Bản án số 182/2025/HC-ST ngày 31/10/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 182/2025/HC-ST

Tên Bản án: Bản án số 182/2025/HC-ST ngày 31/10/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lâm Đồng
Số hiệu: 182/2025/HC-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/10/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 182/2025/HC-ST
Ngày: 31-10-2025
V/v khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực
quản lý đất đai
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
+ Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Lê Phương
+ Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trương Vĩnh Kỳ và bà Lê Thị Hằng
- Thư phiên tòa: Trần Thị Huyền Anh - Thư Tòa án của Tòa án
nhân dân tỉnh Lâm Đồng
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Thùy Dương - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 22 ngày 31 tháng 10 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Lâm Đồng (Cơ sở 1) xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý s
213/2025/TLST-HC ngày 19/6/2025 về việc:“Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản đất đai”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét x số
208/2025/QĐXXST-HC ngày 29/9/2025 Quyết định tạm ngừng phiên tòa số
414/2025/QĐST-HC ngày 22/10/2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, giữa
các đương sự:
1. Người khởi kiện: Thị Tuyết N, sinh năm 1968; địa chỉ: Khu phố
A, phường T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận (Nay khu phố A, phường P, tỉnh
Lâm Đồng). (Vắng mặt)
Người đại diện theo y quyền: Ông Nguyễn Tấn P, sinh năm 1985; địa
chỉ: Tổ C khu phố D, phường T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận (Nay là tổ C khu
phố D, phường P, tỉnh Lâm Đồng). (Có mặt)
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố P Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố P;
2
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường
P, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P: Ông
Thế P1 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P (Theo Công văn số
1509/UBND-KTHTĐT ngày 22/10/2025). (Vắng mặt)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp (Theo Công văn số 1509/UBND-
KTHTĐT ngày 22/10/2025):
1/ Ông Nguyễn Thanh T Phó Trưởng phòng Kinh tế, Hạ tầng Đô thị
phường P. (Vắng mặt)
2/ Bà Phạm Thị Minh H – Luật sư Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L.
(Có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ủy ban nhân dân phường T;
Người kế thừa quyền nghĩa vụ tố tụng: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường
P, tỉnh Lâm Đồng. (Vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P: Ông
Thế P1 Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P (Theo Công văn số
1509/UBND-KTHTĐT ngày 22/10/2025). (Vắng mặt)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp (Theo Công văn số 1509/UBND-
KTHTĐT ngày 22/10/2025):
1/ Ông Nguyễn Thanh T Phó Trưởng phòng Kinh tế, Hạ tầng Đô thị
phường P. (Vắng mặt)
2/ Bà Phạm Thị Minh H – Luật sư Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh L.
(Có mặt)
3.2. Ông Phi H1, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn P, H, huyện H, tỉnh
Bình Thuận (Nay là thôn P, xã T, tỉnh Lâm Đồng). (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/6/2025, các tài liệu, chứng cứ trong
hồ sơ vụ án, người khởi kiện bà Lê Thị Tuyết N trình bày:
Thị Tuyết N quản lý, sử dụng thửa đất do mua lại của ông Nguyễn
Hữu T1 vào năm 1995 đsử dụng vào mục đích xây dựng hấp cơm. Thửa
đất nguồn gốc do ông Nguyễn Hữu H2 khai hoang sdụng. Năm 1993, ông
H2 viết Giấy cho lại đất cũ, cho em là Trương Sỹ V sử dụng, diện tích đất (13m
x 17m) = 221 m², vị trí thửa đất tại tổ F, dân phố B, T. Tứ cận thửa đất: Phía đông
giáp đất của ông Nguyễn Văn C, phía tây giáp nhà Thị Tuyết N, phía
nam giáp biển, phía bắc giáp nhà ông T2. Giấy cho đất được Ủy ban nhân dân
3
phường T xác nhận vào ngày 16/6/1993. Đồng thời qua lời trình bày của các
hộ dân đã xác định nguồn gốc thửa đất bà N đang sử dụng do mua lại, không
phải đất lấn chiếm.
Trong quá trình sử dụng diện tích đất nêu trên, N khai đăng cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân (Viết tắt UBND) phường T
ban hành Công văn số 371/UBND-DC ngày 23/4/2020, về việc không đủ điều
kiện công nhận quyền sử dụng đất tại khu phố A, phường T đối với hộ bà Lê Thị
Tuyết N. Đồng thời yêu cầu bà Lê Thị Tuyết N phải tháo dỡ các vật kiến trúc trên
đất. N đã chấp hành nhưng đây lại sở để sau này UBND phường T làm
căn cứ cho rằng trên đất không có nhà nên đề nghị cấp cho bà N đất cây trồng dù
trên đất vẫn còn kiềng đá xây dựng. Vị trí đất trên được nnước quy định phù
hợp quy hoạch đất ở đô thị.
Tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 105/QĐ-UBND ngày 02/7/2020 của
Chủ tịch UBND phường T về việc giải quyết khiếu nại của Thị Tuyết N,
thường trú khu phố A, phường T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận (Lần đầu) đã giữ
nguyên nội dung Công văn số 371/UBND-DC ngày 23/4/2020, về việc trả lời đơn
không đủ điều kiện công nhận quyền sử dụng đất tại khu phố A, phường T cho hộ
bà Lê Thị Tuyết N.
Tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 6155/QĐ-UBND ngày 26/10/2021
của Chủ tịch UBND thành phố P về việc giải quyết khiếu nại của Thị Tuyết
N (Lần hai) đã công nhận nội dung khiếu nại đúng hủy bỏ Quyết định giải
quyết khiếu nại số 105/QĐ-UBND ngày 02/7/2020 của Chủ tịch UBND phường
T về việc giải quyết khiếu nại của Thị Tuyết N, thường trú khu phố A,
phường T, thành phố P, tỉnh Bình Thuận (Lần đầu).
Sau khi có kết quả giải quyết khiếu nại lần 2 của Chủ tịch UBND thành phố
P, bà Lê Thị Tuyết N làm thủ tục kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thì được UBND thành phố P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số DQ 379886 ngày
31/12/2024 đối với thửa đất số 68, tờ bản đồ số 20, diện tích 179,4 m
2
, loại đất
trồng cây hàng năm khác (HNK).
Tuy nhiên, căn cứ vào kết quả xác minh tại Quyết định giải quyết khiếu nại
số 6155/QĐ-UBND ngày 26/10/2021 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố P
thì nguồn gốc đất của bà Thị Tuyết N được khai hoang, dựng nhà trước ngày
15/10/1993 nhưng xác định loại đất trồng cây hàng năm khác (HNK) không
đúng thực trạng sử dụng đất, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà
Lê Thị Tuyết N. Bởi lẽ: Thửa đất này có nguồn gốc do ông Nguyễn Hữu H2 khai
hoang trước năm 1993 cho lại em Trương Sỹ V sử dụng, giấy cho đất (Kèm
theo vị trí thửa đất) đã được Ủy ban nhân dân phường T xác nhận vào ngày
4
16/6/1993, nguồn gốc đất có nhà, phù hợp với quy hoạch đất ở đô thị hình thành
trước ngày 15/10/1993.
Vì vậy, bà N yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà ở tài sản khác gắn liền với đất số DQ 379886 ngày 31/12/2024 của Ủy ban
nhân dân thành phố P để Ủy ban nhân dân thành phố P ban hành lại giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đúng với loại đất đất ở đô thị theo hiện trạng thực tế sử
dụng đất.
Đối với Giấy chứng nhận quyền sdụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số AA 00151172 ngày 30/5/2025 cấp cho thửa đất số 19, tờ
bản đồ số 20, diện tích 76 m
2
, loại đất trồng cây hàng năm khác (H4), Ủy ban
nhân dân thành phố P đã căn cứ Tờ trình số 1037/TTr-UBND ngày 13/9/2024 của
Ủy ban nhân dân phường T về việc đăng đất đai, tài sản gắn liền với đất cho
Thị Tuyết N đối với thửa đất tại khu phố A xác định loại đất trồng cây hàng
năm khác (HNK) diện tích 76 không đúng thực trạng sử dụng đất, gây
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà N. Bởi lẽ: Thửa đất này có nguồn
gốc bà N người khai hoang trước ngày 15/10/1993. Đến năm 1994, N bán
lại cho vợ chồng ông Vũ Hoài C1 xây nhà để . Do điều kiện khó khăn, năm 2002
vợ chồng ông C1 bán lại Thị Tuyết N. Đến năm 2003, N sử dụng làm
kho chứa vật liệu hấp (Có hình ảnh minh họa) sử dụng ổn định đến nay
không tranh chấp với ai, ranh kiềng nhà ràng (Kèm theo vị trí thửa đất) đã
được UBND phường T xác nhận vào năm 2002, nguồn gốc đất nhà, hình thành
trước ngày 15/10/1993. Đồng thời tại phiếu đo đạc chỉnh lý thửa đất ngày
26/3/2025 của Chi nhánh Văn phòng Đ thể hiện diện tích đất là 176,0 m². Thực tế
đã được các hộ dân sống lâu năm tại khu vực đất bà mua xác nhận, hiện nay nền
móng tường xây vẫn còn, phần mái tôn do thời gian đã bị rỉ sét nên không còn.
Vì vậy, bà N yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
tài sản gắn liền với đất số AA 00151172 ngày 30/5/2025 của Ủy ban nhân dân
thành phố P để Ủy ban nhân dân thành phố P ban hành lại Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đúng với loại đất đất đô thị theo hiện trạng thực tế sử dụng đất và
diện tích sử dụng là 176,0 m
2
. Từ những n cứ nêu trên, bà Lê Thị Tuyết N khởi
kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng giải quyết những vấn đề sau đây:
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản
khác gắn liền với đất số DQ 379886 ngày 31/12/2024 của Ủy ban nhân dân thành
phố P cấp cho Thị Tuyết N, diện tích 179,4 tại khu phố A, phường T,
thành phố P, tỉnh Bình Thuận.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất số AA 00151172 ngày 30/5/2025 của Ủy ban nhân dân thành phố P, cấp cho
Thị Tuyết N, diện tích 76m
2
tại khu phố A, phường T, thành phố P, tỉnh
Bình Thuận.
5
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố P thực hiện nhiệm vụ công vtheo quy
định pháp luật trong việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Lê Thị
Tuyết N.
Ngày 04/8/2025 bà Lê Thị Tuyết N nộp đơn khởi kiện bổ sung: Yêu cầu Tòa
án nhân dân tỉnh Lâm Đồng hủy Quyết định số 4804/QĐ-XPHC ngày 26/6/2025
của Chủ tịch UBND thành phố P xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xây dựng
kiềng đá lấn chiếm đất nhà nước.
do: Thửa đất số 19 nguồn gốc sử dụng trước năm 1993, diện tích lớn
hơn hiện tại, ranh kiềng đá chẽ được xây dựng lại vào năm 2002, sử dụng ổn định
không tranh chấp với ai. Việc ra quyết định xử phạt cho rằng bà N chiếm đất nhà
nước không đúng thực tế, thiếu căn cứ pháp lý. bản đồ 920 được bàn giao
cho UBND phường tiếp quản vào năm 1997, đất Thị Tuyết N sử dụng ổn
định trước năm 1997 và chưa nhận được quyết định thu hồi ca nhà nước.
2. Người bị kiện, người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị
kiện: Không có ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Tuyết N.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày tại phiên
tòa: Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện. Bởi vì: Đối với thửa đất được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất quyền shữu nhà tài sản khác gắn liền với
đất số DQ 379886 ngày 31/12/2024, thửa đất số 68, tờ bản đồ số 20, diện tích
179,4 m
2
, loại đất trồng cây hàng năm khác (HNK) thì hiện trạng thửa đất kiềng
nhưng không nhà nên không xác định đất ở. Đối với Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất số AA 00151172 ngày
30/5/2025 cấp cho thửa đất số 19, tờ bản đồ số 20, diện tích 76 m
2
, loại đất trồng
cây hàng năm khác (HNK), thì bà N sử dụng diện tích đất vị trí không đúng so
với bản đồ 60/CP và bản đồ 920 nên UBND thành phố P và trên đất không có nhà
nên phải cấp giấy chứng nhận đối với diện tích đất 76 m
2
. Do N sử dụng
không đúng vị trí thửa đất, lấn sang thửa đất nhà nước đang quản lý nên việc Chủ
tịch UBND thành phố P xử phạt vi phạm hành chính là hoàn toàn đúng quy định.
Đề nghị Tòa án bác đơn khởi kiện của bà N.
Tại phiên tòa:
1. Người đại diện theo ủy quyền của Thị Tuyết N vẫn giữ nguyên toàn
bộ yêu cầu khởi kiện, đề nghTòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
N.
2. Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của Chủ tịch UBND phường P
phát biểu ý kiến không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N, đề nghị Hội đồng
xét xử bác yêu cầu khởi kiện của bà.
3. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm giải
quyết vụ án:
6
Về tố tụng: Trình tự, thủ tục gii quyết vụ án được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật tố tụng hành chính. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét
xử, những người tiến hành tố tụng, việc chấp hành pháp luật của những người
tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Việc UBND thành phố P xác định loại đất, diện tích đất mà
N đang sử dụng cũng như việc xác định bà N lấn chiếm đất do nhà nước quản lý
chưa chính xác, thiếu căn cứ pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp
pháp của đương sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của bà Lê Thị Tuyết N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, đã được kiểm tra
xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên,
các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định:
[1] Về đối tượng bị khởi kiện quan hệ pháp luật tranh chấp: Thị
Tuyết N khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hai Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất (Viết tắt GCNQSDĐ) của
UBND thành phố P; đồng thời yêu cầu bổ sung hủy bỏ Quyết định số 4804/QĐ-
XPHC ngày 26/6/2025 của Chủ tịch UBND thành phố P xử phạt vi phạm hành
chính về hành vi xây dựng kiềng đá lấn chiếm đất nhà nước. Các GCNQSDĐ và
quyết định xử phạt vi phạm hành chính nêu trên có nội dung điều chỉnh các quan
hệ trong hoạt động quản lý nhà nước vđất đai là đối tượng khởi kiện vụ án hành
chính, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận (Nay
tỉnh Lâm Đồng) theo quy định tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2025/NQ-HĐTP ny
27/6/2025 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, khoản 1 Điều 30,
khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Về việc thụ yêu cầu khởi
kiện bổ sung đối với Quyết định số 4804/QĐ-XPHC ngày 26/6/2025 của Chủ tịch
UBND thành phố P xử phạt vi phạm hành chính. Xét thấy quyết định hành chính
này liên quan đến việc cấp GCNQSDĐ, thời điểm bà N bổ sung yêu cầu khởi
kiện, Tòa án chưa tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và đối thoại nên cần thiết phải thụ để giải quyết trong cùng vụ
án.
[2] Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính: Ngày 31/12/2024 Ủy ban nhân
dân thành phố P cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số DQ 379886 cho bà Thị Tuyết N. Ngày
30/5/2025 Ủy ban nhân dân thành phố P cấp cho bà Lê Thị Tuyết N Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất sAA 00151172
ngày 26/6/2025 của Chủ tịch UBND thành phố P ban hành Quyết định số
4804/QĐ-XPHC xử phạt vi phạm hành chính đối với bà N.
[3] Về thủ tục tố tụng:
7
[3.1] Người bị kiện người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt
nhưng có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
theo thủ tục chung.
[3.2] Về kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng hành chính: Từ ngày 01/7/2025
chính quyền địa phương chỉ còn hai cấp tỉnh xã, theo quy định tại khoản 1 Điều
5 Nghị định số 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ thì việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, xử phạt vi phạm hành chính về đất thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch UBND cấp xã. Thửa đất của bà N tọa lạc tại phường T, thành
phố P, tỉnh Bình Thuận (Nay là phường P, tỉnh Lâm Đồng) nên Chủ tịch UBND
phường P tham gia tố tụng với tư cách là người bị kiện.
[4] Về thẩm quyền ban hành các quyết định hành chính có tranh chấp:
[4.1] Ngày 31/12/2024 Ủy ban nhân dân thành phố P cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số DQ
379886 cho Thị Tuyết N. Ngày 30/5/2025 Ủy ban nhân dân thành phố P
cấp cho bà Lê Thị Tuyết N Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài
sản gắn liền với đất số AA 00151172. Việc cấp hai GCNQSDĐ của UBND thành
phố P là đúng trình tự, thủ tục và thẩm quyền theo điểm b khoản 1 Điều 136 Luật
Đất đai 2024.
[4.2] Về thẩm quyền ban hành Quyết định số 4804/QĐ-XPHC ngày
26/6/2025 xử phạt vi phạm hành chính đối với bà N đúng thẩm quyền quy định
tại khoản 2 Điều 30 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP ngày 04/10/2024 của Chính
phủ.
[5] Về nội dung tranh chấp:
[5.1] Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số DQ 379886 ngày 31/12/2024 cho bà Lê Thị Tuyết N
đối với thửa đất số 68, tờ bản đồ số 20, diện tích 179,4 m
2
loại đất trồng cây hàng
năm khác (HNK) thì hiện trạng thửa đất kiềng nhưng không nhà nên không
xác định là đất . Về trình tự, thủ tục và nguồn gốc thửa đất đã được xác minh đầy
đủ, đúng quy định. Đủ cơ sở xác định: Thửa đất số 68, tờ bản đồ số 20, diện tích
179,4 m
2
nguồn gốc do ông Nguyễn Hữu H2 khai hoang năm 1993. Sau đó
ông H2 cho ông Trương Sỹ V sử dụng làm nhà ở được Ủy ban nhân dân phường
T xác nhận vào ngày 16/6/1993 theo Giấy cho lại đất cũ. Ông V bán lại cho ông
Nguyễn Hữu T1. Đến năm 1995, Thị Tuyết N mua lại của ông Nguyễn Hữu
T1 để sử dụng vào mục đích xây dựng hấp cơm. Sau đó bà N đăng
khai cấp Giấy chứng nhận cho thửa đất s68. Vấn đtranh chấp việc xác
định loại đất N đang sử dụng loại đất hay đất trồng cây hàng năm khác.
Căn cứ để UBND thành phố P UBND phường T xác định loại đất của N
trên cơ sở xác định hiện trạng bà N sử dụng đất là thửa đất không có nhà ở.
8
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Điều 7 Nghị định 102/2024/NĐ-CP
ngày 30/7/2024 của Chính phủ: Đất đất làm nhà các mục đích khác phục
vụ cho đời sống trong cùng một thửa đất. Như vậy ngoài việc xác định hiện trạng
thửa đất có nhà ở thì đất ở còn được xác định khi đất được sử dụng vào các mục
đích khác phục vụ cho đời sống. Tại Giấy cho lại đất cũ (Bút lục số 300) được Ủy
ban nhân dân phường T xác nhận vào ngày 16/6/1993, Tờ trình số 1490/TTr-
UBND ngày 05/12/2024 của UBND phường T (Bút lục số 302) các tài liệu xác
minh khác trong hồ cấp GCNQSDĐ số DQ 379886 ngày 31/12/2024 của bà N
thì thửa đất số 68 từ lúc khai hoang đến lúc chuyển nhượng cho N đều dùng
vào mục đích cất nhà sau đó nhà sập chỉ còn ranh kiềng. Tòa án đã xem xét,
thẩm định tại chổ thì phần kiềng này vẫn còn trên thửa đất. Điều này phù hợp với
phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất ngày 27/6/2024 và các bản vẽ
thửa đất số 68 của Chi nhánh Văn phòng Đ (Bút lục số 291, 282, 281, 280) phù
hợp với hình ảnh trước đây bà N sử dụng một phần đất để và một phần làm chổ
hấp, phơi cá. Như vậy, N không hoạt động sản xuất nông nghiệp chỉ sử dụng
thửa đất đphục vụ cho đời sống của mình hấp cá, phơi cá, không sản xuất
nông nghiệp, việc sử dụng đất của bà N phù hợp với bản đồ quy hoạch đất ở nên
UBND thành phố P xác định toàn bộ diện tích 179,4 m
2
của thửa đất số 68, tờ bản
đồ số 20 là loại đất trồng cây hàng năm khác là chưa chính xác.
Do đó HĐXX cần phải hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở
hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DQ 379886 do UBND thành phố P
cấp ngày 31/12/2024 để xem xét lại phần diện tích đất ở trong thửa đất số 68, tờ
bản đồ số 20, diện tích 179,4 m
2
.
[5.2] Về việc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn
liền với đất số AA 00151172 ngày 30/5/2025 của Ủy ban nhân dân thành phố P
cấp cho Lê Thị Tuyết N đối với thửa đất số 19, tờ bản đồ số 20, diện tích 76m
2
,
loại đất trồng cây hàng năm khác (HNK), tại khu phố A, phường T, thành phố P,
tỉnh Bình Thuận.
- Vnguồn gốc thửa đất, theo hồ cấp GCNQSDĐ của thửa đất số 19, thửa
đất này nguồn gốc bà N khai hoang trước ngày 15/10/1993, được UBND
phường T xác nhận vào năm 2002. Đến năm 1994, bán lại cho vợ chồng ông
Vũ Hoài C1 xây nhà để ở. Đến năm 2002, vợ chồng ông C1 bán lại cho bà N. Bà
N sử dụng làm kho chứa vật liệu hấp (Có hình ảnh minh họa) sử dụng ổn
định, trên đất có ranh kiềng nhà rõ ràng, xung quanh thửa đất được xây kiềng bảo
vệ thửa đất.
- Về giấy tờ về đất: Tại sổ mục kê, diện tích thửa đất số 19 122,3m
2
loại
đất ODT, theo bản đ60/CP bản đồ đo vtheo Quyết định số 920 của UBND
tỉnh B thì thửa đất số 19 có diện tích 122,3m
2
, loại đất ở.
- Về hiện trạng thửa đất số 19: Tại phiếu đo đạc chỉnh thửa đất ngày
9
26/3/2025 của Chi nhánh Văn phòng Đ thể hiện diện tích đất 176,0 m². Thửa
đất vị trí lệch so với bản vẽ 60/CP bản v920 chỉ còn 76m
2
. Tcận thửa đất
ổn định, không tranh chấp với các hộ dân xung quanh.
Vấn đề tranh chấp đối với thửa đất số 19 là xác định loại đất, phần diện
tích đất (Khoảng gần 100 m
2
) nằm ngoài bản vẽ thửa đất là đất nhà nước quản lý
hay đất người dân sử dụng hợp pháp. Xét thấy, về loại đất, tại sổ mục kê, bản đồ
60/CP và bản đồ đo vẽ theo Quyết định số 920 đều xác định loại đất là đất ở. Đối
chiếu hiện trạng thửa đất kiềng nhà cũ, nền nhà và xung quanh thửa đất được
xây kiềng bảo vệ đất, không hoạt động sản xuất nông nghiệp, không trồng
cây. Như vậy việc xác định loại đất bà N sử dụng là loại đất trồng cây hàng năm
khác là thiếu căn cứ.
[5.3] Về việc xác định phần diện tích bà N sử dụng không đúng vị trí bản vẽ
của thửa đất số 19. Theo UBND phường T xác định, diện ch đất 99,7m
2
N
đang lấn chiếm thuộc thửa đất số 38 có diện tích 55m
2
44,7m
2
thuộc thửa đất
số 50 do phường quản lý. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên
tòa người bị kiện đều xác định không văn bản nào thể hiện việc quản thửa
đất số 38, thửa đất số 50 ngoài bản đồ trích đo tổng thể 60/CP (Đo vẽ năm 1997)
và bản đồ 920 (Bắt đầu thực hiện từ năm 2009) tại khu vực thửa đất số 19 của bà
N. Người bị kiện xác định quản thửa đất bằng bản đồ 60/CP bản vẽ 920. Tuy
nhiên, tại phiên tòa người bị kiện xác định không không thể cung cấp bản
đồ giải thửa cụ thể của từng thửa đất số 38 và thửa đất số 50. Trong khi đó tại bản
đồ trích đo tổng thể khu vực số 60/CP chỉ thể hiện thửa đất số 38, cạnh thửa
đất số 38 là bãi cát. Tờ bản đồ trích đo tổng thể vị trí thửa đất 920 thì mới thể hiện
thửa đất số 50, tức từ năm 2009 mới thửa đất số 50. Ngoài ra, người bị
kiện không cung cấp được kế hoạch sử dụng đất, bản đồ quy hoạch thửa đất số 38
số 50. Như vậy việc người bị kiện cho rằng quản thửa đất thiếu căn cứ.
Trong khi thửa đất N sử dụng được xét pháp ổn định, trên đất xây dựng
nhà kho, tứ cận không tranh chấp từ trước năm 1993.
[5.4] Tại khu vực vị trí thửa đất số 19 được thể hiện trong hồ cấp
GCNQSD đất của N phát sinh hiện tượng nước biển xâm thực, khu vực thửa
đất số 19 bị ngập nước từ năm 1996 đến năm 2003. Tại biên bản làm việc ngày
19/6/2025 của UBND phường T với Trung tâm K đã xác định từ năm 1996 trạm
giống thủy sản của Trung tâm bị sập hoàn toàn tnăm 1995-1996. Từ đó đến nay
Trung tâm không quản đất. Mặc dù vậy Trung tâm không cung cấp bất cứ giấy
tờ nào về thửa đất số 38. Từ năm 2003 trở lại đây khu vực này không còn hiện
tượng này nữa do đất bồi lên. Như vậy hiện tượng tự nhiên này có thể đã làm sai
lệch vị trí thửa đất hoặc sai lệch trong đo vẽ, hiện trạng sử dụng đất hiện nay của
các hộ dân không còn như khi đo vẽ bản đđịa chính. Do đó việc UBND thành
phố P cấp GCNQSDĐ cho bà N không đúng hiện trạng sử dụng đất, không đúng
loại đất N đang sử dụng đã ảnh hưởng đến quyền lợi của N. HĐXX cần phải
10
hủy GCNQSDĐ cho bà N để cấp lại cho chính xác.
[5.5] Về việc Chủ tịch UBND thành phố P ban hành Quyết định số 4804/QĐ-
XPHC ngày 26/6/2025 xử phạt vi phạm hành chính đối với N về hành vi lấn
chiếm đất nhà nước quản lý. Về thẩm quyền xử phạt, Chủ tịch UBND thành phố
P xử phạt vi phạm hành chính đúng thẩm quyền tại khoản 2 Điều 30 Nghị định
123/2024/NĐ-CP ngày 04/10/2024 của Chính phủ. Về nội dung xử phạt Quyết
định số 4804/QĐ-XPHC xác định N lấn chiếm đất do UBND phường T quản
lý, cụ thể thửa đất số 38 thửa đất số 50. Như nhận định trên, UBND phường
T không xác định được việc quản hai thửa đất số 38 thửa đất số 50, nguồn
gốc hai thửa đất này xuất hiện từ lúc nào, giấy tờ về đất không được UBND
phường T cũng như UBND thành phố P cung cấp giải thích. Trong khi đó, việc
họp xét tính pháp lý của thửa đất số 19 thì chính UBND phường T xác định bà N
sử dụng đất ổn định, không tranh chấp. Hiện trạng thửa đất đã có kiềng, nền nhà
kiềng xây xung quanh bảo vệ đất từ năm 2002. N xác định vào tháng
4/2025 phần kiềng xây xung quanh thửa đất bị sập nên đã xây dựng lại trên
nền kiềng cũ, khi xây không xin phép. Như vậy hành vi của N hành vi
xây dựng không xin phép không phải hành vi chiếm đất. Do đó việc Chủ tịch
UBND thành phố P ban hành Quyết định số 4804/QĐ-XPHC ngày 26/6/2025 xử
phạt vi phạm hành chính đối với bà N về hành vi lấn chiếm đất nhà nước quản lý
là thiếu căn cứ.
[6] Từ những phân tích trên, HĐXX sở để khẳng định việc UBND
thành phố P cấp GCNQSDĐ cho bà N thiếu chính xác vloại đất, vdiện tích đất
nên cần phải hủy bỏ để cấp lại cho chính xác. Việc xử phạt vi phạm hành chính
đối N về lấn chiếm đất là không căn cứ. Yêu cầu khởi kiện của N về việc
hủy các quyết định hành chính này là có căn cứ chấp nhận.
[7] Ván phí chi phí tố tụng: Người bị kiện phải chịu án phí hành chính
thẩm. Về chi phí thẩm định tại chổ người khởi kiện tự nguyện chịu không
yêu cầu hoàn trả nên HĐXX không xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ:
- Điều 3, Điều 30, khoản 4 Điều 32, Điều 158, điểm b khoản 2 Điều 193 của
Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 4 Nghị quyết số 01/2025/NQ-HĐTP
ngày 27/6/2025 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
- Điểm b khoản 1 Điều 136, Điều 141 Luật Đất đai 2024;
- Khoản 1 Điều 5 và Điều 7 Nghị định số 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024
của Chính phủ;
11
- Khoản 2 Điều 30 Nghị định số 123/2024/NĐ-CP ngày 04/10/2024 của
Chính phủ;
- Khoản 1 Điều 5 Nghị định số 151/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính
phủ;
- Khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
2. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện bà Lê Thị
Tuyết N.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số DQ 379886 do Ủy ban nhân dân thành phố P cấp ngày
31/12/2024 cho bà Lê Thị Tuyết N.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu tài sản gắn liền với
đất số AA 00151172 do Ủy ban nhân dân thành phố P cấp ngày 30/5/2025 cho bà
Lê Thị Tuyết N.
- Hủy Quyết định số 4804/QĐ-XPHC ngày 26/6/2025 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố P xử phạt vi phạm hành chính đối với bà Lê Thị Tuyết N.
- Buộc Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P, tỉnh Lâm Đồng thực hiện nhiệm
vụ công vụ trong việc cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho bà Lê Thị Tuyết N theo đúng quy định
của pháp luật.
3. Về án phí: Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P, tỉnh Lâm Đồng phải chịu
300.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm. H3 lại cho bà Lê Thị Tuyết N 300.000
đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0000812 ngày 16/6/2025 của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Bình Thuận (Nay là cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng).
4. Quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (31/10/2025), các đương sự vắng mặt
quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản
án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng;
- THADS tỉnh Lâm Đồng;
- Đương sự;
- Cổng TTĐT-TANDTC;
- Tổ HCTP, THC –TAND tỉnh Lâm
Đồng;
- Lưu: Hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Lê Phương
Tải về
Bản án số 182/2025/HC-ST Bản án số 182/2025/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 182/2025/HC-ST Bản án số 182/2025/HC-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án mới nhất