Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST ngày 27/06/2024 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 17/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST ngày 27/06/2024 của TAND huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lý Nhân (TAND tỉnh Hà Nam)
Số hiệu: 17/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/06/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Thông M là hợp pháp. Sau ngày cưới, vợ chồng chung sống hoà thuận cho đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, sau đó vợ chồng lại trở lại cuộc sống bình thường. Mâu thuẫn căng thẳng nhất vào 7/2021, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu do anh M không chịu lao động, vi phạm pháp luật về ma túy và hành hạ, đánh đập chị D. Từ tháng 8/2021 đến nay chị D và anh M sống ly thân không ai còn quan tâm đến ai. Xét mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt nên giải quyết cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Thông M là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LÝ NHÂN
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 17/2024/HNGĐ-ST
Ngày 27- 6 - 2024
V/v: Ly hôn, tranh chấp nuôi con
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÝ NHÂN - TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đinh Thành Nam.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Quốc Tuấn và ông Lê Quốc Định.
- Thư phiên toà: Ông Phạm Thành Trung - Thẩm tra viên
Nguyễn Thị Hương - Thư ký Toà án nhân dân huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhân, tỉnh Nam tham
gia phiên toà: Ông Phạm Sỹ Hưng - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhân,
tỉnh Nam xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 47/2024/TLST-HNGĐ
ngày 08 tháng 4 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2024/QĐXX-ST ngày 11 tháng 6 năm 2024
Quyết định thay đổi Kiểm sát viên số 18A/QĐ-VKS-HNGĐ ngày 17 tháng 6
năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1987; đăng hộ khẩu
thường trú: Thôn T, N, huyện L, tỉnh Nam; nơi trú hiện nay: Thôn T,
xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; có mặt.
2. Bị đơn: Anh Phạm Thông M, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn T, N,
huyện L, tỉnh Hà Nam; có mặt.
3. Người làm chứng: Ông Phạm Thanh V, sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn
T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện, bản khai, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án
của chị Nguyễn Thị D, nội dung vụ án như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D anh Phạm Thông M lấy
nhau hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 06/3/2004 tại UBND xã
N, huyện L, tỉnh Hà Nam. Sau ngày cưới, vợ chồng về chung sống cùng gia đình
bố mẹ đẻ anh M tại thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam.
* Theo chị Nguyễn Thị D trình bày: Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến
năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh M không chịu khó làm ăn,
2
thường xuyên đánh đập, hành hạ chị D. Sau đó vợ chồng được gia đình khuyên
ngăn nên vợ chồng lại trở lại cuộc sống bình thường. Năm 2017 anh M vi phạm
pháp luật đi chấp hành án về tội ma túy. Đến khoảng tháng 6 năm 2021, anh M
chấp hành án phạt xong, khi về đoàn tụ không được bao lâu (khoảng tháng
7/2021) thì anh M sử dụng ma tuý tiếp tục đánh đập hành hạ chị, chị
không chịu được nên đã đưa cả 02 con đến thành phố P, tỉnh Nam để th
nhà làm ăn, được hơn 01 tháng thì anh M đến tìm xin lỗi chị D, chị D đã bỏ
qua về sống cùng anh M. Khi chị D về sống cùng anh M, anh M không thay
đổi mà vẫn cứ đánh đập và hành hạ mẹ con chị D. ChD phải trốn anh M lên Hà
Nội làm ăn vào khoảng tháng 8 năm 2021. Đến khoảng cuối tháng 12 năm 2021,
chị D không Nội nữa về nhà mẹ đẻ của mình thôn T, N, huyện L
để làm ăn sinh sống. Cũng từ thời gian này chị D cũng không quay về sống
cùng anh M nữa. Chị D cho rằng từ tháng 8/2021 đến nay vợ chồng chị ly thân,
không ai còn quan tâm đến ai, việc ai người đó m, không liên quan đến công
việc của nhau. Đến nay chị xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục
đích hôn nhân không đạt được chị đề nghị xin được ly hôn với anh Phạm Thông
M.
- Về con chung: Chị Nguyễn Thị D anh Phạm Thông M 02 con
chung cháu Phạm Quang C, sinh ngày 31/01/2005, hiện cháu C đang làm
công nhân ở khu Công Nghiệp Đ - tỉnh Hà Nam;
Cháu thứ hai là Phạm Quỳnh C1, sinh ngày 04/06/2016. Hiện cháu đang ở
với chị D tại Thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam. Trường hợp ly hôn: Chị D có
nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Phạm Quỳnh C1 chị không yêu cầu anh
M phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Đối với cháu Phạm Quang C đã
trên 18 tuổi, đã đi làm, tự lo cho bản thân nên không yêu cầu Toà án giải quyết.
Vợ chồng không có con nuôi, không có con riêng, hiện chị D không mang
thai nên chị D không yêu cầu toà án giải quyết.
- Về i sản, công nợ các vấn đề khác: Chị Nguyễn Thị D không yêu
cầu Toà án xem xét, giải quyết.
* Ý kiến của anh Phạm Thông M trình bày tại phiên toà:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh M chị Nguyễn Thị D kết hôn với nhau
hoàn toàn toàn hợp pháp. Quá trình chung sống, anh M chị D phát sinh mâu
thuẫn như chị D trình bày đúng. Hiện anh M không còn sử dụng ma tuý nữa,
nay chị D xin ly hôn anh, anh M mong muốn vợ chồng về đoàn tụ. Trường hợp
ly hôn, anh M đề nghị:
+ Về con chung: Anh Phạm Thông M chị Nguyễn Thị D 02 con
chung cháu Phạm Quang C, sinh ngày 31/01/2005, hiện cháu C đang làm
công nhân khu Công Nghiệp Đ - tỉnh Hà Nam; cháu đã trên 18 tuổi, đã đi làm,
tự lo cho bản thân, không yêu cầu giải quyết.
Cháu thứ hai là Phạm Quỳnh C1, sinh ngày 04/06/2016. Hiện cháu đang ở
với chị D tại thôn T, xã N, huyện L, tỉnh Hà Nam. Anh M có nguyện nuôi dưỡng
cháu Quỳnh C1, anh M cũng không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con
chung cùng anh.
3
Vợ chồng không con nuôi, không con riêng, hiện chị D mang
thai không thì anh M không rõ nên anh M không yêu cầu toà án giải quyết.
+ Về tài sản, công nợ và các vấn đề khác: Anh Phạm Thông M không yêu
cầu Toà án xem xét, giải quyết.
- Theo ý kiến của ông Phạm Thanh V (bđẻ anh Phạm Thông M) lưu tại
hồ sơ: Chị Nguyễn Thị D anh Phạm Thông M lấy nhau hoàn toàn tự nguyện
tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán vào năm 2004. Đến năm 2017, anh
M vướng vào tệ nạn hội phải đi chấp hành án phạt về tội ma túy. Khi
chấp hành xong án phạt tù, anh M trở về địa phương, vợ chồng chị Nguyễn Thị
D anh Phạm Thông M chung sống với nhau được một thời gian thì xảy ra
mâu thuẫn cãi chửi nhau nhiều lần. Chị D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ của mình tại
thôn T, xã N, huyện L sinh sống từ năm 2021 đến nay. Nay chị D xin ly hôn anh
M, ông đề nghị Toà án hoà giải để vợ chồng về với nhau để nuôi dạy con cái,
bảo ban nhau làm ăn. Gia đình ông đã nhận được các văn bản tố tụng (thông báo
thụ lý và các giấy triệu tập,của Tòa án), ông gia đình đã thông báo giao
các giấy tờ này cho anh M, nhưng do công việc nên anh M không đến Tòa
án làm việc được.
Tòa án đã triệu tập anh Phạm Thông M đến Tòa án làm việc, tiến hành mở
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ hòa giải
nhưng anh M vắng mặt không do nên Tòa án không thtiến hành hòa giải
được.
Tại phiên toà:
- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly
hôn với anh Phạm Thông M.
+ Về con chung: Chị Nguyễn Thị D nguyện vọng được tiếp tục nuôi
dưỡng cháu Phạm Quỳnh C1, chị không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Đối
với cháu Phạm Quang C đã trên 18 tuổi, đã đi làm, tự lo cho bản thân nên không
yêu cầu Toà án giải quyết.
Vợ chồng không có con nuôi, không có con riêng, hiện chị D không mang
thai nên chị D không yêu cầu toà án giải quyết.
+ Về tài sản, công nợ các vấn đề khác: Chị Nguyễn Thị D không yêu
cầu Toà án xem xét, giải quyết.
- Bị đơn anh Phạm Thông M quan điểm như sau: Anh mong muốn vợ
chồng về đoàn tụ. Trường hợp ly hôn, anh M đề nghị:
+ Về con chung: anh Phạm Thông M chị Nguyễn Thị D 02 con
chung cháu Phạm Quang C, sinh ngày 31/01/2005, hiện cháu C đang làm
công nhân khu Công Nghiệp Đ - tỉnh Hà Nam; cháu đã trên 18 tuổi, đã đi làm,
tự lo cho bản thân, không yêu cầu giải quyết.
Cháu thứ hai là Phạm Quỳnh C1, sinh ngày 04/06/2016. Hiện cháu đang ở
với chị D tại Thôn T, N, huyện L, tỉnh Nam. Anh nguyện nuôi dưỡng
cháu Quỳnh C1, anh M không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng nuôi con chung
cùng anh.
4
Vợ chồng không con nuôi, không con riêng, hiện chị D mang
thai không thì anh không rõ, nên anh M không yêu cầu toà án giải quyết.
+ Về tài sản, công nợ và các vấn đề khác: Anh Phạm Thông M không yêu
cầu Toà án xem xét, giải quyết
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lý Nhân có quan điểm như sau:
+ Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ
án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên toà việc chấp hành pháp
luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử vào phòng nghị án đúng quy định pháp luật. Đối với bị đơn, anh Phạm
Thông M đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không thực hiện quyền,
nghĩa vụ của mình, vắng mặt tại các phiên họp, hoà giải.
+ Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D
anh Phạm Thông M; về con chung: Giao cháu Phạm Quỳnh C1 cho chị D tiếp
tục nuôi dưỡng đến khi cháu C1 đủ 18 tuổi, anh M không phải cấp dưỡng nuôi
con chung. Tài sản, công nợ chung các vấn đề khác: do các đương sự không
yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị
D phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem tại phiên tòa, căn cứ o
kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Căn cứ vào đơn khởi kiện các tài liệu, chứng cứ do
nguyên đơn cung cấp, đủ sở xác định quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh
chấp về nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện
Nhân, tỉnh Hà Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35;
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D anh Phạm
Thông M hợp pháp. Sau ngày cưới, vợ chồng chung sống hoà thuận cho đến
năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, sau đó vợ chồng lại trở lại cuộc sống bình
thường. Mâu thuẫn căng thẳng nhất vào 7/2021, nguyên nhân mâu thuẫn chủ
yếu do anh M không chịu lao động, vi phạm pháp luật về ma túy hành hạ,
đánh đập chị D. Từ tháng 8/2021 đến nay chị D anh M sống ly thân không ai
còn quan tâm đến ai. Xét mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung
không thể kéo dài, mục đích n nhân không đt nên giải quyết cho ly hôn giữa
chị Nguyễn Thị D anh Phạm Thông M phù hợp với quy định tại khoản 1
Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị D anh Phạm Thông M 02 con
chung cháu Phạm Quang C, sinh ngày 31/01/2005, hiện cháu C đang làm
công nhân khu Công Nghiệp Đ - tỉnh Nam; đã lao động tự lập các đương
sự không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết về cấp dưỡng nuôi cháu C.
Đối với cháu Phạm Quỳnh C1, sinh ngày 04/06/2016. Hiện cháu đang
với chị D tại thôn T, N, huyện L, tỉnh Nam. Chị D anh M đều
5
nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Phạm Quỳnh C1. Hai bên không
phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Xét nguyện vọng nuôi dưỡng cháu Phạm Quỳnh C1 của chị Nguyễn Thị
D anh Phạm Thông M chính đáng. Từ khi vợ chồng ly thân đến nay cháu
C1 vẫn với chị D, cháu C1 khoẻ mạnh, phát triển tốt cuộc sống ổn định.
Mặt khác cháu C1 nguyện vọng với chị D. Hội đồng xét xử thấy rằng cần
giao cháu C1 cho chị D tiếp tục nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi phù
hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Chị D không yêu cầu anh M cấp
dưỡng nuôi con chung là tự nguyện nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với cháu Phạm Quang C, sinh ngày 31/01/2005, hiện đã trên 18 tuổi,
lao động, tự lập. Các đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng
xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản, công nợ và các vấn đ khác: Các đương sự không yêu cầu
Toà án xem xét, giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong
vụ án này.
[5] Về án phí thẩm: Chị Nguyễn Thị D phải chịu toàn bộ án phí ly hôn
sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 điều 28; điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản1 điều 39;
khoản 4 Điều 147; Điều 266; Điều 271 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82 Điều 83 Luật
hôn nhân và gia đình.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị D anh
Phạm Thông M.
2. Về con chung:
Giao cháu Phạm Quỳnh C1, sinh ngày 04/06/2016 cho chị Nguyễn Thị D
tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho tới khi cháu Phạm
Quỳnh C1 đủ 18 tuổi, trưởng thành, tự lập; anh Phạm Thông M không phải cấp
dưỡng tiền nuôi con chung cho chị Nguyễn Thị D.
Đối với cháu Phạm Quang C, sinh ngày 31/01/2005, hiện đã trên 18 tuổi,
lao động, tự lập. Các đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết về cấp dưỡng
nuôi cháu C nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm
nom con không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng
việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa
án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Người trực tiếp nuôi con cùng
6
các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con
trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về án phí thẩm: Chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí ly hôn thẩm
300.000 (Ba trăm nghìn) đồng. Đối trừ vào tiền tạm ứng án phí chị Nguyễn
Thị D đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai số 0000913 ngày
08/4/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lý Nhân.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị D anh Phạm Thông M được
quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,
7 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND huyện Lý Nhân;
- Chi cục THADS Lý Nhân;
- UBND xã Nguyên Lý;
- Đương sự;
- Lưu: hồ sơ + văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Đinh Thành Nam
Tải về
Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST Bản án số 17/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất