đối với quá trình sử dụng, đăng
ký kê khai làm tăng giá trị đất thửa 816:
Bà P có yêu cầu phải chia cho bà một phần công sức là 80.000.000 đồng
là công giữ gìn, bảo quản, sử dụng, đăng ký kê khai làm tăng giá trị quyền sử
dụng thửa đất 816, nuôi các con ăn học, chăm lo cuộc sống gia đình, sửa chữa
nhà, thờ cúng ông bà của phía họ nhà chồng kể từ khi bà về làm dâu năm 1986
đến năm 2017. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông T1 là bị đơn đồng thời là đại diện
theo ủy quyền của các đồng thừa kế là con, cháu của cụ T10, cụ T11 đồng ý ông
T1 đại diện trích cho bà P một phần công sức với số tiền 30.000.000 đồng,
nhưng bà P cho rằng số tiền thấp, không phù hợp, bà hiện nay đã già yếu không
còn khả năng lao động, thường xuyên ốm đau.
Xét thấy bà P về làm dâu và chung sống với ông Trần Trung T1 trên thửa
đất 816 từ năm 1986 đến năm 2017 là 31 năm đã có công bảo quản, giữ gìn, tôn
tạo và hoàn cảnh hiện nay theo xác nhận của địa phương bà P không có nơi ở,
13
không có thửa đất ở nào khác, mà về sống chung với con gái là chị Trần Thị T2.
Khi ly hôn thì bà P cũng không được nhận tài sản quyền sử dụng đất nào, nên
Toà án cấp sơ thẩm trích công sức và hỗ trợ một khoản tiền cho bà P để tạo điều
kiện cho bà P khi tuổi đã cao, trang trải cho cuộc sống có nơi ở mới là 10% giá
trị quyền sử dụng thửa đất 816 theo chứng thư thẩm định giá là 78.245.030 đồng
(782.450.300 đồng x 10%) là hợp lý. Do đó kháng cáo của ông T1 không được
chấp nhận. Hội đồng xét xử sơ thẩm giữ nguyên bản án Hôn nhân gia đình sơ
thẩm.
[7] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị nên không xem xét, có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị. Ông Trần Trung T1 là người cao tuổi nên được miễn án
phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không
chấp nhận kháng cáo của ông Trần Trung T1, giữ nguyên Bản án hôn nhân gia
đình sơ thẩm số 09/2024/HNGĐ-ST ngày 23-12-2025 của Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm ông Trần Trung T1 được miễn nộp
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSND cấp cao Đà Nẵng
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Cục THADS tỉnh Quảng Ngãi;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Tấn Long
14
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 18/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 09/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 05/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm