Bản án số 251/2025/DS-PT ngày 27/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 251/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 251/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 251/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 251/2025/DS-PT ngày 27/05/2025 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 251/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 27/05/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn nhưng có sửa 1 phần bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 251/2025/DS-PT
Ngày: 27- 5 - 2025
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Phạm Thị Thu Trang
Các Thẩm phán:
Bà Lê Thị Thu Hương
Ông Nguyễn Hữu Lương
- Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Triệu Anh Thư - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Bà Nguyễn Thị Minh Phượng - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 5 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 02/2025/TLPT-DS ngày 02 tháng 01
năm 2025 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 156/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 379/2025/QĐXXPT-DS
ngày 03 tháng 02 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số
697/2025/QĐ-PT ngày 21 tháng 02 năm 2025, Quyết định tạm ngừng phiên tòa
số 1002/2025/QĐPT-DS ngày 18 tháng 3 năm 2025 và Thông báo về việc tiếp
tục phiên tòa số 1479/2025/TB-TA ngày 05 tháng 5 năm 2025, giữa:
1. Nguyên đơn:
Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1940; (có mặt)
Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Bùi Thị T1, sinh năm 1961; (có mặt)
Địa chỉ: ấp T, xã B, huyện B, tỉnh Bến Tre.
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn:
Ông Đào Công H - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý
nhà nước tỉnh B. (có mặt)
2. Bị đơn:
Ông Võ Văn H1, sinh năm 1967; (có mặt)
Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Bà Bùi Thị Đ, sinh năm 1972; (có mặt)
3.2. Chị Võ Thị Kim N, sinh năm 1988;
3.3. Chị Võ Thị Phúc H2, sinh năm 1996;
Cùng địa chỉ: ấp M, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Võ Thị Kim N và chị Võ Thị Phúc
H2:
Ông Võ Văn H1, sinh năm 1967; (có mặt)
Bà Bùi Thị Đ, sinh năm 1972; (có mặt)
Cùng địa chỉ: ấp M, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
3.4. Ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1945; (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
3.5. Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1954; (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
3.6. Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1975; (vắng mặt)
Địa chỉ: Số B, T, Phường A, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị T, là nguyên đơn; ông Võ Văn H1, là
bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm,
Theo đơn khởi kiện ngày 06/10/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày
17/6/2021, ngày 03/5/2024 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn, người đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
3
Đất tranh chấp có nguồn gốc của bà Lê Thị T2, bà Nguyễn Thị T là con bà
T2. Bà T2 cho đất bà T, cho không giấy tờ, việc bà T được bà T2 cho đất cũng
được các em bà T thừa nhận. Năm 1963, chồng bà T hy sinh nên bà T về sống
với bà T2, đất ban đầu bà T2 và bà T sử dụng, bà T2 lớn tuổi thì do bà T sử
dụng đất.
Vào năm nào không nhớ thì nhà nước lấy đất khu vực này làm kinh tế xã
(trồng dừa), cấp đất khác cho bà T. Nông trường dừa làm không hiệu quả nên
kêu các hộ dân có đất, ai muốn về lại đất nhà thì về, bà T trả đất chổ khác trở về
và được cấp thửa 271, 272, 273, 274, còn phần đất gò khoảng 05 công (5000m
2
).
Phần đất gò này tập đoàn lấy cấp cho ông Mười Ú (cha ông Hài) 1500m
2
, phần
đất còn lại bà T trồng mía, trồng cỏ, trồng lá. Đến năm 1994, bà T cho cháu
mướn trồng cỏ, năm 2008 bị ông H1 chiếm lấy. Năm 1982 ông H1 trốn nghĩa
vụ, năm 1994 ông H1 về qua đất bà T cất nhà, gia đình bà T không cho. Năm
1994, em bà T là ông Nguyễn Văn M yêu cầu địa phương giải quyết, kết quả
cho ông H1 ở tạm vị trí là nền nhà hiện nay, khi nào ông H1 có đất khác cất nhà
thì trả đất. Năm 2007 ông H1 mới có hộ khẩu, trước đó ông H1 không có hộ
khẩu vì sao được cấp đất.
Nay bà T yêu cầu ông Võ Văn H1 và vợ bà Bùi Thị Đ tháo dỡ, di dời tài
sản trên đất, trả diện tích 2461,4m
2
(phần số 6 của họa đồ) thuộc một phần thửa
275, thửa 279 diện tích 177,2m
2
(phần 2, 3 của họa đồ) tờ bản đồ số 12, tọa lạc
tại xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Bị đơn, đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của chị Võ Thị Kim N và
chị Võ Thị Phúc H2 là ông Võ Văn H1 trình bày:
Năm 1985, nhà nước lấy 25 mẫu đất làm nông trường dừa, đất khu vực nhà
ông trước đó cũng thuộc nông trường dừa. Năm 1988, giải thể nông trường, đất
nông trường cấp lại cho người dân. Năm 1989, hộ gia đình ông được cấp 03
nhân khẩu (ông, vợ và con là Võ Thị Kim N), mỗi nhân khẩu 1.350m
2
do đất bờ,
gò nên diện tích sau này đo đạc có tăng lên. Từ khi được cấp đất, gia đình ông
sử dụng đến nay.
Năm 1985, ông đi nghĩa vụ, ông bệnh mới về. Năm 1986, xã kêu ông đi lao
động ở kinh tế xã, đến năm 1987, năm 1988 nông trường giải thể, năm 1989 gia
đình ông được cấp đất.
Gia đình bà T thưa ông ở địa phương nhiều lần nên ông không nhớ nhưng
không có lần nào mà thỏa thuận cho ông ở tạm. Việc gia đình ông được cấp đất
4
có ông Bùi Văn L là thư ký tập đoàn, ông Bùi Văn H3 là tập đoàn P1 biết. Theo
ông biết khi nông trường giải thể có kêu chủ cũ, ai muốn về đất nhà thì về không
thì thôi, bà T có xin về đất nhà và được cấp đất, còn phần đất của ông do tập
đoàn cấp cho 03 nhân khẩu.
Bà T cho rằng ông lấn chiếm đất gò là không đúng. Từ khi nhà nước cấp
đất cho gia đình ông thì gia đình ông sử dụng, không có việc bà T hay cháu bà T
canh tác.
Ông C cất chuồng trâu ở bờ kênh, chuồng trâu sập cất lấn xuống đất của
ông nên ông không cho. Do lo làm ăn nên năm 2007 ông mới xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 2008 được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa 275, 279.
Trường hợp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận thì nhà và
tài sản trên đất tùy Tòa án giải quyết theo quy định, ông không thể tính được vì
nhà cửa và công sức của gia đình ông quá lớn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời là người đại diện theo ủy
quyền của chị Võ Thị Kim N và chị Võ Thị Phúc H2 là bà Bùi Thị Đ trình bày:
Bà thống nhất theo trình bày của ông Võ Văn H1.
Theo biên bản lấy lời khai, đơn xin vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan ông Nguyễn Văn M trình bày:
Phần đất bà T tranh chấp với ông H1 có nguồn gốc của mẹ bà Lê Thị T2
mua của ông Nguyễn Văn P vào năm 1959 -1960 với số tiền 500 đồng, diện tích
hơn một mẫu, đất mẹ ông mua có một phần vợ chồng ông H1 sử dụng và mấy
phần đất xung quanh.
Sau khi mua đất, gia đình khai phá làm lúa, mới đầu khoảng một công, sau
đó tăng dần diện tích trồng lúa. Nhà nước lấy đất khu vực này làm kinh tế xã
khoảng 2-3 năm thì không làm nữa, nhà nước mới trả lại cho người dân thì mẹ
ông giao lại cho bà T nên bà T canh tác. Năm 1990, nhà nước lấy đất khoán lại
cho người dân, ông Mười Ú là cha ông Hài xin cấp cho ông H1 1500m
2
.
Ông nhớ thời điểm ông Mười Ú xin cấp đất cho ông H1 thì ông H1 đang
trốn nghĩa vụ bên huyện T rồi có vợ bên đó. Nhà nước chỉ cấp ông H1 1500m
2
và trả lại cho chủ cũ vì chủ cũ có công quản lý. Ông biết được tập đoàn cấp cho
ông H1 1500m
2
là nghe ông T3 nói, trước đây ông có nhờ ông T3 xác nhận
nhưng không có đóng dấu ở xã, ông có bản phô tô. Việc tập đoàn trả lại đất cho
5
bà T, người trong tập đoàn có xác nhận. Khi ông H1 được khoán đất thì bà T
vẫn còn sử dụng, vị trí bà T sử dụng từ ruộng ông H1 ra tới bờ kênh ngang hơn
10m, bà T sử dụng chạy dọc xuống giáp ranh đất ông C, ông H1 sử dụng từ từ
chiếm hết đất bà T.
Phần đất này mẹ ông đã cho bà T nên ông không liên quan gì, ông không
có yêu cầu gì đối với phần đất này, ông xin Tòa án cho vắng mặt.
Theo biên bản lấy lời khai, đơn xin vắng mặt, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan bà Nguyễn Thị B trình bày:
Nguồn gốc đất tranh chấp giữa bà T và ông H1 là của mẹ Lê Thị T2 mua
của ông P, thời gian mua không biết, diện tích mua hơn một mẫu, sau khi mua
khai phá làm lúa. Khi nhà nước vét kênh, khoảng sau năm 1995 bà T có kêu bà
về đất này trồng mía nhưng bà không về. Bà cũng có nghe nhà nước cấp đất cho
ông H1 1500m
2
còn lại trả lại cho bà T. Bà T cho người khác mướn, từ từ ông
H1 sử dụng lấn chiếm, bà nghe nhà nước trả đất cho bà T chứ không biết vị trí,
diện tích là bao nhiêu. Phần đất gò mẹ bà đã giao cho bà T thì của bà T, bà
không liên quan đến phần đất này nên không yêu cầu gì. Bà T2 đã mất, con bà
T2 còn bà, bà T, ông M. Bà xin vắng mặt khi Tòa án xét xử.
Theo đơn xin vắng mặt ngày 21/3/2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Nguyễn Hoàng V trình bày:
Thửa đất 275, 279 bản đồ 12 của bà nội Lê Thị T2 cho cô Nguyễn Thị T,
ông hoàn toàn không có trách nhiệm, nghĩa vụ liên quan, ông cam kết không có
nhu cầu về miếng đất trên nên không tham gia, xin vắng mặt.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 156/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre đã tuyên:
Căn cứ vào các điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều
197, 199, 221 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
T. Buộc bị đơn ông Võ Văn H1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi
Thị Đ, chị Võ Thị Kim N, chị Võ Thị Phúc H2 di dời tài sản trên đất (dừa,
chuối, mai) trả diện tích theo đo đạc 177,2m
2
(phần 2, 3 của họa đồ) thuộc thửa
279, tờ bản đồ số 12, tọa lạc xã M.
6
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Nguyễn Thị T về việc yêu cầu bị đơn ông Võ Văn H1, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Bùi Thị Đ, chị Võ Thị Kim N, chị Võ Thị Phúc H2 tháo dỡ, di
dời tài sản trên đất, trả diện tích theo đo đạc 2461,4m
2
(phần 6 của họa đồ) thuộc
một phần thửa 275, tờ bản đồ số 12, tọa lạc xã M.
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T có quyền đến cơ quan có thẩm quyền để
đăng ký kê khai phần đất diện tích 177,2m
2
thuộc thửa 279, tờ bản đồ số 12, tọa
lạc xã M từ ông Võ Văn H1 chuyển sang.
Ngoài ra, bản án còn tuyên chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Ngày 30/9/2024, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T kháng cáo một phần bản án
sơ thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, công nhận quyền
sử dụng đất và buộc ông H1 di dời tài sản trên đất trả cho bà thửa đất số 275, tờ
bản đồ số 12.
Ngày 30/9/2024, bị đơn ông Võ Văn H1 kháng cáo một phần bản án sơ
thẩm, đề nghị cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà T về việc buộc ông H1 phải trả cho bà T diện tích
177,2m
2
thuộc thửa 279, tờ bản đồ số 12.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn bà T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và không đồng ý với
kháng cáo của ông H1.
Bị đơn ông H1 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và không đồng ý với kháng
cáo của bà T.
Bà Đ đồng ý với kháng cáo của bị đơn, không đồng ý với kháng cáo của
nguyên đơn.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy
định của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
7
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn và bị đơn, giữ
nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng của tại phiên tòa; ý kiến đề nghị
của Kiểm sát viên; xét kháng cáo nguyên đơn, bị đơn; Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T, bị đơn ông Võ Văn H1
kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong thời hạn luật định
nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T yêu cầu bị đơn ông Võ
Văn H1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị Đ, chị Võ Thị Kim
N, chị Võ Thị Phúc H2 tháo dỡ, di dời tài sản trên đất, trả diện tích 2461,4m
2
(phần số 6 của họa đồ) thuộc một phần thửa 275 và thửa 279 diện tích 177,2m
2
(phần 2, 3 của họa đồ) cùng tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã M, huyện B, tỉnh Bến
Tre.
Bị đơn ông Võ Văn H1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị
Đ, chị Võ Thị Kim N, chị Võ Thị Phúc H2 không đồng ý với yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Xét kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[2.1] Về quá trình kê khai đăng ký đất đai:
Theo quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai huyện B cung cấp thì các thửa 275, 279, cùng tờ bản đồ
số 12, tọa lạc tại xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre được ông Võ Văn H1 kê khai năm
2007 và được Ủy ban nhân dân huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
ngày 27/6/2008 cho ông Võ Văn H1 thửa 275 diện tích 3.820m
2
và thửa 279
diện tích 245m
2
(BL 154, 155).
Bà T không có tài liệu chứng cứ thể hiện đăng ký kê khai các thửa đất nêu
trên.
[2.2] Quá trình khiếu nại và giải quyết khiếu nại:
8
Năm 2017, bà Nguyễn Thị T khiếu nại đến Ủy ban nhân dân huyện B yêu
cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Võ Văn H1 tại các
thửa đất 275, 279 tờ bản đồ số 12, tọa lạc xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Ngày 17/5/2018, Ủy ban nhân dân huyện B ban hành Quyết định số
864/QĐ-UBND thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 279. Cùng
ngày 17/5/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B ban hành Công văn số
1419/UBND-NC trả lời việc bà T yêu cầu thu hồi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa 275 là chưa đủ cơ sở, Ủy ban nhân dân huyện B giữ nguyên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 275.
Bà T và ông H1 không có khiếu nại, khiếu kiện đối với Quyết định số
864/QĐ-UBND ngày 17/5/2018 của Ủy ban nhân dân huyện B và Công văn số
1419/UBND-NC ngày 17/5/2018 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện B.
[2.3] Về nguồn gốc đất:
Phần đất tranh chấp thuộc một phần thửa 275 theo đo đạc có diện tích
2461,4m
2
và thửa 279 cùng tờ bản đồ số 12 diện tích 177,2m
2
.
Nguyên đơn cho rằng các thửa đất 275 và 279 có nguồn gốc của bà Lê Thị
T2 cho bà Nguyễn Thị T, nhà nước lấy đất làm kinh tế xã, kinh tế xã giải thể thì
tập đoàn trả lại cho nguyên đơn vì là đất gò. Bị đơn thì cho rằng đất tranh chấp
có nguồn gốc tập đoàn cấp bình quân 03 nhân khẩu là ông Võ Văn H1, bà Bùi
Thị Đ và chị Võ Thị Kim N vào năm 1989.
Qua xem xét các tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết khiếu nại của
Ủy ban nhân dân huyện B, quá trình xác minh thì phần đất tranh chấp 2461,4m
2
thuộc một phần thửa 275 có nguồn gốc của bà Lê Thị T2 khai phá (trước năm
1975); sau đó đất được đưa vào làm kinh tế xã, kinh tế xã giải thể thì cấp bình
quân nhân khẩu cho người dân (năm 1989 -1990), tập đoàn C1 nhân khẩu cho
hộ ông H1 gồm ông H1, bà Đ, chị N; riêng phần đất gò bà T cho ông Võ Văn C
thuê thì không có khoán.
Nguyên đơn cho rằng diện tích 2461,4m
2
thuộc một phần thửa 275 là đất gò
và được tập đoàn trả lại nhưng không có chứng cứ chứng minh. Qua xác minh,
tại biên bản ngày 15/6/1994, ông Nguyễn Văn M tranh chấp với ông H1 là tranh
chấp vị trí đất gò giáp đất ông C (là vị trí thửa 279).
[2.4] Về quá trình sử dụng đất:
Phần đất diện tích 2461,4m
2
thuộc một phần thửa 275 nguyên đơn cho rằng
nguyên đơn sử dụng, ông N1 cho rằng bà T cho ông thuê sử dụng từ bờ kênh
9
vào chiều ngang khoảng 10m, trong khi ông Diếp Văn H4 cày thuê đất cho ông
H1 thì lấy tiền công cày với diện tích là 2700m
2
. Qua xác minh, đa số người
được xác minh xác định tập đoàn cấp đất là cấp đất làm được, còn đất bìa chéo
giao luôn cho người được cấp đất nên diện tích sử dụng nhiều hơn diện tích
được cấp.
Đối với phần đất thuộc thửa 279, qua lời trình bày của đương sự, quá trình
xác minh thì trước khi xảy ra tranh chấp do bà T cho ông Võ Văn C thuê.
[2.5] Về hiện trạng đất tranh chấp:
Phần đất diện tích 2461,4 m
2
thuộc một phần thửa 275 bị đơn cất nhà một
phần, xung quanh nhà có chuồng bò, nhà vệ sinh và hồ, mái đựng nước; phần
đất còn lại bị đơn vét mương trồng dừa và nhiều cây trái khác.
Phần đất 177,2 m
2
thửa 279 có 03 cây dừa trên 06 năm tuổi, 01 cây dừa
trên 01 năm tuổi, 01 cây dừa dưới 01 năm tuổi, 02 cây mai, 04 bụi chuối.
Các đương sự thống nhất tất cả tài sản trên đất đều là của gia đình bị đơn.
Bị đơn cho rằng khi bị đơn trồng cây, xây dựng nhà và các công trình thì
nguyên đơn không có ngăn cản.
Nguyên đơn cho rằng khi bị đơn cất nhà, trồng cây thì nguyên đơn có đến
Ủy ban nhân dân xã trình báo nhưng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh.
[3] Từ những căn cứ nêu trên, có cơ sở xác định:
Phần đất diện tích 2461,4m
2
thuộc một phần thửa 275 nguyên đơn cho rằng
đất gò được tập đoàn trả lại nhưng không có chứng cứ chứng minh nên yêu cầu
này là không có cơ sở chấp nhận.
Phần đất diện tích 177,2m
2
thuộc thửa 279 là phần đất gò lá của nguyên
đơn, không thuộc diện đất khoán và trước khi tranh chấp nguyên đơn là người
sử dụng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, buộc bị đơn ông Võ Văn H1 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Bùi Thị Đ, chị Võ Thị Kim N, chị Võ Thị Phúc H2 trả phần đất này là có cơ sở.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
trình bày còn một phần đất còn lại của thửa 279 do bị đơn đang sử dụng nhưng
phần này là bờ kênh và đã được Nhà nước sử dụng làm đường đi, nguyên đơn
không có yêu cầu đo đạc và cũng không tranh chấp phần này trong vụ án này. Vì
vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
10
[5] Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo một phần bản
án sơ thẩm. Tuy nhiên, cả nguyên đơn và bị đơn đều không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ chứng minh cho kháng cáo là có căn cứ nên không được chấp
nhận.
[6] Các cây trồng trên đất phát sinh khi đã tranh chấp. Tuy nhiên, việc
tuyên di dời không đảm bảo sự tồn tại và phát triển của cây trồng sau khi di dời,
nhất là đối với các cây trồng là dừa trên 06 năm tuổi. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị
đơn trình bày không thể di dời cây trồng được. Vì vậy, để đảm bảo việc thi hành
án và khả năng tồn tại, phát triển của cây trồng, cần sửa một phần Bản án sơ
thẩm, tuyên cho nguyên đơn được quyền sở hữu các cây trồng trên đất và có
nghĩa vụ trả giá trị cây trồng trên đất cho bị đơn số tiền tổng cộng là 6.612.000
đồng.
[7] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp
một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận một phần.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa một phần Bản án sơ thẩm nên bà
T, ông H1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T và ông Võ Văn H1.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 156/2024/DS-ST ngày 16 tháng 9
năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ vào các điều 147, 148 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều
197, 199, 221 Bộ luật Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
T.
Buộc bị đơn ông Võ Văn H1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Bùi Thị Đ, chị Võ Thị Kim N, chị Võ Thị Phúc H2 trả cho bà Nguyễn Thị T
phần đất theo đo đạc diện tích là 177,2m
2
(phần 2, 3 của họa đồ) thuộc thửa 279,
tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
11
(Có Họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp kèm theo.)
Bà Nguyễn Thị T được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để đăng ký kê
khai phần đất diện tích là 177,2m
2
thuộc thửa 279, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã
M, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Bà Nguyễn Thị T được quyền sở hữu các cây trồng trên đất gồm 03 cây
dừa trên 06 năm tuổi, 01 cây dừa trên 01 năm tuổi, 01 cây dừa dưới 01 năm tuổi,
02 cây mai, 04 bụi chuối.
Bà Nguyễn Thị T phải trả cho ông Võ Văn H1 và bà Bùi Thị Đ giá trị 03
cây dừa trên 06 năm tuổi, 01 cây dừa trên 01 năm tuổi, 01 cây dừa dưới 01 năm
tuổi, 02 cây mai, 04 bụi chuối, tổng cộng là 6.612.000 (sáu triệu, sáu trăm mười
hai nghìn) đồng.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Nguyễn Thị T về việc yêu cầu bị đơn ông Võ Văn H1, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan bà Bùi Thị Đ, chị Võ Thị Kim N, chị Võ Thị Phúc H2 tháo dỡ, di
dời tài sản trên đất, trả diện tích đất theo đo đạc là 2461,4m
2
(phần 6 của họa đồ)
thuộc một phần thửa 275, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã M, huyện B, tỉnh Bến
Tre.
(Có Họa đồ hiện trạng thửa đất tranh chấp kèm theo.)
3. Về chi phí tố tụng khác (chi phí đo đạc, định giá, xem xét thẩm định tại
chỗ...): Tổng cộng là 13.684.000 (mười ba triệu, sáu trăm tám mươi bốn nghìn)
đồng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị T đã nộp tạm ứng số tiền này.
Bà Nguyễn Thị T phải chịu 9.123.000 (chín triệu, một trăm hai mươi ba
nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền bà T đã nộp tạm ứng nên bà T đã nộp
xong.
Ông Võ Văn H1 và bà Bùi Thị Đ phải chịu 4.561.000 (bốn triệu, năm trăm
sáu mươi mốt nghìn) đồng. Do bà Nguyễn Thị T đã nộp tạm ứng nên ông Võ
Văn H1 và bà Bùi Thị Đ có nghĩa vụ hoàn lại cho bà Nguyễn Thị T số tiền
4.561.000 (bốn triệu, năm trăm sáu mươi mốt nghìn) đồng.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị T là người cao tuổi nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Võ Văn H1, bà Bùi Thị Đ, chị Võ Thị Kim N, chị Võ Thị Phúc H2
phải liên đới chịu án phí là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nộp tại Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm:
12
Bà Nguyễn Thị T, ông Võ Văn H1 không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Hoàn trả cho ông Võ Văn H1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba
trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004679 ngày 10 tháng 10 năm 2024 tại
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9
Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Các đương sự; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- TAND huyện Ba Tri;
- Chi cục THADS huyện Ba Tri;
- Phòng Thanh tra, Kiểm tra và
Thi hành án TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án, VP.
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm