Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST ngày 29/07/2024 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST ngày 29/07/2024 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lý Nhân (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 22/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/07/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Về quan hệ hôn nhân
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LÝ NHÂN
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 22/2024/HNGĐ-ST
Ngày 29 - 7 - 2024
V/v: Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN - TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đỗ Quốc Huy.
Các Hội thẩm nhân dân: Trn Th Ngọc ông Nguyễn Văn Kiệm.
- Thư phiên toà: Ông Phạm Thành Trung - Thẩm tra viên Toà án nhân
dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhân, tỉnh Nam tham
gia phiên toà: Ông Phạm Sỹ Hưng - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tán nhân dân huyện Nhân,
tỉnh Nam xét xử thẩm công khai ván thụ số: 23/2024/TLST-HNGĐ
ngày 07 tháng 3 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết
định đưa vụ án ra t xử số: 22/2024/QĐXX-ST ngày 01 tháng 7 năm 2024
Quyết định hoãn phiên toà số 12/2024/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2024,
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Kim Ng, sinh năm 1995; địa chỉ: Tổ dân
phố Tr, phường V, thị xã V tỉnh B; có mặt.
2. Bị đơn: Anh Trương Thế A, sinh năm 1996; địa chỉ: Thôn N, B,
huyện L, tỉnh H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 21/02/2024, bản khai, lời khai của chHoàng
Thị Kim Ng anh Trương Thế A, nội dung vụ án như sau:
- Về quan hhôn nhân: Chị Hoàng Thị Kim Ng anh Trương Thế A lấy
nhau hoàn toàn tự nguyện, đăng kết hôn vào ngày 05/3/2018 tại UBND
Bắc Lý, huyện Nhân, tỉnh Nam. Sau ngày cưới, vợ chồng sinh sống hạnh
phúc, có con chung thì phát sinh mâu thuẫn.
Theo chị Hoàng Thị Kim Ng trình bày: V chng chung sng hnh phc
đến năm 2020 thì phát sinh mâu thun, nguyên nhân do anh Thế A mải chơi dn
đến nợ nần, phải bán cả xe máy của hai vợ chồng để trả nợ. Chị gia đình đã
nhiều lần đưa tiền để trả nợ thay anh Thế A nhưng anh Thế A không thay đổi mà
2
thường xuyên uống rượu, đánh đập chửi bới chị nhiều lần, chị không chịu được
nên đến tháng 01/2022 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Nay chị Ng xác định
cuộc sống hôn nhân của vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, đề nghị Toà án giải quyết cho chịanh Trương Thế A
được ly hôn.
Theo anh Trương Thế A thì cho rằng: Vợ chồng sống hạnh phc đến năm
2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh phát hiện chị Ng nhắn tin qua
điện thoại ngoại tình với người đàn ông khác, anh nói chuyện thì chị Ng không
thừa nhận, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn cãi chửi nhau, anh tát chị Ng 01 cái thì
chị Ng bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng cũng ly thân từ đó đến nay. Anh xác định
vợ chồng xảy ra mâu thuẫn cũng có phần lỗi do anh mải chơi nợ nần tiền bạc ảnh
hưởng đến kinh tế gia đình, không quan m đến vcon nhưng mâu thuẫn nhỏ
chưa đến mức ly n, vợ chồng vẫn còn tình cảm, nên anh không đồng ý ly hôn
với chị Hoàng Thị Kim Ng.
- Về con chung: Chị Hoàng Thị Kim Ng anh Trương Thế A thống nhất
vợ chồng 01 con chung là cháu Trương Bảo Ch, sinh ngày 16/6/2018. Hiện
cháu Ch đang với chNg ông bà ngoại tại xã Bắc Thủy, huyện Chi Lăng,
tỉnh Lạng Sơn.
Chị Hoàng Thị Kim Ng anh Trương Thế A đều nguyện vọng được
nuôi dưỡng cháu Bảo Ch, các bên không yêu cầu Toà án giải quyết về cấp dưỡng
nuôi con.
- Về tài sản, công nợ và các vấn đề khác: Các đương sự đều không yêu cầu
Toà án giải quyết.
Toà án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, ng
khai chứng cứ và hoà giải nhưng không thành.
Tại phiên toà:
- Nguyên đơn chị Hoàng Thị Kim Ng vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
quan điểm như đã trình bày trong quá trình giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân có quan điểm như sau:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật ttụng của những người tiến hành tố
tụng, nguyên đơn đng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn thực hiện
chưa đầy đủ quyền nghĩa vụ, vắng mặt phiên toà lần thứ hai nên đề nghị xét
xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị giải quyết ly hôn giữa chị Hoàng Th
Kim Ng anh Trương Thế A. Về con chung: Giao cháu Trương Bảo Ch, sinh
ngày 16/6/2018 cho chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu Ch đủ 18 tuổi,
tự lập; anh Thế A không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Ng. Về tài sản
chung, công nợ và các vấn đề khác: Do đương sự không yêu cầu nên không xem
xét. Về án phí: Chị Ng phải chịu toàn bộ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.
3
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem tại phiên tòa; căn cứ vào
kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện các tài liệu, chứng
cứ do chị Hoàng Thị Kim Ng cung cấp, sở xác định quan hệ pháp luật
“Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân huyện Nhân, tỉnh Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a
khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lcác văn bản tố tụng
cho các đương sự, anh Trương Thế A vắng mặt phiên toà lần thứ hai không có
do. vậy, căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự,
Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.
[2] Về hôn nhân: Quan hhôn nhân giữa chị Hoàng Thị Kim Ng anh
Trương Thế A tự nguyện hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống
hạnh phc một thời gian t phát sinh mâu thuẫn, theo chị Ng trình bày thì
nguyên nhân do vchồng khó khăn về kinh tế, anh Thế A chơi bời dẫn đến nợ
nần, anh Thế A thì thường xuyên uống rượu chửi bới, đánh đập chị nhiều lần; anh
Thế A thì nghi ngờ chị Ng không chung thuỷ mà có quan hệ ngoại tình với người
đàn ông khác. Về nguyên nhân mâu thuẫn các bên đưa ra khác nhau, nhưng
quá trình giải quyết vụ án thì cả chị Ng và anh Thế A đều xác nhận vợ chồng đã
sống ly thân mỗi người một nơi từ tháng 01/2022 đến nay, không ai quan tâm đến
cuộc sống chung. Tại phiên toà, chị Ng vẫn cương quyết xin ly hôn, điều đó
chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,
mục đích hôn nhân không đạt được. vậy, yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Th
Kim Ng căn cứ, phù hợp với thực tế và pháp luật được quy định tại Điều 51
Điều 56 Luật hôn nhân và đia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung: Chị Hoàng Thị Kim Ng và anh Trương Thế A có 01 con
chung là cháu Trương Bảo Ch, sinh ngày 16/6/2018.
Xét nguyện vọng nuôi dưỡng con chung của các đương sự, Hội đồng xét
xử thấy: Khi ly hôn cả chị Ng anh Thế A đều quyền được nuôi dưỡng,
chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vợ chồng chỉ có một
con chung duy nhất, hiện cháu Ch còn nhỏ dưới 7 tuổi đang do chị Ng ông
ngoại nuôi dưỡng. Xét về điều kiện nuôi con, hiện chị Ng đang làm việc tại
khu công nghiệp Đình Trám, thị xã Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, thu nhập bình quân
9.000.000 đồng/tháng, còn anh Thế A hiện đang làm việc tại công ty Honda Việt
Nam, thu nhập bình quân mỗi tháng 14.000.000 đồng, như vậy các đương sự đều
công việc thu nhập ổn định, đủ điều kiện nuôi con. Tuy nhiên, cháu Ch
con gái còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của người mẹ hơn, từ khi vợ chồng
sống ly thân đến nay cháu Ch do chị Ng nuôi dưỡng, hiện cuộc sống ăn học của
4
cháu đều đảm bảo, anh Thế A nguyện vọng nuôi con nhưng vắng mặt các
phiên toà thẩm. vậy nên giao cháu Ch cho chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng cho
đến khi cháu đủ 18 tuổi phù hợp với pháp luật được quy định tại Điều 81 Luật
Hôn nhân gia đình. Đối với yêu cầu nuôi con của anh Thế A không căn
cứ nên không được chấp nhận.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ng không yêu cầu anh Thế A phải cấp dưỡng
nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[4] Về tài sản, công nợ và các vấn đề khác: Các đương sự đều không yêu
cầu Toà án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều
266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ Điều 51, Điều 56,
các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định vmức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Hoàng Thị Kim Ng và anh
Trương Thế A.
2. Về con chung: Giao cháu Trương Bảo Ch, sinh ngày 16/6/2018 cho chị
Hoàng Thị Kim Ng tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến
khi cháu Ch đủ 18 tuổi, tự lập. Anh Trương Thế A không phải cấp dưỡng tiền
nuôi con chung cho chị Ng.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm
nom con không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng
việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con quyền yêu cầu Tòa án
hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Người trực tiếp nuôi con cùng các
thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong
việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thị Kim Ng phải chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn)
đồng án phí ly hôn thẩm. Đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Ng đã nộp
300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0000826 ngày 05 tháng 3 năm
2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
5
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9
Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND huyện Lý Nhân;
- Chi cục THADS Lý Nhân;
- UBNDBắc ;
- Đương sự;
- Lưu: hồ sơ + văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Đỗ Quốc Huy
Tải về
Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST Bản án số 22/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất