Bản án số 24/2024/HNGĐ-ST ngày 08/08/2024 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 24/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 24/2024/HNGĐ-ST ngày 08/08/2024 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lý Nhân (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 24/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/08/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị Hồng Hạnh và anh Nguyễn Văn Nước.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LÝ NHÂN
TỈNH HÀ NAM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHNGA VIỆT NAM
Độc lập - Tdo - Hạnh pc
Bản án số: 24/2024/HNGĐ-ST
Ngày 08 - 8 - 2024
V/v: Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Đỗ Quốc Huy.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Vũ Trí Dũng
Lê Thị Thu Hiền
.
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị ơng - Thư Tòa án nhân dân huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện Nhân tham gia phiên tòa:
Ông Phạm Sỹ Hưng - Kiểm sát viên.
Ngày 08 tháng 8 năm 2024, ti tr sở Toà án nn dân huyn Lý Nhân xét x
sơ thm công khai
ván th lý s: 78/2024/TLST-HNGĐ ny 03 tháng 6 năm 2024
v vic “Ly n, tranh chp về nuôi con, theo Quyết đnh đưa vụ án ra xét xử số:
26/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2024, gia c đương s:
1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Hồng H, sinh năm 1986.
Nơi đăng thường trú: Thôn 3, Nh, huyện L, tỉnh H; địa chỉ nơi :
Thôn A, xã Đ, huyện B, tỉnh H.
2. B đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1983.
Nơi đăng thường trú: Thôn 3, Nh, huyện L, tỉnh H; nơi ng tác:
Trạm Rađa 59, Trung đoàn 291, Sư đoàn 365, Quân chủng Ph - Kh; đa ch: Xã Đ,
huyện Tr, tỉnh L.
Phiên toà có mt: Ch H; anh N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ny 25 tháng 3 năm 2024; bản tự khai, lời khai của
nguyên đơn chị Hoàng Thị Hồng H trình bày:
Chị Hoàng Thị Hồng H kết hôn với anh Nguyễn Văn N là tự nguyện, đăng
ký kết hôn vào ngày 22 tháng 11 năm 2010 tại Ủy ban nhân dân xã Nhân Khang,
huyện Nhân, tỉnh Nam. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống cùng nhà bố
mẹ đẻ anh N tại thôn 3, Nhân Khang, huyện Nhân. Anh N ng tác trong
quân đội hàng tháng vẫn được nghỉ phép về địa phương sống cùng gia đình. Vợ
2
chồng chung sống hoà thuận được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn.
Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh N không có trách nhiệm với gia đình, anh N đi
làm nhưng không gửi tiền về cho chị nuôi con chăm lo gia đình, mọi việc trong
nhà đều do một mình chị lo liệu. Mặt khác anh N còn vay tiền của nhiều người để
chi tiêu nhân dẫn đến nợ nần không khả năng trả nợ, nhiều người đến nhà
đòi nợ làm ảnh hưởng đến uy tín danh dự của gia đình, bố mẹ đẻ anh N phải
cầm cố sổ đỏ để vay tiền tr nợ cho anh N. Khi chị H kinh doanh bán hàng online
thì anh N thường ghen tuông cớ gọi điện chửi bới khách ng làm ảnh hưởng
đến công việc kinh doanh của chị. Khoảng năm 2019, chị H phát hiện anh N
mối quan hệ tình cảm với nhiều người phụ nữ khác, chị hỏi nhưng anh N đều
không thừa nhận, bản thân vẫn không thay đổi. Do cuộc sống vợ chồng không
hạnh phúc, nên ngày 10/3/2023 chđã cùng các con về nhà bố mẹ đẻ chị thôn
An Bài 1, Đồng Du, huyện Bình Lục sinh sống. Vợ chồng ly thân từ đó cho
đến nay, chấm dứt mọi quan hệ tình cảm. Sau khi ly thân, anh N nhiều lần sử dụng
các hình ảnh nhạy cảm của chị bằng hình thức quay lén nhắn tin, gọi điện đe
doạ ép buộc ch trở về chung sống cùng anh N, làm ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh
thần của chị. Trong quá trình Toà án đang giải quyết vụ án anh N đến nhà bố mẹ
đẻ chị H đe doạ bắt cháu H về ông nội ở, vợ chồng lại xảy ra mâu thuẫn.
Nay chị H xác định mâu thuẫn vchồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không
đạt được, chị đề nghị được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.
Ý kiến của anh Nguyễn Văn N trình bày tại phiên toà: Anh N và chị Hoàng
Thị Hồng H kết hôn với nhau hợp pháp, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc. V
nguyên nhân mâu thuẫn theo chị H trình bày nvậy không đúng, anh N xác
định không quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, bản thân vẫn chăm sóc
gia đình con chung; trong cuộc sống vợ chồng mâu thuẫn nhỏ do cả hai nghi
ngờ không tin tưởng trong quan htình cảm. Mặc dù anh công tác trong quân đội
nhưng vẫn có trách nhiệm với gia đình. Ngoài ra chị H cho rằng anh có mối quan
hệ ngoài luồng với người phụ nữ khác là không đúng sự thật, anh N đã nhiều lần
giải thích nhưng chị H không tin luôn nghi ngờ dẫn tới cuộc sống n nhân
không hạnh phúc. Nay chị H xin ly hôn anh N không nhất trí ly hôn với chị H và
đề nghị được đoàn tụ để vợ chồng cùng nhau nuôi dạy các con.
- Về con chung: Chị Hoàng Thị Hồng H và anh Nguyễn Văn N thống nhất
vợ chồng 02 con chung là cháu Nguyễn Văn H, sinh ngày 02/02/2011 và cháu
Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/11/2012. H cháu H đang ở với anh N và ông bà nội,
cháu B do chị H nuôi dưỡng chăm sóc. Nếu vợ chồng ly hôn, chị H và anh N đều
đề nghđược nuôi ỡng cả hai con chung, không yêu cầu Toà án giải quyết về cấp
dưỡng nuôi con. Cháu H và cháu B đều nguyện vọng muốn tiếp tục được sống
cùng với chị H.
- Về tài sản, công nợ các vấn đề khác: Chị Hoàng Thị Hồng H anh
Nguyễn Văn N không yêu cầu Toà án giải quyết.
3
Theo ý kiến của ông Nguyễn Công V (bố đẻ anh Nguyễn Văn N) cung cấp
lưu tại hồ sơ: Chị Hoàng Thị Hồng H và anh Nguyễn Văn N lấy nhau hoàn toàn
tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán vào năm 2010. Anh N làm
việc trong quân đội đóng quân tại tỉnh Lạng Sơn sau đó chuyển nhiều đơn vị khác
nhau, hàng tháng anh N về với vợ con và gia đình vài ngày phép. Cuộc sống giữa
anh N và chị H cũng như gia đình chồng không xảy ra mâu thuẫn gì. Khoảng đầu
năm 2023, chị H làm đơn ly hôn với anh N gửi Toà án nhân dân huyện Lạng
Giang, tỉnh Bắc Giang nơi anh N công tác. Sau đó do gia đình phân tích nên chị
H anh N đã đến Toà án để rút đơn, vợ chồng về đoàn tụ nhưng được khoảng
02 tháng tchị H đưa các con về nhà bố mẹ đẻ chị H sinh sống cho đến nay. Nay
chị H xin ly hôn anh N, ông V đề nghị Toà án hoà giải để vợ chồng đoàn tụ nuôi
dạy con cái.
Toà án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ vụ án các văn bản tố tụng
khác cho anh Nguyễn Văn N; tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ hoà giải nhưng anh N đều vắng mặt không có do,
chị H đề nghị Toà án không tiến hành hoà giải vụ án nên Toà án không tiến hành
hoà giải được.
Tại phiên toà:
- Nguyên đơn chị Hoàng Thị Hồng H vẫn giữ nguyên quan điểm như đã
trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
- Bị đơn anh Nguyễn Văn N không đồng ý ly hôn, đề nghị vợ chồng về
đoàn tụ; trường hợp vợ chồng ly hôn anh N đnghị được nuôi dưỡng cả 02 con
chung, không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân có quan điểm như sau:
Về tố tụng: Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải
quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên toà việc chấp hành
pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng
xét xử vào phòng nghị án đúng quy định pháp luật. Đối với bị đơn, anh Nguyễn
Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng thực hiện chưa
đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình, vắng mặt tại các phiên họp hoà giải.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị giải quyết ly hôn giữa chị Hoàng Thị
Hồng H và anh Nguyễn Văn N. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Văn H cho anh
Nguyễn Văn N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Gia B cho chị
H tiếp tục chăm c, nuôi dưỡng cho đến khi cháu H và cháu B đủ 18 tuổi, tự lập.
Chị H anh N không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về tài sản chung,
công nợ và các vấn đề khác: Do đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về
án phí ly hôn: Chị H phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
4
[1] Về ttụng: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện các tài liệu, chứng
cứ do chị Hoàng Thị Hồng H cung cấp, sở xác định quan hệ pháp luật là
“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện Nhân, tỉnh Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a
khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Quan hhôn nhân giữa chHoàng Thị Hồng H và anh
Nguyễn Văn N là tự nguyện và hợp pháp.
Về nguyên nhân mâu thuẫn: Chị H cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn do
anh N không có trách nhiệm với gia đình, anh N đi làm nhưng không gửi tiền v
cho chị H nuôi con và chăm lo gia đình mà còn vay tiền của nhiều người dẫn đến
nợ nần bị nhiều người đến đòi nợ làm ảnh hưởng đến uy n, danh dự của gia đình.
Mặt khác, anh N ghen tuông vô cớ làm ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của
chị H, bản thân anh N chị H cũng không tin tưởng nhau về tình cảm. Từ ngày
10/3/2023, chị H đã cùng các con trở về nhà bố mẹ đẻ chH ở thôn An Bài 1, xã
Đồng Du, huyện Bình Lục sinh sống, vchồng ly thân từ đó cho đến nay, chấm
dứt mọi quan hệ tình cảm. Sau khi ly thân, anh N nhiều lần nhắn tin, gọi điện đe
doạ chị H nên vợ chồng tiếp tục mâu thuẫn. Toà án đã tiến hành xác minh, thu
thập tài liệu, chứng cứ tại địa phương xã Nhân Khang, huyện Lý Nhân, xác định
nguyên nhân vợ chồng chị H anh N xảy ra mâu thuẫn như ý kiến của chị H
trình bày nêu trên đúng. Qtrình giải quyết vụ án, anh N không đến Toà án
làm việc, không tham gia hoà giải. Tại phiên toà, anh N đề nghị vợ chồng đoàn tụ,
chị H vẫn cương quyết xin ly hôn điều đó chứng tỏ u thuẫn vợ chồng đã trầm
trọng, đời sống chung không thể kéo i, mục đích hôn nhân không đạt được.
vậy, u cầu xin ly hôn của chị H căn cứ, phù hợp với thực tế pháp luật
được quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình, n được Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị H anh N 02 con chung cháu Nguyễn Văn
H, sinh ngày 02/02/2011 và cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/11/2012.
Xét nguyện vọng nuôi dưỡng con chung của chị H anh N, Hội đồng xét
xử thấy: Theo chị H trình bày, qtrình chung sống chị H người làm ra kinh tế
trực tiếp chăm sóc con chung, bản thân anh N công việc ổn định nhưng
không đóng góp nuôi con cùng chị Hkhông có trách nhiệm với gia đình. Tuy
nhiên, căn cứ lời khai của các đương sự các tài liệu trong hồ vụ án, thể
hiện chị H anh N đều công việc thu nhập ổn định, bên cạnh đó các bên
đều gia đình tạo điều kiện về chỗ phụ giúp việc nuôi con chung, nên
căn cứ xác định chị H và anh N đều có đủ điều kiện được nuôi dưỡng con chung.
vậy, để đảm bảo quyền nghĩa vụ nuôi con của chị H và anh N khi ly hôn,
cũng như đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho con dưới 18 tuổi, nên giao cháu B cho
chị H nuôi dưỡng; giao cháu H cho anh N nuôi dưỡng cho đến khi các cháu trưởng
thành, tự lập phù hợp với thực tế và pháp luật được quy định tại Điều 81 Luật
Hôn nhân và gia đình.
5
Vcấp dưỡng nuôi con: Tại phiên toà chị H anh N đều không yêu cầu
Toà án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.
[4] Về tài sản, công nợ và các vấn đ khác: Các đương sự đều không yêu
cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 266, Điều 271
Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điu 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82
và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị Hồng H và anh
Nguyễn Văn N.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Gia B, sinh ngày 22/11/2012 cho chị
Hoàng Thị Hồng H tiếp tục trông nom, chăm c, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu
Nguyễn Văn H, sinh ngày 02/02/2011 cho anh Nguyễn Văn N tiếp tục trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu H cháu B đủ 18 tuổi. Anh
Nguyễn Văn N và chị Hoàng Thị Hồng H không phải cấp dưỡng nuôi con chung
cho nhau.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vthăm
nom con không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc
thăm nom để cản trhoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con tngười trực tiếp nuôi con quyền yêu cầu Tòa án hạn
chế quyền thăm nom con của người đó. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành
viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm
nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thị Hồng H phải chịu tn btiền án p lyn sơ
thẩm 300.000 (Ba trăm ngn) đồng. Đối tro số tiền tạm ứng án phí chị H đã
nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu s0000967 ngày 28 tháng 6 năm
2024 tại Chi cục Thi hành án n shuyện Nn, tỉnh Hà Nam.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
6
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND huyện Lý Nhân;
- Chi cục THADS huyện Lý Nhân;
- UBND xã Nhân Khang;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Quốc Huy
Tải về
Bản án số 24/2024/HNGĐ-ST Bản án số 24/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 24/2024/HNGĐ-ST Bản án số 24/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất