Bản án số 16/2024/HNGĐ-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 16/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 16/2024/HNGĐ-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Vĩnh Lộc (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 16/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị N xin ly hôn anh B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN ND HUYỆN VĨNH LỘC
TỈNH THANH HÓA
Bản án số: 16/2024/HNGĐ-ST
Ngày 26 /9/2024
V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Hương Giang
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Tường Vân
Bà Mai Thị Trang
- Thư phiên tòa: Nguyễn Hương Trà Thư Tòa án nhân dân huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa tham gia
phiên tòa: Bà Trương Thị Thuý – Kiểm sát viên.
Trong ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện
Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã xét xử thẩm công khai vụ án thụ số
50/2024/TLST-HNngày 01 tháng 7 m 2024 về việc "Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con", theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2024/QĐXXST - HNGĐ ngày
27 tháng 8 năm 2024 Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2024/QĐST HNGĐ ngày
12 tháng 9 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trịnh Thị N - sinh năm: 1993
Trú quán: Khu phố T, thị trấn V, huyện V, tỉnh T.
Có mặt.
- Bị đơn: Anh Đặng Văn B - sinh năm 1991
Trú quán: Khu phố T, thị trấn V, huyện V, tỉnh T.
Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.
NỘI DUNG CỦA VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đngày 24/6/2024, bản tự khai ngày 15/7/2024, quá trình
giải quyết vụ án và tại phiên toà nguyên đơn chị Trịnh Thị N trình bày:
- Về hôn nhân: Chị Trịnh Thị N và anh Đặng Văn B kết hôn với nhau trên cơ
sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại UBND xã T (nay là thtrấn V), huyện V, tỉnh T
vào ngày 14/02/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hoà thuận,
hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn được.
Nguyên nhân: Do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống cũng
như trong công việc làm ăn. Từ tháng 3/2021 đến nay vợ chồng chị đã sống ly thân
không ai quan tâm đến ai nữa, anh B đi chỗ khác ở, chị N và con vẫn ở cùng với bố
2
mẹ chồng tại nhà của bố mẹ chồng. Nay chN xét thấy tình cảm vợ chồng không
còn, hạnh phúc gia đình không có, vchồng không còn yêu thương, quan tâm đến
nhau nữa nên chN đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đặng Văn B.
- Về con chung: Vợ chồng 01 con chung tên là: Đặng Công M - sinh ngày
20/7/2014 (giới tính: Nam). Hiện nay cháu phát triển bình thường về thể lực trí
lực. Từ khi vợ chồng sống ly thân cháu M cùng với chị N ông nội. Cuộc
sống của con đang ổn định, con phát triển bình thường về thể lực trí lực. Để không
làm xáo trộn cuộc sống của con khi ly hôn chị N đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc con. Vì, hiện nay chị N công việc thu nhập ổn định, mức thu nhập
của chị trung bình gần 20.000.000 đồng/tháng. Anh B làm nghề tự do, vợ chồng
sống ly thân đã lâu nên hiện nay công việc và thu nhập của anh B như thế nào chị N
không nắm được. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị N không yêu cầu anh B phải
cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị.
- Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng tự thoả thuận nên không yêu
cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Đặng Văn B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng
nhưng vắng mặt không có lý do, không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ kèm theo nên Tòa án không
thu thập được nguyện vọng của anh Đặng Văn B.
Tại Biên bản xác minh ngày 12/8/2024, chính quyền địa phương thị trấn V,
huyện V, tỉnh T nơi chị N, anh B đăng ký hộ khẩu thường cho biết: Chị Trịnh Thị
N, sinh năm 1993 và anh Đặng Văn B, sinh năm 1991 đều đăng ký hộ khẩu thường
trú tại khu phố T, thị trấn V, huyện V, tỉnh T đăng kết hôn tại UBND T
(nay là thị trấn V), huyện V, tỉnh T vào ngày 14/02/2014. Sau khi kết hôn chị N về
nhà anh B sinh sống cùng với anh B và bố, mẹ chồng. Đến đầu năm 2021, vợ chồng
chị N, anh B xảy ra mâu thuẫn, nên hai người sống ly thân nhau. Anh B đi chỗ khác
ở còn chị N và con vẫn sống cùng với bố mẹ chồng. Chính quyền địa phương cũng
không nắm được nguyên nhân vợ chồng chị N, anh B mâu thuẫn là gì, chỉ nghe làng
m phản ánh vợ chồng anh chị khi đang chung sống với nhau cũng hay cải lẫn
nhau. Về con chung, chTrịnh ThN anh Đặng Văn B 01 con chung tên là:
Đặng Công M sinh ngày 20/7/2014. Từ khi vợ chồng chị N, anh B ly thân cháu M
vẫn ở cùng ông bà nội và chị N. Cháu M hiện đang học tại trường tiểu học V (đóng
trên địa bàn thị trấn V). Về điều kiện kinh tế, chị Trịnh Thị N làm công nhân xa
nhưng thường xuyên vnhà. Anh Đặng Văn B làm nghề tự do, vẫn sinh sống tại địa
phương, những khi chị N về nthì anh B không về nhà, những khi chị N đi làm
anh B với về qua nhà rồi lại đi. Những khi vthì chN tại nhà bố mẹ chồng là ông
Đặng Văn T, Phạm Thị P tại khu phố T, thị trấn V cùng với con trai Đặng Công
M. Tuy chị N và anh B không chung sống với nhau nữa nhưng bố mẹ anh B vẫn rất
quý chị N, yêu thương chị N cháu nội. Chị N làm công nhân xa, anh B làm nghề
tự do nên chính quyền địa phương ng không biết chị N và anh B làm công việc gì,
thu nhập nthế nào. Tại thị trấn V chị N, anh B không nhà đất riêng mà tại
nhà ông Đặng Văn T. Quá trình sinh sống tại địa phương thị trấn V anh B, chị N có
đạo đức tốt, chấp hành tốt các quy định của nơi cư trú, không vi phạm pháp luật.
3
Qúa trình giải quyết vụ án, chị Trịnh Thị N cung cấp 04 bảng lương để chứng
M thu nhập B quân của chị N gần 20.000.000đồng/tháng.
Tại phiên tòa chị Trịnh Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc phát biểu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án
từ khi thụ lý đến phiên tòa hôm nay, thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử thư
ký Tòa án đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn của mình tuân theo đúng quy
định của pháp luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã
tuân theo đúng quy định của pháp luật, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không
có lý do.
- Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ cũng ntại phiên tòa, Kiểm sát viên đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trịnh Thị N, xử cho chị
Trịnh Thị N được ly hôn anh Đặng Văn B.
Giao con chung Đặng Công M sinh ngày 20/7/2014 (giới tính: Nam) cho
chị N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc khi sự thay đổi khác. Anh
B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chN, vì chị N không yêu cầu.
-Về án phí: Chị Trịnh Thị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình thẩm
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trong qu¸ tr×nh gi¶i quyÕt vụ án
Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Về quan hệ pháp luật tranh chấp, cách đương sự thẩm
quyền giải quyết vụ án: Chị Trịnh ThN đơn khởi kiện về việc ly hôn, tranh chấp
về nuôi con đối với anh Đặng Văn B có hộ khẩu thường trú tại thị trấn V, huyện V,
tỉnh T. Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39,
điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định đây vụ án: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi
con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh
Thanh Hóa.
Anh Đặng Văn B đã được tống đạt hợp lcác văn bản tố tụng theo đúng quy
định của pháp luật nhưng vẫn cố tình không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến
của mình, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không do. Các thủ tục đã được
tiến hành đảm bảo theo quy định tại Điều 177 của Bộ luật tố tụng dân sự chứng tỏ
anh Đặng Văn B cố tình trốn trách nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh
B đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố
tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Chị Trịnh Thị N anh Đặng Văn B kết hôn trên cơ sở t
nguyện, có đăng kết hôn tại Ủy ban nhân dân T (nay thị trấn V), huyện V,
tỉnh T vào ngày 14/02/2014. Xác định quan hệ hôn nhân giữa chị Trịnh Thị N
anh Đặng Văn B là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống do vợ chồng bất đồng
4
quan điểm sống nên thường xuyên cãi vã lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng
nhất từ năm 2021, khi anh B bỏ nhà đi chkhác để ở, vợ chồng không còn quan tâm
đến nhau nữa, vchồng đã sống ly thân tđó đến nay. Chị Trịnh Thị N xét thấy đến
nay tình cảm vchồng giữa chị anh B không còn nữa nên đnghị được giải quyết
ly hôn anh B. Quá trình giải quyết vụ án anh B đã được tống đạt hợp lệ các văn bản
tố tụng, nhưng không đến Tòa án làm việc để trình bày quan điểm cũng như tham
gia các phiên hòa giải, điều đó thể hiện anh B không quan tâm đến việc Tòa án đang
giải quyết vụ án, không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: Cuộc sống hôn nhân giữa chị Trịnh Thị N anh
Đặng Văn B đã thực stan vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt được. Vì vậy, áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình
xử cho chị Trịnh Thị N được ly hôn anh Đặng Văn B là phù hợp.
[3] Về con chung: Chị Trịnh Thị N và anh Đặng Văn B có 01 con chung tên
Đặng Công M - sinh ngày 20/7/2014 (giới tính: Nam). Từ khi vợ chồng sống ly
thân nhau đến nay cháu M ở cùng với chị N ông bà nội. Khi ly hôn chị N yêu
cầu và theo nguyện vọng của con là giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng con chung
Đặng Công M. Chị N không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung
cùng chị.
Hội đồng xét xử xét thấy: Quá trình giải quyết vụ án không thu thập được
nguyện vọng của anh B. Tuy nhiên xét điều kiện, hoàn cảnh để đảm bảo cuộc sống
sinh hoạt phát triển cho cháu bé, thấy rằng: Chị N công ăn việc làm, thu
nhập ổn định. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay cháu M cùng với chị N, được
chị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, cuộc sống sinh hoạt và học tập của cháu đang
ổn định. Cháu phát triển tốt về thể chất cũng như tinh thần. Cháu M cũng có nguyện
vọng được với mẹ. Nguyện vọng của chị N của cháu M hoàn toàn chính đáng.
Để không làm xáo trộn cuộc sống sinh hoạt, không gây ảnh hưởng đến tâm lý và sự
phát triển B thường của con về mọi mặt và đảm bảo cuộc sống tốt nhất cho con. Do
đó, giao cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đặng Công M đến khi con đủ 18 tuổi
hoặc khi sự thay đổi khác. Anh B không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng
chị N chN không yêu cầu căn cứ, phù hợp với quy định tại điều 81 Luật
Hôn nhân và gia đình.
Anh Đặng Văn B có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con chung không ai được ngăn cấm, cản trở và anh quyền làm đơn xin thay
đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại điều 82 và điều 84 Luật Hôn nhân và
gia đình.
[4] Về tài sản chung công nợ chung: Chị Trịnh Thị N không yêu cầu
Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Trịnh Thị N phải chịu án phí ly n thẩm theo quy định
của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
5
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 144; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 271, khoản 1
Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn
nhân và gia đình; Điều 5, khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5
Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa
án.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trịnh Thị N được ly hôn anh Đặng Văn B.
2. Về con chung:
2.1. Giao con chung Đặng Công M - sinh ngày 20/7/2014 (giới tính: Nam)
cho chị Trịnh Thị N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay
đổi khác.
2.2. Anh Đặng Văn B không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung
cùng chị N.
2.3. Anh Đặng Văn B quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không
ai được ngăn cấm, cản trở anh thực hiện quyền này và anh B quyền làm đơn xin
thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Chị Trịnh Thị N phải chịu tiền án phí ly hôn thẩm là 300.000đ
(Ba trăm nghìn đồng). Nhưng chị N đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm
ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006123 ngày 28/6/2024
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Chị N đã nộp đủ
tiền án phí.
Anh Đặng Văn B không phải nộp tiền án phí HNGĐ sơ thẩm.
Án xử công khai thẩm có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Chị Trịnh Thị
N quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Đặng
Văn B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản
án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- VKSND huyện Vĩnh Lộc; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- UBND thị trấn Vĩnh Lộc;
- Các đương sự;
- Chi cục THADS huyện Vĩnh Lộc;
- TAND tỉnh Thanh Hoá;
- Lưu hồ sơ vụ án
Lê Thị Hương Giang
Tải về
Bản án số 16/2024/HNGĐ-ST Bản án số 16/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 16/2024/HNGĐ-ST Bản án số 16/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất