Bản án số 29/2024/DS-PT ngày 29/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 29/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 29/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 29/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 29/2024/DS-PT ngày 29/09/2024 của TAND tỉnh Lào Cai về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lào Cai |
Số hiệu: | 29/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp kiện đòi tài sản giữa anh Lê Ngọc K và bà Lý Thị T1 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÀO CAI
Bản án số: 29/2024/DS-PT
Ngày 29-9-2024
V/v “Kiện đòi tài sản”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Văn Nghĩa
Các hội thẩm nhân dân: 1. Ông Phạm Ngọc Toàn
2. Ông Chu Văn Thanh
- Thư ký phiên toà: Bà Lương Kim Ngân - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai tham gia phiên toà: Bà
Đoàn Quỳnh Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 19/2024/TLPT-DS ngày 25/7/2024 về việc
“Kiện đòi tài sản”. Do bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2024/DS-ST Ngày
24/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố L bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1359/2024/QĐ-PT ngày
23/8/2024, Quyết định hoãn phiên toà số: 1527/2024/QĐST-DS ngày 09 tháng 9
năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Anh Lê Ngọc K - Địa chỉ: Tổ 15 phường Nam C, thành
phố L, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Quốc H- Địa chỉ: Số nhà
037 đường Hoàng Trường Minh, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Vắng
mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn:
2.1. Bà Lý Thị T1- Địa chỉ: Số nhà 014 đường N, phường B, thành phố L, tỉnh
Lào Cai. Có mặt.
2.2. Ông Hoàng Ngọc C - Địa chỉ: Số nhà 014 đường N, phường B, thành phố L,
tỉnh Lào Cai. Vắng mặt phiên tòa lần thứ 2, không có lý do.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Tô Thị Tuyết N - Địa chỉ: Tổ 20 phường K, thành phố L, tỉnh
Lào Cai. Người đại diện theo uỷ quyền của bà N: Ông Nguyễn Quốc H- Địa
chỉ: Số nhà 037 đường H, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt,
có đơn xin xét xử vắng mặt.
3.2. Bà Nguyễn Thị T2 - Địa chỉ: Tổ 11 phường Bắc Lệnh, thành phố L,
tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền của bà Nguyễn Thị T2: Ông Nguyễn Văn Đ -
Địa chỉ: Số nhà 051 đường Lý Đạo Thành, phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai. Có
mặt.
2
3.3. Chị Vũ Khánh L - Số nhà 014 đường N, phường B, thành phố L, tỉnh
Lào Cai. Có mặt.
4. Người kháng cáo: Bị đơn Bà Lý Thị T1
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án nguyên
đơn, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Do có nhu cầu về nhà ở và được biết bà Nguyễn Thị T2 có nhu cầu chuyển
nhượng đất và nhà ở nên anh Lê Ngọc K đã liên hệ với bà T1 để xem nhà đất và
thỏa thuận việc chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng. Sau khi xem xét anh K
và bà Nguyễn Thị T2 thống nhất giá trị chuyển nhượng đối với thửa đất tại: Lô
số 7, TĐC 2, đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai diện tích
108,75m2, trên đất có 01 ngôi nhà xây cấp 4 chưa được cấp quyền sở hữu nhà trị
giá 3.000.000.000 đồng (Ba tỷ đồng). Việc chuyển nhượng giữa anh K và bà
Nguyễn Thị T2 được lập thành Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất ngày 18 tháng 4 năm 2023 tại Văn phòng công chứng Lê
Văn Hạnh, Số công chứng: 268, quyển số 01/2023 TP/CC-SCC/HĐCN. Sau khi
làm thủ tục chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật
anh K đã làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng theo trình tự và ngày 20 tháng 4
năm 2023 đã được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số DL
408696 vào sổ cấp GCN: CS 07607 mang tên ông Lê Ngọc K. Về phần bà
Nguyễn Thị T2, do chưa có nhu cầu về nhà ở nên bà T1 đã cho ông Hoàng Ngọc
C sinh năm 1963 ở nhờ từ trước khi chuyển nhượng nhà cho anh Lê Ngọc K, khi
thỏa thuận chuyển nhượng anh K có yêu cầu đối với bà T1 là: Sau khi nhận
chuyển nhượng và khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà T1 phải yêu
cầu ông C dọn đồ đạc và chuyển ra chỗ ở khác để trả nhà cho anh K, bà T1 cam
kết khi hoàn tất thủ tục được cấp Giấy chứng nhận thì ông C sẽ tự nguyện
chuyển đi nên anh K hoàn toàn tin tưởng nên không yêu cầu bàn giao nhà ngay.
Về việc có lập biên bản bàn giao nhà: Do có sự tin tưởng nhau trong quá trình
chuyển nhượng và nhận chuyển nhượng nên giữa anh K và bà T1 không làm
Biên bản bàn giao nhà mà thống nhất bàn giao bằng miệng. Bản thân bà T1 cũng
cam kết sẽ yêu cầu ông C cùng các thành viên trong gia đình đang ở (nếu có)
chuyển đồ đạc để trả lại nhà cho anh K. Tuy nhiên, sau khi được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, anh K đã yêu cầu bà T1 làm thủ tục bàn giao nhà theo
thỏa thuận và yêu cầu ông Hoàng Ngọc C di chuyển đồ đạc để gia đình anh K
chuyển đến ở thì ông Hoàng Ngọc C cố tình trốn tránh không dọn đồ đạc để trả
nhà cho anh Lê Ngọc K. Sau nhiều ngày đòi nhưng ông C không thực hiện nghĩa
vụ của mình, ngày 03 tháng 5 năm 2023 anh Lê Ngọc K đã gửi Thông báo yêu
cầu ông Hoàng Ngọc C trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được Thông báo
phải tự động chuyển toàn bộ đồ đạc của ông C ra khỏi ngôi nhà số 014, đường
N, phường B, thành phố L để trả nhà cho anh K, đến nay dù đã quá thời hạn trên
nhưng ông C vẫn không dọn đồ đạc để trả nhà cho anh K. Vì vậy Anh Lê Ngọc
K khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết buộc ông Hoàng Ngọc C và vợ là bà Lý Thị
T1phải trả lại ngôi nhà tại địa chỉ: Số 014 đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào
3
Cai cho ông Lê Ngọc K. Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện nguyên đơn bổ sung yêu cầu
khởi kiện đề nghị Toà án giải quyết buộc bà Lý Thị T1phải trả lại nhà và đất tại địa
chỉ: Số 014 đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai cho ông Lê Ngọc K theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với
đất số DL 408696 vào sổ cấp GCN: CS 07607 do Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Lào Cai cấp ngày 20/4/2023 mang tên ông Lê Ngọc K. Rút yêu cầu khởi
kiện đối với ông Hoàng Ngọc C.
Tại bản tự khai bị đơn ông Hoàng Ngọc C trình bày: Về nhà và đất tại số nhà
014, đường N, phường B, thành phố L trước đây là tài sản riêng của vợ ông Hoàng
Ngọc C là bà Lý Thị T1, ông C và bà T1 cùng sinh sống tại đây từ năm 2018 đến
năm 2022, sau đó ông C không ở nhà đó nữa. Vì nhà và đất là tài sản riêng của bà Lý
Thị T1lên bà T1 chuyển nhượng mua bán cho ai ông C không biết, không liên quan,
từ năm 2022 ông C đã chuyển về sinh sống cùng con gái tại tổ 21, phường B. Nhà và
đất không phải tài sản của ông C, ông C không ở, không chiếm giữ, không giữ chìa
khóa nhà. Đề nghị Tòa án liên hệ với bà T1 để giải quyết.
Bị đơn bà Lý Thị T1: Tại đơn đề ngày 11/3/2024 bà T1 đề nghị Tòa án
tuyên hủy đơn khởi kiện vụ án dân sự đòi nhà của ông Lê Ngọc K vi phạm điều
cấm của luật, trái đạo đức xã hội, vi phạm vào điều 156 Bộ luật hình sự năm
2015; Yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất ngày 18/4/2023 được giao kết giữa bà Nguyễn Thị T2 và ông Lê
Ngọc K, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DL 408696, số vào sổ cấp
GCN: CS 07607, ngày 20/04/2023 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh Lào Cai
cấp cho ông Lê Ngọc K vi phạm điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 vì lý do: Bà
Nguyễn Thị T2 lừa bán cho ông Lê Ngọc K 108,75m
2
đất và tài sản trên đất là
ngôi nhà xây 3 tầng của bà T1 tại địa chỉ Lô số 7, TĐC 2, đường N, phường B.
Ngôi nhà xây 3 tầng bà Lý Thị T1từ đầu năm 2018, bà T1 vẫn quản lý, sử dụng
liên tục đến nay. Đó là hành vi vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
được quy định tại Điểm c, khoản 1, Điều 117 bộ luật dân sự 2015 và còn vi
phạm vào Điều 156, Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015, về hành vi lạm dụng
tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản và hành vi vu khống cho vợ chồng bà Lý Thị
T1chiếm hữu trái pháp luật nhà của ông K mua của bà Nguyễn Thị T2, được
chứng minh tại các đơn của ông Lê Ngọc K khởi kiện vụ án dân sự (đòi nhà)
ngày 03/9/2023, ngày 10/10/2023 và thông báo của ông Khánh ngày 03/9/2023,
yêu cầu vợ chồng bà Lý Thị T1 trả nhà, cũng như bản tự khai ngày 06/7/2023 và
ngày 20/11/2023 với các nội dung: “Vợ chồng ông K, bà N nhận chuyển
nhượng ngôi nhà xây cấp 4, chưa được cấp quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng
đất của bà Nguyễn Thị T2 với giá 3.000.000.000 đồng. Do khi nhận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất nêu trên, bà Nguyễn Thị
T2 nói không có nhu cầu nên cho ông Hoàng Ngọc C, bà Lý Thị T1 ở nhờ trước
khi chuyển nhượng cho ông K . Bà Nguyễn Thị T2 còn cam kết với ông K khi
hoàn tất thủ tục sang tên quyền sử dụng đất nêu trên cho ông K thì ông C và bà
Lý Thị T1 sẽ tự nguyện chuyển đi nên ông K đã tin tưởng lới hứa của bà
Nguyễn Thị T2 là sự thật mà không yêu cầu bà Nguyễn Thị T2 giao nhà ngay.
Sau khi ông K hoàn tất thủ tục sang tên quyền sử dụng đất, ông K và bà Nguyễn
4
Thị T2 tiếp tục bàn giao nhà cho nhau”, trên lời nói hoặc trên giấy tờ, thực tế
đều không có nhà để giao cho nhau.
Ngày 03/9/2023, ông K thông báo yêu cầu vợ chồng bà Lý Thị T1di
chuyển đồ đạc ra khỏi nhà để gia đình ông K chuyển đến ở. Gia đình bà Lý Thị
T1không được bán nhà cho ông K và cũng không ở nhờ nhà bà Nguyễn Thị T2
nên không có nghĩa vụ trả nhà cho ông K . Ông K vu khống cho ông C, bà T1
cố tình trốn tránh không dọn đi để trả nhà cho ông K là hành vi vu khống được
quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 2015.
Ông Lê Ngọc K nhẹ dạ cả tin bà Nguyễn Thị T2 lừa là cho chúng tôi ở nhờ
vì bà Nguyễn Thị T2 không có nhu cầu ở. Bà Nguyễn Thị T2 không có loại giấy
tờ Hợp đồng thuê nhà, không có hợp đồng ở nhờ, mượn nhà mà ông K giám vu
khống, phát tán đơn khởi kiện vụ án dân sự đòi nhà, cho là vợ chồng bà Lý Thị
T1chiếm hữu nhà của bà Nguyễn Thị T2 bán cho ông K . Ông Lê Ngọc K mua
nhà của bà Nguyễn Thị T2 ở đâu thì ông K làm đơn khởi kiện vụ án dân sự (đòi
nhà) yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố L giải quyết, buộc bà Nguyễn Thị T2
trả nhà. Nếu ông K cố ý yêu cầu vợ chồng bà Lý Thị T1trả nhà số 014, đường
N, phường B, thành phố L thì ông Lê Ngọc K và bà Nguyễn Thị T2 phải trực
tiếp đến gặp con gái chúng tôi là Vũ K L và chúng tôi để bàn bạc, thương
lượng, thỏa thuận về việc hai người đã trót mua bán cho nhau nhà của con gái
chúng tôi.
Nhà bà Nguyễn Thị T2 bán cho ông K là nhà của con gái tôi Vũ Khánh L .
Ngày 27/12/2021, Vũ Khánh L làm hợp đồng chuyển nhượng nhờ bà Nguyễn
Thị T2 - Chị em kết nghĩa với bà Lý Thị T1 để đứng tên làm thủ tục vay ngân
hàng cho bà T1 kinh doanh. Con gái Vũ Khánh L chưa bán thật cho bà Nguyễn
Thị T2, các hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất; Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất tại ngân hàng, đã chứng minh
bà Nguyễn Thị T2 không đủ điều kiện để bán ngôi nhà số 014, đường N,
phường B, thành phố L của con gái tôi là Vũ Khánh L cho ông Lê Ngọc K.
Hành vi cố ý bán nhà của bà Nguyễn Thị T2 đã vi phạm vào điều cấm của luật,
trái đạo đức xã hội được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 117 Bộ luật dân sự
năm 2015 và vi phạm Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị T2 trình bày:
Do có mối quan hệ bạn bè thân thiết giữa bà Nguyễn Thị T2 và bà Lý Thị T1là
mẹ đẻ của chị Vũ Khánh L , thời gian cuối năm 2021, do làm ăn thua lỗ nên chị Vũ
Khánh L thế chấp tài sản là Quyền sử dụng đất mang tên người sử dụng đất là chị Vũ
Khánh L tại Ngân hàng BIDV Sa Pa nhưng không có tiền trả gốc và lãi nên bị nợ
xấu và Ngân hàng BIDV nhiều lần yêu cầu trả nợ nhưng chị L không có tiền trả nợ
đã giao bán nhà với giá 3.000.000.000 ĐVN (ba tỷ đồng chẵn), thuế và lệ phí do chị
L chịu, lúc đó bà Nguyễn Thị T2 tiết kiệm được một khoản tiền và vay thêm tiền
của bạn bè, người thân nên đã đồng ý mua ngôi nhà và QSDĐ cùng tài sản thiết bị
trong nhà của chị L . Khi thỏa thuận mua nhà thì bà Nguyễn Thị T2 và chị L thống
nhất sau khi ký kết hợp đồng, chị L giao lại cho bà Nguyễn Thị T2 toàn bộ ngôi nhà
5
xây 3 tầng khép kín, đã hoàn thiện và đang sử dụng và các tài sản gắn liền là thiết bị
vệ sinh, điều hòa, nóng lạnh...Khi thống nhất về giá, phương thức thanh toán và bàn
giao nhà thì chị L tự vay tiền trả vào ngân hàng để lấy giấy chứng nhận QSDĐ và
xóa thế chấp thì hai bên đến phòng công chứng số 1 để ký kết hợp đồng chuyển
nhượng, tại phòng công chứng chị L và bà Nguyễn Thị T2 thỏa thuận mặc dù giá
mua bán thực tế là 3.000.000.000 đồng nhưng chỉ ghi giá trị chuyển nhượng trong
hợp đồng là 1.100.000.000 đồng; Theo thỏa thuận tại hợp đồng thì bên A có trách
nhiệm giao đất và tài sản gắn liền với đất cho bên B, sau khi ký kết hợp đồng và
công chứng, bà Nguyễn Thị T2 phải làm thủ tục vay tiền ở ngân hàng Vietinbank để
trả cho L , sau khi vay tiền L bảo bà Nguyễn Thị T2 chuyển số tiền thanh toán tiền
mua nhà váo số tài khoản 37510000331933 tại ngân hàng BIDV tên tài khoản
Hoàng Mai Hương và tài khoản số: 0951004199366 tại ngân hàng Vietcombank tên
tài khoản Vũ Thị Lương nên ngân hàng Vietinbank đã giải ngân khoản vay của bà
Nguyễn Thị T2 vào 2 số tài khoản nêu trên. Sau đó chị L và bà Nguyễn Thị T2 tiến
hành giao nhận nhà, đất và các tài sản, thiết bị trong nhà theo đúng hiện trạng (Việc
giao nhận chỉ thực hiện trên thực tế và không lập thành biên bản). Vì chưa có nhu
cầu ở nên sau khi xem nhà, bàn giao tài sản thì ông Hoàng Ngọc C là chồng bà Lý
Thị T1(Bà Lý Thị T1là mẹ đẻ của Vũ Khánh L ) nên ông bà có nói với bà Nguyễn
Thị T2 cho vợ chồng ông bà ở nhờ, khi nào bà T1 cần thì ông C, bà T1 phải dọn đi
để trả lại nhà cho bà Nguyễn Thị T2. Thời gian sau, vì không có tiền trả nợ khoản
vay mua nhà nên ngày 20/04/2023 vợ chồng bà Nguyễn Thị T2 đã chuyển nhượng
ngôi nhà và QSDĐ nêu trên cho anh Lê Ngọc K, chị Tô Thị Tuyết N. Trước khi
chuyển nhượng nhà và đất cho vợ chồng anh K, chị Nguyễn Thị T2 đã yêu cầu ông
C, và bà Lý Thị T1dọn đồ đạc cá nhân ra khỏi nhà để bà bán nhà, ông C, và bà Lý
Thị T1đồng ý và hứa khi nào bên mua đến nhận nhà thì ông bà sẽ giao lại đầy đủ.
Tuy nhiên sau khi bà Nguyễn Thị T2 chuyển nhượng nhà và QSDĐ nêu trên thì ông
Hoàng Ngọc C, bà Lý Thị T1cố tình trốn tránh không dọn đi để trả nhà cho vợ chồng
anh K nên anh K làm đơn khởi kiện đề nghị Toà án nhân dân thành phố L thụ lý giải
quyết buộc ông Hoàng Ngọc C cùng vợ là bà Lý Thị T1phải trả ngôi nhà tại địa chỉ:
Số nhà 014, đường N, phường B, thành phố L cho vợ chồng anh. Vì bà Nguyễn Thị
T2 là người đã chuyển nhượng ngôi nhà và QSDĐ nêu trên cho vợ chồng anh K
nhưng vì lý do trước khi chuyển nhượng bà Nguyễn Thị T2 đã cho vợ chồng ông C,
bà T1 ở nhờ nhưng ông bà C Thanh đã cố tình không bàn giao nhà dẫn đến anh K
phải khởi kiện ra tòa, vì vậy bà Nguyễn Thị T2 cũng phải có trách nhiệm phối hợp
giải quyết để buộc ông Hoàng Ngọc C, bà Lý Thị T1phải trả lại toàn bộ QSDĐ và
ngôi nhà cùng đầy đủ trang thiết bị cho vợ chồng anh K. Bà Nguyễn Thị T2 đề nghị
Toà án nhân dân thành phố L lý giải quyết buộc ông Hoàng Ngọc C, bà Lý Thị
T1phải trả lại toàn bộ QSDĐ và ngôi nhà cùng đầy đủ trang thiết bị cho vợ chồng
anh K đồng thời ông C, bà T1 phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng vì không hợp tác giải
quyết.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị
Tô Thị Tuyết N trình bày: Chị Tô Thị Tuyết N là vợ của anh Lê Ngọc K việc
anh Lê Ngọc K nhận chuyển nhượng nhà và đất từ bà Nguyễn Thị T2 chị N đều
biết. Chị N nhất trí yêu cầu khởi kiện của anh Lê Ngọc K đề nghị Tòa án giải
6
quyết buộc ông Hoàng Ngọc C và vợ là bà Lý Thị T1phải trả lại ngôi nhà tại địa chỉ:
Số 014 đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai cho ông Lê Ngọc K.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Vũ Khánh L : Tòa án cấp sơ
thẩm đã ra thông báo đưa chị Vũ Khánh L vào tham gia tố tụng với tư cách là
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và triệu tập đến phiên tòa nhưng chị L không
có quan điểm về việc giải quyết vụ án.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2024/DS-ST ngày 24/5/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố L đã Quyết định:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, khoản 1
Điều 39; Khoản 1 điều 147; Điều 217; Điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của
Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 164, Điều 166; Điều 500, 501, 502, 503 Bộ luật dân
sự năm 2015; Khoản 1 Điều 167, khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Ngọc K
Buộc bà Lý Thị T1phải trả lại toàn bộ nhà và đất tại địa chỉ số nhà số 014,
đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai cho ông Lê Ngọc K theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số
DL 408696 vào sổ cấp GCN: CS 07607 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Lào Cai cấp ngày 20/4/2023 mang tên ông Lê Ngọc K.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Ngọc K đối với ông Hoàng Ngọc C.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng
cáo cho các đương sự.
Ngày 06/06/2024, bị đơn bà Lý Thị T1kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ
thẩm số 13/2024/DS-ST Ngày 24/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố L yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết:
- Tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 13/2024/DS-ST ngày 24/5/2024 của
Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
- Tuyên hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất ngày 18/4/2023, giữa bà Nguyễn Thị T2 và ông Lê Ngọc K tại Văn
phòng công chứng Lê Văn Hạnh tỉnh Lào Cai, địa chỉ: Số 74, đường Quy Hóa,
phường K, thành phố L, tỉnh Lào Cai.
- Tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số: DL 408696, vào sổ cấp GCN: CS 07607 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai cấp ngày 20/4/2023 cho ông Lê Ngọc K.
- Tuyên thu hồi, trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CK 462039, vào sổ cấp GCN: CH
03588 cấp ngày 13/12/2017 cho bà Lý Thị T1
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn bà Lý Thị T1giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Vũ Khánh L trình bày: Việc
chị L thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất với bà Nguyễn Thị T2 là không có thực. Chị L và
7
bà Nguyễn Thị T2 làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa chỉ số 014, đường N, Phường
B, thành phố L, tỉnh Lào Cai là nhờ bà Nguyễn Thị T2 đứng tên hộ với mục đích
làm thủ tục vay ngân hàng. Đồng thời, chị L khẳng định chưa nhận được khoản
tiền nào của bà Nguyễn Thị T2, không có việc bàn giao tài sản, nhà cửa và các
thiết bị trong nhà giữa chị L và bà Nguyễn Thị T2. Thực tế việc Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
CK 462039, số vào sổ cấp GCN: CH 03588 do Ủy ban nhân dân thành phố L,
tỉnh Lào Cai cấp ngày 13/12/2017 cho chị Vũ Khánh L là do mẹ chị L là bà Lý
Thị T1nhờ chị L đứng tên hộ, bà Lý Thị T1vẫn giữ toàn quyền quyết định đối
với thửa đất trên.
Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
bà Nguyễn Thị T2 giữ nguyên ý kiến và yêu cầu của mình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai phát biểu ý kiến:
Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Hội đồng xét xử, thư ký tòa án đã thực
hiện đúng theo trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng
đều chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều
308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn bà Lý Thị T1, giữ nguyên toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số số 13/2024/DS-ST
ngày 24/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét,
đánh giá đầy đủ, toàn diện các chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định.
[1] Về hình thức đơn kháng cáo:
Ngày 06/6/2024, Tòa án nhân dân thành phố L nhận được đơn kháng cáo
của bà Lý Thị T1, xét thấy đơn kháng cáo có đầy đủ nội dung, nộp đúng thời
hạn theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/6/2024 Tòa án nhân dân thành phố L đã ra thông báo nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm và giao thông báo này cho bà Lý Thị T1. Trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm bà T1 phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và nộp biên lai thu tiền cho
Tòa án nhưng bà không nộp trong thời hạn nêu trên. Ngày 24/6/2024, Tòa án
nhân dân thành phố L đã ra Thông báo số 88/TB-TA về việc trả lại đơn kháng
cáo. Ngày 27/6/2024, bà Lý Thị T1 nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc
thẩm cho Tòa án như vậy là quá thời hạn theo quy định của pháp luật.
8
Ngày 19/7/2024, Tòa án nhân tỉnh Lào Cai ban hành Quyết định số:
1088/2024/QĐ-PT về việc chấp nhận kháng cáo quá hạn của bà Lý Thị T1. Do
vậy, kháng cáo của bị đơn bà Lý Thị T1được xem xét giải quyết.
[2] Về thủ tục tố tụng: Cấp sơ thẩm xác định quan hệ tranh chấp và đưa
người tham gia tố tụng đầy đủ và đúng quy định.
[3] Xét nguồn gốc nhà và đất:
Căn cứ vào bộ hồ sơ cấp đất gồm: Đơn xin giao đất ngày 30/11/2017
hộ Lý Thị T1; Biên bản tạm bàn giao đất tái định cư; Biên bản bàn giao đất
trên thực địa; Đơn đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; Quyết định về cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất; Quyết định về việc giao đất cho hộ Lý Thị T1số: 430 ngày
28/02/2017 của Ủy ban nhân dân thành phố L; Sơ đồ vị trí thửa đất; Tờ
trình số: 717 ngày 11/12/2017 của chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai
thành phố L; Tờ trình số: 698 ngày 12/12/2017 của phòng Tài nguyên và
môi trường thành phố L. Căn cứ vào bộ hồ sơ cấp đất xác định được bà Lý
Thị T1là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại địa chỉ Lô số 7, TĐC 2,
đường N, thành phố L, tỉnh Lào Cai.
Như vậy, nhà và đất nêu trên có nguồn gốc của bà Lý Thị T1, được Ủy
ban nhân dân thành phố L cấp GCNQSDĐ số CK 462039 ngày 13/12/2017, địa
chỉ: Lô số 7, TĐC 2, đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai.
[4] Xét kháng cáo của bị đơn bà Lý Thị T1:
[4.1] Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa bà Lý Thị T1và
chị Vũ Khánh L :
Căn cứ vào bộ hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở
và tài sản khác gắn liền với đất ngày 24/01/2018 gồm: Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Lý Thị T1và chị Vũ
Khánh L lập ngày 24/01/2018 tại văn phòng công chứng cam đường; Văn
bản tự xác nhận về tài sản; Thông báo về cập nhật, chỉnh lý hồ sơ địa chính;
Đơn đăng ký biến động đất đai kèm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang tên Lý Thị T1. Căn cứ vào bộ hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất này xác định được
quyền sử dụng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất trên đã được bà Lý Thị T1tặng cho con gái là Vũ Khánh L .
[4.2] Xét hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất giữa chị Vũ Khánh L và bà Nguyễn Thị T2 :
Căn cứ vào bộ hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất giữa chị Vũ Khánh L và bà Nguyễn Thị T2 ngày
27/12/2021 ; Văn bản thoả thuận xác nhận tài sản riêng; Đơn đăng ký biến
9
động đất đai, tài sản gắn liền với đất; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang tên Lý Thị T1có kèm trang bổ sung. Căn cứ vào bộ hồ sơ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất này xác định được
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên
đã được chị Vũ Khánh L chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất cho bà Nguyễn Thị T2.
Xét thấy, bà Ngyễn Thị Thanh và chị Vũ Khánh L thực hiện chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất đều được lập thành văn bản, được công chứng tại Phòng công chứng số
1 tỉnh Lào Cai. Tại thời điểm giao kết các bên đều có đủ năng lực hành vi
dân sự, việc giao kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc.
Đối tượng trong hợp đồng là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất
đều có nguồn gốc rõ ràng, được cấp GCNQSDĐ đúng quy định. Tại phiên
tòa, chị Vũ Khánh L thừa nhận chữ ký trong hợp đồng là do chị L trực tiếp
ký và có sự chứng kiến của bà Lý Thị T1và điều này cũng phù hợp với lời
khai của bà Nguyễn Thị T2. Việc chị L cho rằng chị ký vào hợp đồng
chuyển nhượng là do nhân viên ngân hàng dàn xếp nhưng chị L không cung
cấp được tài liệu, chứng cứ chứng minh nên không có cơ sở chấp nhận.
[4.3] Xét hợp đồng chuyền nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất giữa bà Nguyễn Thị T2 và anh Lê Ngọc K :
Căn cứ vào bộ hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản
gắn liền với đất gồm: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất ngày 18/4/2023 giữa bà Nguyễn Thị T2 và anh Lê Ngọc
K; Văn bản thoả thuận xác nhận tài sản riêng; Thông báo cập nhật, chỉnh lý
hồ sơ địa chính; Phiếu kiểm soát quá trình giải quyết hồ sơ, kèm giấy tiếp
nhận hồ sơ; Đơn đăng ký biến động đất đai, tài sản gắn liền đất đai; Tờ khai
thuế thu nhập cá nhân; Tờ khai thuế trước bạ + phiếu chuyển thông tin để
xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai; Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà
nước; Thông báo nộp tiền; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
Lý Thị T1được chỉnh lý chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị T2. Ngày
20/4/2023 ông Lê Ngọc K được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Lào Cai cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với
đất số DL 408696 vào sổ cấp GCN: CS 07607 mang tên ông Lê Ngọc K. Như
vậy Căn cứ vào bộ hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản gắn liền với đất xác định được quyền sử dụng, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất trên đã được bà Nguyễn Thị T2 chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho ông Lê Ngọc K.
Việc Bị đơn bà Lý Thị T1kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm tuyên
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất ngày 18/4/2023 giữa bà Nguyễn Thị T2 và ông Lê Ngọc K:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Lý Thị T1không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ nên không được chấp nhận.
10
Hội đồng xét xử xét thấy, tất cả các hồ sơ cấp đất, hồ sơ tặng cho, hồ
sơ chuyển nhượng cung cấp cho Tòa án là hồ sơ do Văn phòng đăng ký đất
đai tỉnh Lào Cai cung cấp. Việc cấp đất, chuyển nhượng đất đều được làm
đúng trình tự thủ tục quy định vì vậy các hồ sơ trên đều hợp pháp. Tuy
nhiên tại Hồ sơ tặng cho quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất giữa bà Lý Thị T1tặng cho chị Vũ Khánh L có ghi tài
sản gắn liền với đất là 01 căn nhà xây 03 tầng (chưa đăng ký quyền sở
hữu); Tại hợp đồng chuyển nhượng giữa chị Vũ Khánh L và bà Nguyễn Thị
T2 ghi sản gắn liền với đất 01 căn nhà xây cấp IV một tầng, một tum do
các bên tự kê khai chưa đăng ký quyền sở hữu; Tại hợp đồng chuyển
nhượng giữa bà Nguyễn Thị T2 và ông Lê Ngọc K ghi tài sản gắn liền với
đất 01 căn nhà xây cấp IV chưa đăng ký quyền sở hữu; Tại biên bản xem
xét thẩm định tại chỗ ngày 03/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố L,
tài sản trên đất là 01 nhà xây 03 tầng vì nhà là tài sản gắn liền với đất việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải gắn liền với tài sản, tài sản là nhà
chưa đăng ký quyền sở hữu khi làm hợp đồng các bên viết chưa chính xác.
Tuy nhiên việc này vẫn được chấp nhận là nhà và đất đã được chuyển
nhượng. Vì vậy đủ cơ sở để xác định tài sản là nhà và đất tại địa chỉ Số nhà
014 đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai (Lô số 7, TĐC 2, đường
N, thành phố L, tỉnh Lào Cai) thuộc quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất của ông Lê Ngọc K.
Việc bị đơn bà Lý Thị T1cho rằng nhà và đất là của con gái bà là chị Vũ
Khánh L chưa bán thật cho bà Nguyễn Thị T2, làm hợp đồng chuyển nhượng
nhờ bà Nguyễn Thị T2 để đứng hộ tên làm thủ tục vay ngân hàng, bà Nguyễn
Thị T2 không đủ điều kiện để bán ngôi nhà số 014, đường N, phường B, thành
phố L tuy nhiên bà Lý Thị T1không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh
là bà Nguyễn Thị T2 đứng tên hộ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn bà Lý Thị
T1cũng không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ nào chứng minh cho yêu cầu
của mình là có căn cứ pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ để
chấp nhận.
Đối với yêu cầu tuyên thu hồi, trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: CK 462039, vào sổ cấp
GCN: CH 03588 cấp ngày 13/12/2017 cho bà Lý Thị T1. Tại phiên tòa phúc
thẩm, bị đơn bà Lý Thị T1không cung cấp được tài liệu, chứng cứ chúng minh
cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ pháp luật. Vì vậy, Hội đồng xét xử
không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn.
Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đầy đủ,
khách quan và toàn diện các chứng cứ, tài liệu và lời khai của các đương sự,
người làm chứng trong vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định chấp nhận toàn bộ
yêu cầu khởi kiện nguyên đơn về việc: Buộc bà Lý Thị T1phải trả lại nhà và đất tại
địa chỉ: Số 014 đường N, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai cho ông Lê Ngọc K
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền
với đất số DL 408696 vào sổ cấp GCN: CS 07607 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Lào Cai cấp ngày 20/4/2023 mang tên ông Lê Ngọc K là có căn cứ
11
và đúng pháp luật.
Do vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm không có căn cứ chấp
nhận kháng cáo của bị đơn, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, Hội
đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo bị đơn
bà Lý Thị T1phải chịu tiền án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Lý Thị T1. Giữ nguyên toàn
bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2024/DS-ST Ngày 24/5/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố L, tỉnh Lào Cai.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Lý Thị T1phải chịu tiền án phí dân sự
phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm
ứng án phí do bà Lý Thị T1 đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí ký hiệu
BLTU/24P, số 0000558 ngày 11/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố L, tỉnh Lào Cai.
3. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,
7, 7a, và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lào Cai;
- TAND thành phố L;
- Chi cục THADS thành phố L;
- Các đương sự;
- Lưu VT, HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Nghĩa
Tải về
Bản án số 29/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 29/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 04/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 11/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 10/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm