Bản án số 215/2019/DSPT ngày 25/07/2019 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 215/2019/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 215/2019/DSPT
Tên Bản án: | Bản án số 215/2019/DSPT ngày 25/07/2019 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Hà Nội |
Số hiệu: | 215/2019/DSPT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/07/2019 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản giữa nguyên đơn T với bị đơn H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂNTHÀNH PHỐ HN
- Ph :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hg.
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị L A
Bà Trần Thị Th N
- :
Bà Nguyễn Ánh Tt - Thư ký Tòa án nhân dân Thành phố HN.
-HN tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Ngn - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố HN xét xử
Phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 24/2019/TLPT-DS ngày 11/01/2019 về việc
Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất do bản án sơ thẩm số
29/2018/DS-ST ngày 27/11/ 2018 của Tòa án nhân dân quận HĐ, TP HN bị kháng
cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử Phúc thẩm số 93/2019/QĐXX-PT ngày
04 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Bà L Th T1, sinh năm 1955; HKTT: Lô 62, khu giãn dân
ML 1, tổ 16, phường ML 2, quận HĐ, HN
Vắng mặt tại phiên tòa.
2.
2.1. Anh Ng Đ H1, sinh năm 1977; HKTT: Lô 62, khu giãn dân ML 1, tổ 16,
phường ML 2, quận HĐ, HN
Có mặt tại phiên tòa.
2.2. Chị Hg Th T, sinh năm 1978; HKTT: Tổ 9, khu dãn dân ML 1, phường
ML 2, quận HĐ, HN.
Nơi ở hiện nay: Nhà số 6 A7, ngõ 8 tổ dân phố 6, L Kh, HĐ, HN.
Vắng mặt tại phiên tòa.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HN
Bản án số: 215/2019/DS-PT
Ngày: 25/7/2019
V/v: Tranh chấp Hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh Phúc
2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị Hg Th T:
Luật sư L D Tg thuộc Công ty Luật TNHH HN Tr A, Đoàn Luật sư Thành phố
HN (có mặt tại phiên tòa).
3.
3.1. Ông Ng Đ Ph, sinh năm 1944
Trú tại: Lô 62, khu dãn dân ML 1, tổ 16, P. ML 2, HĐ, HN.
3.2. Ủy ban nhân dân quận HĐ, thành phố HN
Địa chỉ trụ sở: Lô N01 TT hành chính mới, T H, HĐ, HN.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông C V Kh
Chức vụ: Phó Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường quận HĐ.
3.3. Ủy ban nhân dân phường ML 2, quận HĐ, TP HN
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ph N Khg
Chức vụ: Chủ tịch UBND phường ML 2.
Đều vắng mặt tại phiên tòa.
4. Người kháng cáo: Chị Hg Th T (bị đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các bản khai tại tòa án, nguyên đơn là bà L Th T1
trình bày:
Ngôi nhà cấp 4 trên thửa đất số 62 diện tích 71m2, tờ bản đồ 00 khu ML 1 là đất
giãn dân vợ cH1 bà được giao và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ) ngày 05/4/2007 mang tên Ng Đ Ph và L Th T1. GCNQSDĐ do chồng
bà cất giữ. Sau khi được cấp GCN, vợ chồng bà bỏ tiền xây dựng nhà 5 tầng như hiện
nay. Tháng 11/2016, vợ chồng bà mang sổ đỏ đến Ngân hàng vay tiền để chữa bệnh
ung thư vòm họng thì được nhân viên ngân hàng thông báo là GCNQSDĐ của vợ
chồng bà đã sang tên Ng Đ H1 và Hg Th T là con trai và con dâu bà từ năm 2008,
việc sang tên ghi ở mặt sau Giấy chứng nhận. Về bà có hỏi thì anh H1 cho biết là năm
2008 do cần vốn làm ăn nên anh H1 đã để kèm Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất
vào các giấy tờ làm thủ tục xin phép xây dựng nhà đưa cho ông Ph ký, ông Ph đã ký
cả tên của bà vào Hợp đồng với nội dung là bố mẹ cho con đất. Sau đó anh H1 tự ý
mang Hợp đồng này đến UBND phường và UBND quận làm thủ tục sang tên
GCNQSDĐ.
Do bà không biết và không ký Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, bà cũng
không có mặt tại nơi chứng thực Hợp đồng nên bà khởi kiện yêu cầu hủy Hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất số 2643 đã được UBND phường ML 2 xác nhận ngày
28/11/2008 và đề nghị Tòa án kiến nghị UBND quận HĐ thu hồi Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sang tên Lưu Đức H1 và Hg Th T.
Bị đơn (anh Ng Đ H1) trình bày: Nhà đất nêu trên là của bố mẹ anh đã được
cấp Giấy chứng nhận năm 2007. Năm 2008, do cần vay vốn ngân hàng để làm ăn phải
có tài sản thế chấp nên trong lúc làm giấy tờ xin phép xây dựng nhà, anh đã làm sẵn
3
Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất để lẫn vào các giấy tờ khác rồi đưa cho bố anh
ký, bố anh không để ý nên đã ký vào Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất với nội
dung là bố mẹ cho con đất, đồng thời ký cả vào phần tên của mẹ anh là L Th T1 (thời
gian đó mẹ anh đang phải điều trị bệnh ung thư vòm họng tại bệnh viện E). Sau đó
anh mang Hợp đồng đến UBND phường và quận xin xác nhận và làm thủ tục sang tên
GCNQSDĐ mang tên vợ chồng anh. Năm 2011, vợ chồng anh đã thế chấp nhà đất
này để vay Ngân hàng TMCP VNTV 03 tỷ đồng. Năm 2013, do làm ăn thua lỗ, bố
mẹ anh có cho vợ chồng anh một phần tiền cộng với tiền bán đất nên vợ chồng anh đã
trả hết nợ cho ngân hàng và lấy Sổ đỏ về trả cho bố mẹ anh, nhà đất vẫn do bố mẹ anh
quản lý.
Nay anh thống nhất với yêu cầu khởi kiện của bà T1 và đồng ý trả lại nhà đất
cho bố mẹ anh vì năm 2008 anh đã lừa dối bố mẹ, tự làm Hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất không đúng với ý chí của ông bà.
Đồng bị đơn là chị Hg Th T (vợ anh H1) trình bày: Chị không đồng ý với ý
kiến của bà T1, ông Ph và anh H1. Diện tích 71m2 đất mà bố mẹ chồng chị đứng tên
trong Giấy chứng nhận năm 2007 có nguồn gốc là đất giãn dân giao cho hộ gia đình
trong đó có quyền lợi của vợ chồng chị. Năm 2008 cả ông Ph và bà T1 đã cùng vợ
chồng chị đến UBND phường để xin xác nhận vào bản Hợp đồng cho đất và cũng từ
năm 2008 nhà đất đã được sang tên vợ chồng chị. Năm 2009, vợ chồng chị phá 20m2
nhà cũ cấp 4 để xây lại thành nhà 5 tầng như hiện nay. Năm 2011, vợ chồng chị thế
chấp nhà đất này cho Ngân hàng VNTV vay tiền để làm ăn, anh H1 cho bạn bè vay
tiền lấy lãi. Do không đòi nợ được, ông Ph và bà T1 còn bán 01 thửa đất lấy tiền đưa
cho anh H1 trả nợ Ngân hàng để xóa thế chấp, Sổ đỏ lấy về anh H1 giao lại cho ông
Ph bà T1 cất giữ, bà T1 khai không biết Sổ đỏ sang tên vợ chồng chị từ năm 2008 là
khai gian dối. Năm 2012, chị phát hiện anh H1 có quan hệ ngoại tình nên vợ chồng
mâu thuẫn. Năm 2014, anh H1 công khai quan hệ ngoại tình về ruồng dãy chửi bới
đánh đập chị nên chị đã sống ly thân, anh H1 làm đơn xin ly hôn bắt chị phải viết giấy
trả nhà. Do chị không đồng ý viết giấy trả nhà và Tòa án quận HĐ báo anh H1 không
đến nên việc ly hôn chưa được giải quyết. Do thường xuyên bị anh H1 đánh đuổi nên
chị và các con phải đi ở thuê nay đây mai đó, hiện không có chỗ ở ổn định. Nay bà
T1, ông Ph và anh H1 câu kết với nhau đòi lại nhà đất bằng việc kiện hủy Hợp đồng
cho đất từ năm 2008 nhằm mục đích đuổi chị đi để khi ly hôn chị không được chia
nhà, chị đề nghị Tòa án giải quyết công bằng và bảo vệ quyền lợi cho chị.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan gồm:
- Ông Ng Đ Ph trình bày: Ông thống nhất với lời trình bày của bà T1 và anh H1.
Năm 2008, khi ký tên vào Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 2643, ông không
biết nội dung do anh H1 đã kèm bản Hợp đồng vào các giấy tờ khác đưa cho ông ký,
bà T1 cũng không ký vào bản hợp đồng, vợ chồng ông chưa bao giờ cho anh H1, chị
T nhà đất này nên ông đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà T1, đề nghị tòa án hủy
Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 2643 để trả lại tên cho vợ cH1 ông trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
4
- Đại diện UBND quận HĐ và UBND phường ML 2 thống nhất trình bày: Ngày
28/11/2008, ông Ph bà T1 đã chuyển nhượng cho anh H1 chị Tt thửa đất số 62 tờ bản
đồ số 00, diện tích 71m2. Việc chuyển nhượng đất được lập thành văn bản và có chữ
ký của các bên. Tại điều 4 của Hợp đồng các bên đã cam kết nếu có gì man trá sẽ chịu
trách nhiệm trước pháp luật nên UBND phường ML 2 đã xác nhận vào Hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất giữa các bên. Căn cứ điều 3, điều 9 Quyết định số 08 ngày
21/7/2006, mục 1 phần 5 Thông tư số 09 ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên và Môi
trường và các văn bản hướng dẫn, ngày 13/12/2008, phòng Tài nguyên và môi trường
quận HĐ đã chỉnh lý Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Ng Đ H1 và Hg
Th T là đúng trình tự, thủ tục. Đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 29/DS-ST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân
quận HĐ đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L Th T1; Hủy Hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất số 2643 ngày 28/11/2008 giữa bên chuyển QSDĐ là ông Ph
và bà T1, bên nhận QSDĐ là anh H1 và chị T; Kiến nghị UBND quận HĐ thu hồi
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chỉnh lý ngày 13/12/2008 đứng tên anh Ng Đ
H1 và chị Hg Th T.
Ngoài ra bản án còn quyết định về nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo của
các đương sự.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 07/12/2018 chị T nộp đơn kháng cáo
yêu cầu Tòa án hủy bản án sơ thẩm; Công nhận Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
số 2643 và công nhận quyền sở hữu, sử dụng nhà đất theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mà vợ chồng chị đã được sang tên ngày 13/12/2008.
Tại phiên tòa Phúc thẩm:
- Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị T trình bày: Ông Ph, bà T1
không hề bị ai lừa dối khi lập Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất vào năm 2008,
ông Ph, bà T1 đã thống nhất và tự nguyện cho vợ chồng anh H1 thửa đất tại khu giãn
dân ML 1 nên năm 2009 vợ chồng anh H1 chị T mới xây nhà 5 tầng như hiện nay, ông
Ph là người giữ GCNQSDĐ nên ông phải biết GCN đã sang tên anh H1 chị T. Bà T1
không ký hợp đồng 2643 nhưng năm 2013, bà T1 và ông Ph đã bán đất lấy tiền cho
anh H1 trả nợ ngân hàng để xóa thế chấp nên bà T1 phải biết GCNQSDĐ đã sang tên
anh H1 chị T ngay từ năm 2013 mà bà không có ý kiến thắc mắc hay phản đối gì. Đề
nghị HĐXX hủy bản án sơ thẩm, xét xử sơ thẩm lại vụ án để đảm bảo quyền lợi cho
chị T.
- Anh H1 trình bày: Nhà đất là của bố mẹ anh nhưng mẹ anh không ký hợp đồng
cho đất nên hợp đồng không có giá trị. Năm 2009 bố mẹ anh bán 1 lô đất giãn dân để
lấy tiền xây nhà, anh chỉ là người đứng tên làm thủ tục xin phép xây dựng, chị T
không có công sức gì. Mẹ anh không biết bố anh ký hợp đồng cho đất, đề nghị HĐXX
bác kháng cáo của chị T và y án sơ thẩm.
5
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HN phát biểu ý kiến: Về tố tụng:
Các đương sự, thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ Luật
tố tụng dân sự. Về nội dung: Sau khi phân tích nội dung vụ án, nội dung đơn kháng
cáo và đánh giá chứng cứ, đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP HN đề nghị HĐXX bác
kháng cáo của chị T và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiªn cøu c¸c tµi liÖu, chøng cø ®· thu thËp cã trong hå s¬ vô ¸n trªn c¬
së thÈm tra, xem xÐt t¹i phiªn toµ. C¨n cø vµo kÕt qu¶ tranh luËn trªn c¬ së xem xÐt
®Çy ®ñ, toµn diÖn lêi khai cña các ®-¬ng sù, ý kiến luật sư và cña ®¹i diÖn ViÖn kiÓm
s¸t, Héi ®ång xÐt xö (HĐXX) thấy:
Về tố tụng: Ngày 27/11/2018, Tòa án nhân dân quận HĐ xét xử sơ thẩm và tuyên
án. Không đồng ý với bản án sơ thẩm, ngày 07/12/2018 chị Hg Th T nộp đơn kháng
cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự và đã nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên kháng cáo là hợp lệ, vụ án được xem xét theo thủ
tục phúc thẩm.
Về nội dung: Xét kháng cáo của chị Hg Th T yêu cầu công nhận Hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất số 2643 ngày 28/11/2008, HĐXX thấy:
Nguồn gốc thửa đất số 62 tờ bản đồ số 00, diện tích 71m2 tại phường VM (nay là
phường ML 2) quận HĐ, HN là đất giãn dân giao cho hộ gia đình. Năm 2007, ông Ng
Đ Ph và bà L Th T1 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ).
Tại Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 2643 (được UBND phường ML 2
xác nhận ngày 28/11/2008) có nội dung: bên chuyển quyền sử dụng đất: ông Ng Đ Ph
và bà L Th T1, bên nhận quyền sử dụng đất: ông Ng Đ H1 và bà Hg Th T; Hình thức
chuyển quyền: Bố mẹ cho con; Thửa đất chuyển quyền số 62 tờ bản đồ số 00 phường
ML 2. Như vậy, Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 2643 là Hợp đồng tặng cho
bất động sản nên Hợp đồng phải được công chứng, chứng thực theo quy định tại điều
467 Bộ Luật dân sự 2005.
Hợp đồng số 2643 không ghi thời gian, địa điểm ký kết, bà T1 là chủ sử dụng đất
hợp pháp nhưng không ký tên vào Hợp đồng. Ông Ph (chồng bà T1) xác nhận chữ
“T1” trong Hợp đồng là do ông viết không có sự ủy quyền của bà T1 nhưng vẫn được
UBND phường ML 2 xác nhận là vi phạm các điều 11, 43 Nghị định 75/NĐ-CP ngày
08/12/2000 của Chính phủ. Tại Kết luận giám định số 428 ngày 06/12/2017 của Viện
Khoa học hình sự - Tổng Cục cảnh sát đã kết luận: chữ “T1” và các chữ “L Th T1”
dưới mục “BÊN CHUYỂN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT” trong Hợp đồng số 2643
không phải chữ viết của bà T1. Bà T1 xác nhận chưa bao giờ bà cho anh H1 chị T thửa
đất này nên Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 2643 vô hiệu, không là căn cứ để
đăng ký thay đổi nội dung Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sang tên anh H1 và chị
T. Chị T kháng cáo đề nghị được công nhận Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số
2643 và được giữ nguyên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng chị
là không có căn cứ nên không được HĐXX chấp nhận.
6
Tuy nhiên, xem xét diễn biến quá trình sử dụng đất và đánh giá toàn diện các
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, HĐXX thấy:
Tại bản tự khai ngày 06/1/2017 (BL85), ông Ng Đ Ph khai: “…Năm 2008, con
dai tôi xin chuyển sổ đỏ chính tên Ng Đ H1 để đi vay tiền ngân hàng về làm ăn cho
vay lấy lãi. Sau vài năm, một số người bỏ chạy, con trai tôi mất hơn năm tỷ, tôi là bố
phải bán hai thửa đất giãn dân để trả tiền ngân hàng lấy sổ đỏ về. Sau một thời gian
gia đình lục đục, vợ chồng con tôi bỏ nhau. Vậy tôi trình bày sự việc trên là đúng, tôi
xin các cấp xét cho tôi được chuyển lại sổ đỏ chính tên của vợ chồng tôi”.
Tại Đơn trình bày của ông Ph không đề ngày tháng năm (BL83) cũng có nội
dung: “Năm 2008 con trai tôi xin chuyển sổ đỏ chính tên Ng Đ H1 để vay tiền ngân
hàng về cho vay lấy lãi. Sau vài năm một số người bỏ chạy, con tôi mất hơn năm tỷ
đồng. Tôi là bố phải bán hai thửa đất giãn dân để trả tiền ngân hàng lấy sổ đỏ về. Sau
hơn một năm con dâu bỏ nhà bỏ chồng đến nay được hơn ba năm…Tôi mong các ban
ngành địa phương chứng nhận cho tôi”. Đơn này có chữ ký của tổ trưởng tổ dân phố
số 16 và 04 người hàng xóm của ông Ph.
Quá trình tham gia tố tụng, anh H1 cũng xác nhận: Năm 2011, anh H1 thế chấp
nhà đất nêu trên để vay Ngân hàng VNTV 03 tỷ đồng. Do làm ăn thua lỗ nên năm
2013 ông Ph bà T1 đã phải bán lô đất khác lấy tiền cho anh trả nợ Ngân hàng để xóa
thế chấp lấy sổ đỏ về.
Như vậy, các tình tiết và chứng cứ nêu trên đủ cơ sở để HĐXX xác định ngay từ
năm 2008 ông Ph đã đồng ý và chủ động sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho anh H1 để anh H1 mang thế chấp vay vốn ngân hàng. Nay ông Ph và anh H1 lại
khai rằng: Năm 2008 anh H1 đã lừa dối ông Ph, tự ý làm Hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất kèm lẫn vào các giấy tờ xin cấp phép xây dựng nhà để ông Ph ký và ông Ph
không biết nội dung Hợp đồng là không có căn cứ và mâu thuẫn với các tài liệu, chứng
cứ đã viện dẫn nêu trên.
Trong Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 2643 thể hiện trên thửa đất số 62
có nhà cấp 4 diện tích 20m2. Tại phiên tòa Phúc thẩm, anh H1 xác nhận năm 2009,
anh là người làm thủ tục xin phép xây dựng nhà, chị T có văn bản khai: Sau khi được
sang tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 2009 vợ chồng chị phá nhà cũ cấp
4 xây lại thành nhà 5 tầng như hiện nay nên HĐXX có căn cứ xác định tài sản trên
thửa đất số 62 là ngôi nhà 5 tầng, chị T có công sức đóng góp.
Về đất: thửa đất số 62, diện tích 71m2, tờ bản đồ số 00 phường VM là đất giãn
dân giao cho hộ gia đình nên các thành viên là anh H1, chị T có quyền sử dụng. Ngày
05/4/2007, UBND thành phố HĐ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI
496342 mang tên chủ sử dụng là Ng Đ Ph - L Th T1 (không phải là cấp cho hộ gia
đình) nhưng quá trình tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn, chị Tt không có yêu cầu
phản tố khiếu kiện Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên cá nhân ông Ph, bà
T1 nên Tòa án không có căn cứ để xem xét Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp
cho ông Ng Đ Ph và bà L Th T1 ngày 05/4/2007.
Tại mục VI của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI 496342 ngày
05/4/2007 có ghi nội dung thay đổi sau khi cấp Giấy chứng nhận: “Ngày 13/12/2008
ông (bà) Ng Đ H1 – Hg Th T… đã nhận tặng cho quyền sử dụng đất theo Hợp đồng
7
chuyển QSDĐ số 2643 được UBND thành phố HĐ duyệt ngày 13/12/2008”. Ông Ph là
người cầm giữ Giấy chứng nhận này nên ông Ph khai ông không biết GCNQSDĐ đã
sang tên anh H1 chị Tt là không có căn cứ. Việc ông Ph không xem, không đọc nội
dung thay đổi trong GCNQSDĐ đã cấp là thuộc trách nhiệm của ông.
Từ những đánh giá và phân tích các chứng cứ nêu trên, HĐXX đủ căn cứ xác
định: Tháng 11/2008, ông Ng Đ Ph đã tặng cho con là Ng Đ H1 và Hg Th T quyền sử
dụng thửa đất số 62 mà ông đã được cấp Giấy chứng nhận. Thủ tục tặng cho và nhận
Quyền sử dụng đất giữa ông Ph và anh H1 chị T là hợp pháp, đúng pháp luật. Tuy
nhiên, thửa đất số 62 nêu trên là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng ông Ph, bà T1
chưa phân chia nên không xác định được phần của ông Ph được hưởng. Hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất số 2643 bà T1 không ký, không điểm chỉ là vô hiệu, cấp sơ
thẩm xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T1 đề nghị hủy Hợp đồng số 2643 là có
căn cứ.
Tuy nhiên, căn cứ vào diễn biến quá trình sử dụng đất và các chứng cứ đã được
phân tích ở trên, HĐXX thấy anh H1 và chị T có quyền lợi đối với nhà đất mà ông Ph
và bà T1 đã được cấp Giấy chứng nhận ngày 05/4/2007. Thực tế từ năm 2016 đến nay,
giữa anh H1 và chị T mâu thuẫn căng thẳng, anh chị cũng đã nộp đơn xin ly hôn tại
Tòa án. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp cho chị Tòa án sẽ giải
quyết bằng vụ án khác khi chị T có đơn khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung là nhà đất
tại thửa số 62 khu giãn dân ML 1, phường ML 2, quận HĐ, HN. Bản án sơ thẩm
không quyết định về nội dung này là chưa đảm bảo quyền lợi cho chị T khi Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã sang tên vợ chồng chị ngày 13/12/2008 bị kiến nghị
thu hồi. Vì vậy, HĐXX sửa lại một phần bản án sơ thẩm cho phù hợp với quy định của
pháp luật.
Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà T1 được chấp nhận nên anh H1, chị T
phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; Do sửa một phần bản án sơ thẩm nên chị T không
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Bởi các lẽ trên;
QuyÕt ®Þnh:
Căn cứ khoản 2 điều 308 Bộ Luật Tố tụng dân sự: Sửa một phần bản án dân sự sơ
thẩm số 29/2018/DS-ST ngày 27/11/2018 của Tòa án nhân dân quận HĐ, Thành phố
HN. Cụ thể:
Căn cứ: Các điều 293, 309, 313 Bộ Luật Tố tụng dân sự; các điều 127, 129, 137,
689, 722 Bộ Luật dân sự 2005; Pháp lệnh Án phí, lệ phí Tòa án; Khoản 2 điều 29 Nghị
quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L Th T1.
Hủy Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 2643/CQSDĐ/HĐ có xác nhận của
UBND phường ML 2 ngày 28/11/2008 giữa bên chuyển quyền sử dụng đất là ông Ng
Đ Ph và bà L Th T1, bên nhận quyền sử dụng đất là anh Ng Đ H1 và chị Hg Th T.
8
2/ Kiến nghị Ủy ban nhân dân quận HĐ hủy bỏ nội dung: “ngày 13/12/2008 Ông
(bà) Ng Đ H1 – Hg Th T thường trú tại tổ 1 ML 2, phường ML 2, Thành phố HĐ, HN
đã nhận cho tặng quyền sử dụng đất theo Hợp đồng CQSD đất số 2643 được UBND
Thành phố HĐ duyệt ngày 13/12/2008” ghi tại mục VI (những thay đổi sau khi cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AI
496342 ngày 05/4/2007.
3/ Chị Hg Th T được quyền khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung bằng một vụ án
khác.
4/ Về án phí:
- Anh Ng Đ H1 phải nộp 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Chị Hg Th T phải nộp 200.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và không phải chịu
án phí dân sự phúc thẩm, đối trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm chị
T đã nộp theo Biên lai số 0002113 ngày 10/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự
quận HĐ, chị T còn được trả lại 100.000 đồng.
- Trả lại bà L Th T1 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên
lai số 0003043 ngày 19/12/2016 của Chi cục Thi hành án dân sự quận HĐ.
5/ Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
6/ Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 25/7/2019.
- VKSND TP HN;
- TAND quận HĐ;
- THADS quận HĐ;
- Các đương sự;
- Lưu HS/VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PH THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Thu Hg
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 16/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 10/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 09/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 02/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm