Bản án số 14/2025/HNGĐ-PT ngày 12/09/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 14/2025/HNGĐ-PT

Tên Bản án: Bản án số 14/2025/HNGĐ-PT ngày 12/09/2025 của TAND TP. Hải Phòng về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hải Phòng
Số hiệu: 14/2025/HNGĐ-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/09/2025
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Dương Thị P yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Bản án số: 14/2025/HNGĐ-PT
Ngày 12/8/2025
"V/v chia tài sản sau khi ly hôn
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Đoàn Thị Hương Nhu.
Các thẩm phán: Ông Trần Hữu Hiệu và ông Bùi Thế Hưng.
- Thư phiên tòa: Thị Huyền - Thư Toà án nhân dân thành
phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng tham gia
phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hiền - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 8 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải
Phòng t xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số 08/2025/TLPT-HNGĐ ngày
07 tháng 5 năm 2025 về việc “Chia tài sản sau khi ly hôn;
Do bản án n nhân gia đình thẩm số 07/2025/HNGĐ-ST ngày
19/3/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay là Tòa
án nhân dân khu vực 9 - Hải Phòng) bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa v án ra xét xử phúc thẩm số 13/2025/QĐPT-
HNGĐ ngày 04/7/2025, Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2025/QĐ-PT ngày
01/8/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị P, sinh năm 1987;
Số CCCD: 030187006935 cấp ngày 01/6/2018;
Nơi trú trước khi xuất cảnh: Khu dân T, phường A, thành phố C,
tỉnh Hải Dương (nay khu dân T, phường L, thành phố Hải Phòng); hiện
đang sinh sống tại Đài Loan (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của chị Dương Thị P: Ông Đặng Thái L,
sinh năm 1985; địa chỉ: Khu dân T, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương
(nay là khu dân cư T, phường C, thành phố Hải Phòng) (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho chị Dương Thị P: Bà Thị
C, sinh năm 1990; địa chỉ: Khu dân T, phường S, thành phố C, tỉnh Hải
Dương (nay là khu dân cư T, phường C, thành phố Hải Phòng) (có mặt).
2. Bị đơn: Anh Mạc Văn H, sinh năm 1982;
2
Số CCCD: 030082005557, cấp ngày 22/12/2021;
Địa ch: Khu dân cư B, phường A, thành ph C, tnh Hi Dương (nay là
khu dân cư B, phường L, thành ph Hi Phòng) (có mt).
3. Người có quyn li, nghĩa v liên quan:
- Anh Mc Văn H1, sinh năm 1984 và ch Trn Khánh H2, sinh năm 1992;
đều địa ch: Khu dân cư M, phường C, thành ph C, tnh Hi Dương (nay là
Khu dân cư M, phường C, thành ph Hi Phòng) (có mt).
- Ông Mc Văn Đ, sinh năm 1953 và bà Mc Th L1, sinh năm 1955; đều
địa ch: Khu dân cư T, phường A, thành ph C, tnh Hi Dương (nay là Khu dân
cư T, phường L, thành ph Hi Phòng) (ông Đ có mt, bà L1 vng mt).
- Ch Mc Th Thanh H3, sinh năm 1982 và anh Phm Văn T, sinh năm
1978; đều địa ch: Khu dân cư B, phường A, thành ph C, tnh Hi Dương
(nay là khu dân cư B, phường L, thành ph Hi Phòng) (vng mt).
- Ông Nguyn Đình D, sinh năm 1959 và bà Phm Th H4, sinh năm 1958;
đều địa ch: S nhà A ngõ N, khu H, th trn K, huyn B, tnh Hi Dương (nay
là s nhà A ngõ N, khu H, xã K, thành ph Hi Phòng) (ông D có mt, bà H4 vng
mt).
- y ban nhân dân phường A, thành ph C, tnh Hi Dương (nay là UBND
phường L, thành ph Hi Phòng) (vng mt).
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ch Dương Th P (vng mt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, các bản t khai, biên bản ghi lời khai, nguyên đơn
trình bày :
Chị anh Mạc Văn H kết hôn tháng 2 năm 2005 đã ly hôn tại Tòa án
nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương theo quyết định công nhận thuận
tình ly hôn số 121/2020/HNGĐ-ST ngày 08/7/2020, về phần tài sản giữa chị
anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nay chị xác định tài sản chung của chị
và anh H gồm:
Về đất: Thửa đất số 232, tờ bản đồ số 7 diện tích 240m
2
tại khu dân B,
phường A, thành phố C, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BB
994313 ngày 20/7/2010, trị giá đất 840.000.000đồng.
Về nhà: Trên thửa đất 233, tờ bản đồ số 7 (là thửa đất mang tên ông Mạc
Văn Đ), anh chị trước đây do nhầm lẫn nên xây nhà 2 tầng vào năm 2006,
diện tích sàn là 70m
2
, trị giá nhà là 250.000.000đồng.
Tổng giá trị nhà và đất là 1.090.000.000đồng.
Nguồn gốc thửa đất do chị anh H mua của anh trai anh H Mạc
Văn Đ1 nhưng trong hợp đồng hợp đồng tặng cho tanh Đ1 sang cho chị
3
anh H. Chị xác định, chị đi làm bao nhiêu tiền về thì ông Đ đều giữ và trả lại cho
chị với anh H thửa đất này. Còn nguồn gốc số tiền xây ndo bố đẻ chị ông
Dương Văn T1 cho 130.000.000đồng, còn 100.000.000đồng do ông Đ cho. Kể
từ khi ly hôn đến nay, anh H người trực tiếp quản tài sản. Về nợ: Chị xác
định chị và anh H đến nay không còn nợ ai.
Nguyên đơn xác định việc giá trị đất thửa số 232 tờ bản đsố 7 tại khu
dân B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương cũng tương đương giá trị
thửa đất 233 tờ bản đồ số 7, trị giá 1.200.000.000đồng nên không yêu cầu định
giá lại.
Trên thửa đất 232 tờ bản đồ số 7 có nhà cấp 4 hiện đã hết giá trị khấu hao
nên nguyên đơn không yêu cầu định giá. Đối với phần đất dôi theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, chị đề nghị giao đất cho ai thì giao luôn phần đất
dôi dư cho người đó.
Còn đối với tài sản nhà 2 tầng trên thửa đất 233 tờ bản đồ số 7 tại khu
dân B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương, nguyên đơn xác định do
nguyên đơn anh H xây dựng. Nay ngôi nhà này trên thửa đất mang tên ông
Mạc Văn Đ nên yêu cầu ông Đ sdụng tài sản này phải trả lại giá trị tài sản cho
chị.
Còn đối với tài sản chung của chị anh H, chị đề nghị chia đôi tài sản,
anh H nhận phần đất có nhà, chị nhận phần đất trống.
Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hòa giải, anh H trình
bày như sau:
Anh xác định anh và chị P kết hôn năm 2005. Sau khi kết hôn, anh chị về
nhà bố mẹ đanh sinh sống một thời gian rồi ra riêng trên thửa đất số 232 tờ
bản đồ số 7 tại khu dân B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Năm
2020, anh chị P ly hôn, anh chị đã lập biên bản thỏa thuận phân chia tài sản,
trong đó: Giao cho anh H quản lý, sdụng nhà đất thửa đất số 232 tbản
đồ số 7, tài sản khác nô , máy xát, đồ dùng sinh hoạt trong gia đình để sau
này các con chung đủ tuổi thì tặng lại cho các con. Nhưng đến năm 2024, chị P
thay đổi ý kiến và yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân giữa anh và
chị P.
Anh xác định nguồn gốc thửa đất số 232, tbản đồ số 7 của bố đẻ anh là
ông Mạc Văn Đ mua của UBND xã A. Ông Đ mua hai thửa đất số 232 và số 233
tờ bản đồ số 7 tại khu dân B, phường A. Thửa 232 tờ bản đồ số 7 đứng tên
anh Mạc Văn Đ1, thửa đất số 233 tờ bản đồ số 7 đứng tên ông Mạc Văn Đ. Đến
năm 2010, do anh chị P cần vay vốn kinh doanh, gia đình 3 anh em trai
nhưng anh H con trai duy nhất trong gia đình sinh được con trai nên ông Đ
yêu cầu anh Đ1 chuyển tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sang cho anh H
chị P. Anh Đ1 đã làm thủ tục tặng cho quyền sử dụng đất thửa đất này đã
4
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh H, chị P. Thửa đất này,
ông Đ người mua đóng thuế hàng năm. Do đó, anh xác định nguồn gốc tài
sản này của ông Đ. Anh chị P chỉ lao động bình thường, thu nhập không
lớn, không có khả năng tự mua đất, xây nhà.
Trên thửa đất 232 này chỉ có nhà cấp 4 diện tích 57,1m
2
, nhà kho 12,0m
2
,
mái proximang diện tích 36,9m
2
xây dựng năm 2017, chuồng gà diện tích
38,7m
2
xây dựng năm 2012 do anh chị xây dựng. Đối với tài sản công trình trên
thửa đất 232 tờ bản đồ số 7 hiện không còn giá trị, anh không yêu cầu chia.
Đối với nhà 2 tầng công trình kiến trúc xây dựng từ năm 2004 ông
Đ xây dựng trên thửa đất 233 tờ bản đồ số 7 tài sản của bố đẻ anh là ông Mạc
Văn Đ. Anhchị P không có liên quan gì. Trước đây, anhchị P, mọi người
trong gia đình nhầm lẫn thửa nhà 2 tầng thửa số 232 mang tên anh chị
P. Thực tế, thửa đất có nhà 2 tầng là thửa đất 233 mang tên ông Đ. Anhchị P
được ông Đ cho nhờ nhà 2 tầng này nên nay trả lại nhà 2 tầng này cho ông Đ
mà ông Đ không phải trả chênh lệch tài sản cho anh và chị P.
Trên thửa đất 233 nhà 2 tầng do ông Đ xây nhà, làm cửa, anh chị P
chỉ xây dựng kiến tạo được 98,2m
2
lán tôn cạnh nhà vào năm 2017, 01 đoạn
tường rào giáp đường tông, 8,79m
2
sân đổ tông lát nền; 7,3m tường xây
ngăn lán tôn, ngoài ra không còn tài sản nào khác.
Vnợ: Anh xác định khi còn chung sống với nhau, anh chị còn nbố đẻ
anh ông Mạc Văn Đ số tiền 100.000.000đồng vay để làm ăn kinh tế, nanh
Mạc Văn H1 và chị Trần Khánh H2 số tiền 50.000.000đồng để trả nợ vào Ngân
hàng rút giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nợ chị Mạc Thị Thanh H3 stiền
23.600.000đồng tiền làm sắt lan hoa bờ tường, nợ ông Nguyễn Đình D số tiền
13.000.000đồng mua máy xát gạo. Cụ thể:
Năm 2017, khi anh chị P còn chung sống với nhau thì anh chị P
vay Ngân hàng Đ2 (B) vay số tiền cụ thể bao nhiêu anh không nhớ, anh chị vay
rất nhiều lần. Lần cuối cùng vào tháng 5 m 2020, khi anh chị vay của vợ
chồng em trai Hưng H5 số tiền gốc 50.000.000đồng để trả vào ngân hàng
rút giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh và chị P ra. Tại bản tự khai
năm 2020 khi giải quyết ly hôn với chị P, anh có trình bày vay của ông Đ nhưng
do lúc đó, chị P đồng ý để lại tài sản cho anh và các con nên anh không trình bày
lại nữa. Thực tế, khoản tiền này là vay của vợ chồng em trai.
Năm 2017, anh và chị P có vay của bố đẻ anh số tiền là 100.000.000đồng.
Khi vay, bố con trong gia đình nên anh chị không thiết lập văn bản giấy tờ.
Mục đích số tiền vay này để kinh doanh mua máy xát gạo. Ông Đ nói
cho vay thì sau này phải trả lãi cho ông nhưng từ đó cho đến nay, anh chị chưa
trả số tiền này cho ông Đ.
Anh và chị P kinh doanh máy xát từ năm 2017 có sử dụng nhà, đất của bố
5
đẻ anh ông Đ, ông Đ nói phải trả tiền thuê cho ông nhưng anh chị chưa trả
khoản tiền nào, ông Đ không nói số tiền thuê bao nhiêu. Hai bên không
thỏa thuận gì.
Đối với khoản nợ của ông Nguyễn Đình D mua máy xát của sở sản
xuất D2 với giá ban đầu hơn 88.000.000đồng. Anh chị đã trả một phần, đến
nay anh và chị P chưa trả hết, còn nợ cơ sở sản xuất này số tiền 13.000.000đồng.
Kể từ năm 2020, khi vợ chồng ly hôn không giải quyết về tài sản, khi
đó tài sản của anh chị, anh xác định tài sản nhà đất mang tên anh chị P,
máy xát vật dụng sinh hoạt trong gia đình, không xe tải. Sau này anh biết
nhà 2 tầng không trên thửa đất của anh chị nên xác định anh chị không nhà,
chỉ thửa đất 232 tờ bản đồ số 7. Vào năm 2022, do không tiền nuôi con,
anh đã bán máy xát này để nuôi dưỡng con, bán cụ thể cho ai thì anh không còn
nhớ rõ, bán được hơn 1.000.000đồng.
Nay chị P yêu cầu chia tài sản chung, anh đề nghị anh được chia bằng
hiện vật đối với thửa đất 232 tờ bản đồ số 7 tại khu dân B, phường A chia
trả chênh lệch tài sản bằng tiền cho chị P. thời gian qua, chị P về nước gây
mâu thuẫn nội bgia đình trầm trọng, không thể cạnh nhau được. Thêm nữa,
nguồn gốc đất do bố đẻ anh mua và anh Đ1 sang tên lại cho anh và chị P. Trong
quá trình sinh sống cùng, anh xác định anh chP không đóng góp vào
khối tài sản này nên anh chỉ chi trả chênh lệch tài sản cho chị P là 20% giá trị tài
sản.
Đối với các khoản nợ, anh chị P cùng trách nhiệm mỗi người trả ½
khoản nợ.
Tại bản tự khai, biên bản ghi lời khai, biên bản hòa giải, ông Đ trình bày
như sau:
Cả thửa đất số 232 thửa đất 233 tờ bản đồ số 7 tại khu dân B,
phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương nguồn gốc của ông, do ông mua của
UBND A (nay UBND phường A). Ông cho con trai Đ1 mang tên thửa
đất 232 tbản đồ số 7 vào năm 2003, còn thửa đất số 233 tờ bản đồ số 7 mang
tên ông. Đến năm 2010, ông có yêu cầu con trai Đ1 sang tên thửa đất 232 tờ bản
đồ số 7 cho anh H và chị P. Ông có xây dựng nhà 2 tầng trên thửa đất 233 tờ bản
đồ số 7 vào năm 2004 và năm 2005, anh H và chị P về ở trên khu đất này, ở trên
nhà 2 tầng do ông xây dựng.
Trước đây, ông nhầm số thửa đất, cho anh H chị P trên thửa đất 232
thửa đất nhà 2 tầng, thửa đất bên cạnh 233 thửa đất mang tên ông
nhà cấp 4 do anh H xây dựng từ năm 2017. Ông xác định chỉ cho anh H chị P
thửa đất 232 tờ bản đồ số 7, còn thửa đất 233 có nhà 2 tầng là nhà đất của ông và
cho anh H chị P nhờ thời kỳ anh chị còn vợ chồng. Công trình trên đất do
ông xây dựng nên ông không đồng ý cho anh H chP. Còn đối với tài sản công
6
trình trên thửa đất này anh H chị P xây dựng thì ông không đồng ý chia trả
chênh lệch tài sản cho anh chị.
Nay chP yêu cầu chia tài sản sau ly hôn với anh H, ông đề nghị Tòa án
buộc anh H trả chênh lệch tài sản bằng tiền cho chị P. thực tế, gia đình hai
bên giữa nhà ông và nhà chị P thời gian qua xảy ra mâu thuẫn trầm trọng. Thêm
nữa, chị P đã đi và sinh sống ở nước ngoài, không trực tiếp bức thiết chỗ ở.
Ông giữ nguyên yêu cầu anh H chị P vẫn trả vợ chồng ông số tiền thuê
mặt bằng cả khu đất gồm cả thửa 232 233 tờ bản đồ số 7 là 991.800.000
đồng.
Đối với khoản nợ, anh H chị P nợ ông số tiền 100.000.000đồng thì ông
vẫn yêu cầu anh H chị P phải trả lại cho ông số tiền này.
Còn đối với phần đất dôi vphía sau thửa đất đất công của UBND
phường A, do ông quản lý sử dụng thì không có liên quan gì đến chị P anh H.
Diện tích đất này đất công, nếu UBND phường yêu cầu thì ông trách
nhiệm trả lại UBND phường.
Tại biên bản ghi lời khai, biên bản hòa giải, người quyền lợi nghĩa vụ
liên quan anh Mạc Văn H1 chị Trần Khánh H2 trình bày: Vào năm 2020,
anh chị cho anh H chị P vay số tiền 50.000.000đồng để anh H chP trả tiền
vào Ngân hàng và rút giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về. Do anh em ruột
trong gia đình nên anh chị không thiết lập văn bản giấy tờ. Nguồn gốc số tiền
này do anh chị đi vay lãi cho anh H chị P, lãi suất 1%/1 tháng. Kể từ tháng 2
năm 2020 tạm tính đến tháng 11 năm 2024, anh H chị P không trả anh chị khoản
tiền gốc, lãi nào nên anh chị yêu cầu anh H chị P trách nhiệm trả anh chị số
tiền gốc là 50.000.000đồng và tiền lãi là 27.500.000đồng.
Tại biên bản ghi lời khai, người quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Mạc
Thị Thanh H3 xác định: Vào khoảng tháng 3 năm 2020, chị bán cửa cường
lực, hàng rào sắt, sửa cổng cho anh H, chP tổng số tiền 31.600.000đồng. Khi
đó anh H chị P còn sinh sống cùng nhau, anh chị đã trả được số tiền
8.000.000đồng, còn nợ số tiền 23.600.000đồng. Số tiền này là của chị chồng
Phạm Văn T, sinh năm 1978; địa chỉ: Khu dân B, phường A, thành phố C,
tỉnh Hải Dương. Nay anh chị yêu cầu anh H chị P trả lại anh chị số tiền gốc này
không yêu cầu trả lãi. Do công việc bận rộn nên anh chị đề nghị Tòa án giải
quyết và xét xử vắng mặt anh chị.
Tại biên bản ghi lời khai người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn
Đình D trình bày: o ngày 05/6/2017, anh có bán cho anh H chị P A, Chí L2,
Hải Dương máy xát gạo, tổng số tiền 88.000.000đồng. Anh H chị P đã trả
nhiều lần cụ thể ngày 25/5/2017 trả 5.000.000đồng, ngày 07/6/2017 trả số tiền
50.000.000đồng, ngày 08/02/2018 trả số tiền 20.000.000 đồng, tổng số tiền anh
chị đã trả 75.000.000đồng, còn nợ lại số tiền 13.000.000 đồng. Từ đó cho đến
7
nay, anh chị cũng chưa trả số tiền còn lại. Ông biết anh H chị P làm ăn khó khăn
nên để anh chị chủ động trả số tiền này. Do vậy từ đó đến nay, ông chỉ gọi điện
nhắc nhở đòi tiền mà không thực hiện việc khởi kiện chị P anh H ra Tòa án. Đây
là việc kinh doanh của gia đình ông, tài sản chung của ông và vợ là Phạm Thị
H4, sinh năm 1958, địa chỉ: Xóm R, khu T, thị trấn K, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Nay ông được biết chị P yêu cầu chia tài sản sau ly hôn với anh H, ông yêu cầu
anh H và chị P phải có trách nhiệm trả vợ chồng ông số tiền gốc này
13.000.000đồng, không yêu cầu anh chị phải trả lãi. Do công việc bận rộn nên
ông bà đề nghị vắng mặt tất cả các buổi làm việc của Tòa án.
Lời khai của những người làm chứng:
- Anh Mạc Văn Đ1 trình bày: Anh con trai cả của ông Đ. Ông Đ
mua thửa đất số 232 233 tờ bản đồ số 7 tại khu dân cư B, phường A, thành
phố C, tỉnh Hải Dương của UBND A (nay UBND phường A). Khi đó, anh
chưa vnên ông Đ bảo anh đứng tên sthửa 232, còn ông Đ đứng tên s
thửa 233 tờ bản đồ số 7. Rồi sau đó, ông Đ xây dựng nhà 2 tầng. Do hai thửa đất
liền nhau nên gia đình anh không biết được thửa đất nào mang tên anh thửa
đất nào mang tên ông Đ. Đến năm 2010, anh H vợ con trước theo yêu cầu
của ông Đ, anh làm hợp đồng tặng cho thửa đất 232 tờ bản đồ số 7 tại khu
dân cư B sang cho anh H chị P. Thực tế, anh H và chị P cũng sinh sống trên thửa
đất này từ năm 2005 đến khi ly hôn.
- Ông Trí H6, ông Trí P1, ông Dương Văn C1 đều trình bày: Năm
2004 có xây nhà, đóng cửa, bán vật liệu xây dựng cho ông Mạc Văn Đ xây dựng
nhà 2 tầng tại khu dân cư B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Ông Đ
người trực tiếp thuê thợ, thỏa thuận và trả tiền công thợ, tiền vật liệu xây dựng.
- Ông Dương Thành P2 trình bày: Ông là anh trai họ của chị Dương Thị P
nên ông cũng chơi cùng với cả anh H chP. Thời điểm anh H chị P làm nhà
khoảng năm 2006 đến năm 2007, ông cuốc móng cho anh H chị P xây nhà.
Khi đó, ông xác định anh H chị P làm nhà 2 tầng nên đi cuốc móng hộ hai
anh chị. Lúc ông xuống cuốc móng hộ, ông Đ bố đẻ anh H ở trên thửa đất và
chứng kiến. Việc cuốc móng của ông thợ xây nào thì ông không biết được.
Sau khi anh H chị P xây dựng nhà xong, có làm lgiấy tờ chuộc lại nhà. Sau
này, ông chuyển nhà thì văn bản giấy tờ này không còn. Ông xác định anh H chị
P xây dựng nhà 2 tầng đó.
- Anh Mạc Văn D1 trình bày: Ông hàng xóm (cạnh nhà) anh Mạc Văn
H. Ngôi nhà 02 tầng anh H đang ở được xây dựng vào năm 2004, ông Đ (bố anh
H) người trực tiếp, thường xuyên tại thửa đất để chỉ đạo, giám sát thợ xây.
Sau khi xây nhà xong một thời gian thì anh H, chị P mới dọn ra cạnh nông
như hiện nay nhưng cụ thể thời gian nào ông không nhớ.
- Ông Dương Văn T1 trình bày: Khi kết hôn, anh H chị P mua đất làm
8
nhà hay không thì ông không rõ. Sau khi sinh cháu H7 thì đến năm 2006 anh H
chị P xây nhà. Còn thửa đất mua hay như thế nào thì ông không biết. Khi anh H
chị P xây nhà, ông làm than thổ phỉ nên cho anh H chị P 8-9 tạ sắt, 200
bao xi măng, cát, tổng trị giá khoảng 40-50 triệu đồng. Người chứng kiến sự
việc này ông K Vĩnh Phúc (là anh trai của mẹ đH), còn địa chỉ cụ thể của
ông K thì ông sẽ tìm hiểu và cung cấp cho Tòa án sau. Người trực tiếp chở
nguyên vật liệu này là ông Văn N, địa chỉ: Khu dân T, phường Đ, thành
phố C, tỉnh Hải Dương. Việc chở sắt thép còn có con trai ông là anh Dương n
X, sinh năm 1982, địa chỉ: khu dân T, phường A, thành phố C, tỉnh Hải
Dương biết, chứng kiến sự việc này. Đến khoảng năm 2007 xây dựng xong nhà.
Khi đó, hai gia đình cùng thống nhất chung tay làm nhà cửa cho con cái. Anh H
chị P sinh sống trên nhà này từ m đó cho đến khi ly hôn. Ngoài ra, q
trình sinh sống anh chị còn ô tô, máy xát. Hiện chị P đã kết hôn và lấy chồng
người Đài Loan đang sinh sống, làm việc tại Đài Loan. Thời gian qua, chị P
có về nước, con gái của anh H và chị P có về nhà ông sinh sống thì anh H có vào
nhà ông lôi cháu Mai A về nên xảy ra xung đột. Hiện Công an phường A
đang làm việc, cụ thể giải quyết như thế nào ông cũng không rõ.
- Ông Vũ Trí N1 trình bày: Ông chở nguyên vật liệu cho ông Dương
Văn T1 để xây dựng nhà cho chị P anh H vào năm 2006-2007.
Kết quả xác minh với Công an phường A thể hiện: Thời gian qua tại địa
phương xảy ra luận xấu, ảnh hưởng tình hình an ninh trật tđịa phương.
Cụ thể, con gái của anh H chị P cháu Mai A đã nhắn tin lời nói trên
mạng xúc phạm anh H- bố đẻ ông Đ- ông nội. Ngoài ra, chị Dương Thị P
cũng đăng facebook xúc phạm anh H, ông Đ liên quan việc tranh chấp chia tài
sản sau khi ly hôn. Anh H yêu cầu cháu Mai A về nsinh sống nên xảy
ra xát khiến chính quyền địa phương nhiều ban ngành phải can thiệp, hòa
giải. Hiện tại, chị P đang làm việc sinh sống tại nước ngoài. Tuy nhiên, mâu
thuẫn giữa anh H chị P rất trầm trọng, sâu sắc. Nay Tòa án nhân dân thành
phố Chí Linh chia tài sản sau ly hôn của anh chị, đề nghị Tòa án căn cứ theo quy
định của pháp luật để giải quyết, đồng thời xem xét, cân nhắc, phân chia cho anh
chị không gần nhau để tránh xảy ra hậu quả mâu thuẫn, xát, mất trật tự an
ninh, chính trị tại địa phương.
Kết quả xác minh tại UBND phường A thể hiện: Thửa đất mang tên anh
Mạc Văn H Dương Thị P được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào
năm 2010, diện tích 240m
2
, thửa số 232 tờ bản đồ 7. Nguồn gốc thửa đất là nhận
quyền sử dụng đất từ ông Mạc Văn Đ1. Thửa đất này do ông Mạc Văn Đ
nhận đấu thầu từ Hợp tác (UBND A) từ năm 2002 ông Dương Hồng Q
kế toán xã thu tiền đất này từ ông Đ. Hiện nhà 2 tầng mà anh H đang
trực tiếp ở và quản lý được xây dựng trên thửa đất 233 (thửa đất ông Đ được cấp
9
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ năm 2003). Còn thửa đất của anh H, chị P
thửa đất bên cạnh. Theo ông Đ anh H trình bày thì nhà 2 tầng được xây dựng
năm 2004, thời điểm đó chưa phải cấp phép xây dựng nên UBND phường không
còn lưu giữ giấy phép xây dựng của anh H chị P. Đối với hiện trạng đất anh H
chị P đang quản lý, sử dụng, phần diện tích đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất cho anh H chị P 240m
2
, phần đất dôi diện tích 235,3m
2
đất thuộc quản lý, sử dụng của UBND phường A. Nay người đang trực tiếp quản
sử dụng phần đất dôi này được tạm giao tiếp tục quản sdụng. Nếu
UBND phường A quy hoạch sử dụng làm đất công thì buộc người sử dụng diện
tích đất này phải trả lại cho UBND phường A.
Tại biên bản thẩm định ngày 29/10/2024 biên bản định giá của Hội
đồng định giá ngày 10/12/2024, biên bản làm việc ngày 23/01/2025 xác định:
Thửa đất 232 tờ bản đồ s7 tại khu dân B, phường A, thành phố C,
tỉnh Hải Dương mang tên anh Mạc Văn H và chị Dương Thị P là thửa đất có nhà
cấp 4. Giá trị thửa đất 1.200.000.000đồng. Tài sản trên đất đã hết gtrị khấu
hao nên chị P, anh H đều không yêu cầu định giá.
Đối với thửa 233 tờ bản đồ số 7 tại khu dân cư B, phường A, thành phố C,
tỉnh Hải Dương mang tên ông Mạc Văn Đ. Trên đất có nhà 2 tầng, nhà tắm, nhà
cấp 4, lán tôn, cổng sắt, hai cánh cổng, tường xây, sân đổ tông. Tổng trị giá
tài sản trên đất 298.100.000đồng. Nhà 2 tầng, nhà tắm, nhà cấp 4, cổng sắt,
hai cánh cổng đều do ông Đ xây dựng. Anh H xây dựng 02 lán tôn 89,7m
2
+
98,2m
2
, 01 đoạn tường dài 5m, cao 0,9m; 01 đoạn tường xây ngăn lán tôn dài 5
+ 12m, cao 1,2m, 01 sân đổ bê tông không lát nền diện tích 89,7m
2
.
Tại bản án hôn nhân gia đình thẩm số 07/2025/HN-ST ngày
19/3/2025, Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh đã căn cứ khoản 2 Điều 28,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 357, Điều 468
BLTTDS, Điều 29, Điều 33, Điều 59, Điều 60, Điều 62 Luật Hôn nhân Gia
đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án
phí và lệ phí Tòa án:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia tài sản chung sau khi ly hôn của chị
Dương Thị P.
Xác định tài sản chung của chị Dương ThP anh Mạc Văn H gồm:
thửa đất số 232 tờ bản đồ số 7 tại khu dân B, phường A, thành phố C, tỉnh
Hải Dương trị giá 1.200.000.000đồng. Tài sản kiến tạo trên thửa đất 233 tbản
đồ số 7 01 lán tôn 89,7m
2
trị giá : 15.748.000đồng; 01 đoạn tường dài 5m,
cao 0,9m trị giá 2.052.000đồng; 01 đoạn tường xây ngăn lán tôn dài 5 + 12m,
cao 1,2m trị giá 3.892.000đồng, 01 sân đổ tông không lát nền diện tích
10
89,7m
2
, trị giá 4.176.000đồng. Tổng giá trị tài sản của anh chị :
1.225.868.000đồng.
Anh H chị P nợ chung gồm: Nợ anh H1 chị H4 số tiền 50.000.000đồng;
nợ ông Đ số tiền 40.000.000đồng; nợ Hương T2 số tiền 23.600.000đồng; nợ
ông Dũng H8: 13.000.000đồng.
Xác định anh Mạc Văn H nợ riêng ông Mạc Văn Đ số tiền
60.000.000đồng.
Giao cho anh Mạc Văn H quản lý, sử dụng thửa số 232 tờ bản đồ s7,
diện tích 240m
2
đất ở tại khu dân cư B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương
trị giá 1.200.000.000đồng được giới hạn bởi các điểm A1B3B2B1A1 (có đồ
kèm theo).
Khi bản án hiệu lực pháp luật, đương sự được giao quản lý, sdụng,
định đoạt quyền sử dụng đất theo quyết định của bản án, quyền đề nghị
quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký và đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật và phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính về
đất (nếu có) theo quy định của pháp luật.
Buộc anh Mạc Văn H phải thanh toán trả tiền chênh lệch tài sản cho chị
Dương Thị P là 360.000.000đồng.
Buộc ông Mạc Văn Đ bà Nguyễn Thị L3 phải thanh toán trả tiền kiến
tạo tài sản trên thửa đất 233 tờ bản đồ số 7 tại khu dân B, phường A, thành
phố C, tỉnh Hải Dương cho anh Mạc Văn H chị Dương Thị P3 mỗi người số
tiền 12.934.000đồng.
Buộc anh Mạc Văn H chị Dương Thị P trách nhiệm thanh toán trả
nợ anh Mạc Văn H1 chị Trần Khánh H2 số tiền gốc 50.000.000 đồng, anh H
thanh toán trả số tiền 25.000.000đồng, chị P thanh toán trả số tiền
25.000.000đồng.
Buộc anh Mạc Văn H chị Dương Thị P trách nhiệm thanh toán trả
nợ ông Mạc Văn Đ, Mạc Thị L1 stiền gốc 40.000.000đồng, anh H thanh
toán trả số tiền 20.000.000đồng, chị P thanh toán trả số tiền 20.000.000đồng.
Buộc anh Mạc Văn H chị Dương Thị P trách nhiệm thanh toán trả
nợ chị Mạc Thị Thanh H3, ông Nguyễn Đình T3 số tiền gốc 23.600.000đồng,
anh H thanh toán trả số tiền 11.800.000đồng, ch P thanh toán trả số tiền
11.800.000đồng.
Buộc anh Mạc Văn H chị Dương Thị P trách nhiệm thanh toán trả
nợ ông Nguyễn Đình D, bà Phạm Thị H4 số tiền gốc 13.000.000 đồng, anh H
thanh toán trả số tiền 6.500.000đồng, chị P thanh toán trả số tiền 6.500.000đồng
Anh Mạc Văn H trách nhiệm thanh toán trả ông Mạc Văn Đ, Mạc
Thị L1 số tiền 60.000.000đồng.
11
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật, người được thi hành án đơn
yêu cầu thi hành án người phải thi hành án không thi hành các khoản tiền
trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất do chậm thi hành theo quy
định tại Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Mạc Văn Đ, Mạc Thị L1 buộc anh
Mạc Văn H và chị Dương Thị P phải thanh toán số tiền thuê đất.
Tạm giao phần diện tích 235,3m
2
phần diện tích đất dôi cho ông Mạc
Văn Đ quản lý sử dụng. Khi chính quyền địa phương có nhu cầu sử dụng thì ông
Đ phải trả lại phần diện tích lấn chiếm tháo dỡ các công trình trên đất (nếu
có).
Ngoài ra, bản án còn quyết định về chi phí thẩm định, định giá tài sản, án
phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, nguyên đơn chị Dương Thị P kháng cáo toàn bộ
bản án, theo đó chị P không đồng ý chia cho anh H 70%, chia cho chị 30% giá
trị thửa đất số 232, phải chia mỗi người 50% chị yêu cầu được sử dụng
đất nguồn gốc thửa đất do chị anh H mua của anh Đ1 chứ không phải của
ông Đ tặng cho; ngôi nhà trên thửa đất do chị anh Đ1 xây dựng vào năm
2006, không phải do ông Đ xây dựng nên khi giao cho ông Đ sdụng thì cần
buộc ông Đ trả giá trị nhà cho chị; chị không đồng ý trả các khoản nợ chung như
bản án đã tuyên; anh H người quản máy xát, máy phát điện, mô nhưng
Tòa án cấp sơ thẩm không đối trừ các tài sản này vào khoản nợ là không đúng;
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của chị P giữ
nguyên nội dung kháng cáo; bị đơn và người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan là
ông Đ, anh H1, chị H4, ông D không đồng ý với kháng cáo của chị P.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của chị P đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận toàn bộ kháng cáo của chị P.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về
việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308, Điều
309 Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận một phần kháng cáo của chị Dương Thị P,
sửa bản án hôn nhân gia đình thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Chí
Linh (nay là Tòa án nhân dân khu vực 9) theo hướng xác định khoản nợ
50.000.000 đồng của anh H1, chị H4 nợ riêng của anh H, không phải nợ
chung của vợ chồng nên buộc anh H phải trả anh H1, chị H4 số tiền 50.000.000
đồng; các nội dung khác của bản án sơ thẩm giữ nguyên; về án phí: Do xác định
khoản nợ anh H1, chị H4 là nợ riêng của anh H nên cần tính lại án phí dân sự
thẩm cho phù hợp; về án phí phúc thẩm: Chị P không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
12
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, được thẩm tra công
khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử
(viết tắt là HĐXX) nhận định:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của chị Dương Thị P trong thời gian luật định
đã nộp tạm ứng án phí đầy đủ nên kháng cáo hợp lệ; người kháng cáo chị
Dương Thị P vắng mặt nhưng đã có người đại diện theo ủy quyền có mặt; người
quyền lợi - nghĩa vụ liên quan Mạc Thị L1 đơn đề nghị xét xử vắng
mặt; chị Mạc Thị Thanh H3, anh Phạm Văn T, Phạm Thị H4, người đại diện
hợp pháp của UBND phường A đã được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn
vắng mặt tại phiên tòa nên căn cứ quy định tại Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự,
HĐXX xét xử vắng mặt những người trên.
[2] Xét kháng cáo của chị Dương Thị P:
[3] Đối với kháng cáo không đồng ý chia thửa đất số 232, tờ bản đồ số 7
theo tỉ lệ 7-3 mà phải chia đều cho anh H, chị P đề nghị được sử dụng đất,
HĐXX thấy: Chị P trình bày, nguồn gốc thửa đất do chị anh H mua của
anh Mạc Văn Đ1 (anh Đ1 làm thtục tặng cho anh chị để không phải đóng
thuế), nguồn tiền mua đất do anh chị đi làm, hàng tháng lĩnh lương đều đưa
cho ông Mạc Văn Đ, ông Đ đã dùng số tiền này đtrả cho anh Đ1. Tuy nhiên,
tại biên bản xác minh với UBND phường A, biên bản ghi lời khai anh Đ1, ông
Đ thể hiện ông Đ mua đấu thầu thửa đất số 232 và 233 tờ bản đồ số 7 khu dân
B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương của UBND A (nay UBND
phường A) vào năm 2004 để anh Mạc Văn Đ1 đứng tên thửa 232. Khi chị P
kết hôn với anh H, ông Đ, L1 đã cho vchồng anh chị sử dụng thửa đất số
232. Vào năm 2010, theo schỉ đạo của ông Đ, anh Đ1 đã làm thủ tục tặng cho
quyền sử dụng thửa đất số 232, tờ bản đồ số 7 cho anh Mạc Văn H chị
Dương Thị P. Chị P cho rằng vợ chồng chị nhận chuyển nhượng đất của anh Đ1
nhưng không xuất trình được căn cứ nào chứng minh việc chuyển nhượng
đất, giao tiền giữa anh Đ1 chị P, anh H cũng như ông Đ, L1. Do đó, Tòa
án cấp sơ thẩm xác định nguồn gốc thửa đất 232 tờ bản đồ số 7 của ông Mạc
Văn Đ, Mạc Thị L1 sở. nguồn gốc thửa đất của bố mẹ đẻ anh H
cho anh H, chị P nên khi chia thửa đất này, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định anh H
công sức nhiều hơn chia cho anh H 70%, chia cho chị P 30% giá trị thửa
đất là phù hợp.
[4] Về yêu cầu được chia tài sản bằng hiện vật (chia đất), HĐXX thấy cả
anh H chị P đều nhu cầu được chia đất để sử dụng. Tuy nhiên, từ khi anh
H chị P ly hôn nhau, anh H là người trực tiếp quản lý, sử dụng đất, hơn nữa
anh H được chia phần tài sản nhiều hơn (70%), giữa anh H và chị P xảy ra mâu
thuẫn nặng nề, gây luận xấu địa phương (Công an phường A chính
quyền địa phương phải can thiệp, xử hành chính), người đại diện theo ủy
13
quyền của chị P trình bày chị P hiện đang lao động tại Đài Loan, đã kết hôn và
chung sống cùng chồng tại Đài Loan, không thường xuyên Việt Nam nên để
đảm bảo việc sử dụng đất ổn định, đảm bảo an ninh trật tự địa phương, cấp
thẩm giao toàn bộ thửa đất cho anh H quản lý, sử dụng anh H trách nhiệm
trả chênh lệch tài sản cho chị P bằng tiền là phù hợp. Do đó, kháng cáo của chị P
đối với nội dung này không được chấp nhận.
[5] Đối với kháng cáo đề nghị xác định ngôi nhà 2 tầng xây trên đất thửa
đất số 233, tờ bản đồ số 7 là tài sản chung của chị và anh H nên khi ông Đ được
sử dụng nhà phải trả cho chị ½ giá trị nhà, HĐXX thấy: Chị P cho rằng ngôi nhà
2 tầng trên thửa đất số 233 do chị anh H bỏ tiền ra nhờ ông Đ thuê thợ,
trông nom và thanh toán tiền xây dựng hộ, ngoài ra bố đẻ chị ông T1 cho
nguyên vật liệu (sắt thép, cát, xi măng) để xây dựng. Tuy nhiên, chị P không
xuất trình được chứng cứ, tài liệu nào thể hiện chị và anh H nhờ ông Đ thuê thợ,
trông nom, trả tiền xây dựng, cũng không chứng minh được việc vợ chồng chị
đưa tiền cho ông Đ để trả tiền xây dựng nhà. Ông Dương Văn T1 (bố chP)
trình bày chở vật liệu đến cho chị P để xây nhà nhưng lời trình bày của ông
T1 không phợp với lời khai của chị P về khối lượng vật liệu được cho; anh
Dương Đình P4 (anh họ chị P) trình bày đến cuốc móng nhà cho chị P nhưng
nội dung này không đủ căn cứ chứng minh ngôi nhà 2 tầng của anh H, chị P;
ngoài ra chị P không có căn cứ nào khác. Trong khi đó, ông Đ anh H đều xác
định ngôi n2 tầng xây trên thửa đất của ông Đ do vợ chồng ông Đ, bà L1
xây dựng vào năm 2004 (trước khi anh H kết hôn với chị P). Nội dung này phù
hợp với lời khai của những người trực tiếp xây dựng ngôi nhà 2 tầng (ông
Trí H6, ông Vũ Trí P1, ông Dương Văn C1), phù hợp với lời khai của hàng xóm
giáp thửa đất 233 (ông Mạc Văn D1). Do đó, có căn cứ xác định ngôi nhà 2 tầng
cùng các tài sản khác nnhà tắm, nhà cấp 4, lán tôn, cổng sắt, hai cánh cổng,
tường xây, sân đổ tông trên thửa đất 233 tờ bản đồ số 7 tại khu dân B,
phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương do ông Đ, L1 xây dựng, không phải
tài sản chung của chị P, anh H. Trong quá trình sinh sống trên thửa đất này, anh
H chị P kiến tạo 01 lán tôn 89,7m
2
, 01 đoạn tường dài 5m, cao 0,9m; 01
đoạn tường xây ngăn lán tôn dài 5 + 12m, cao 1,2m, 01 sân đổ bê tông không lát
nền diện tích 89,7m
2
tổng trị giá 25.868.000 đồng. Cấp thẩm đã giao cho ông
Đ, L1 trực tiếp quản sử dụng nhà đất 2 tầng thửa số 233 tờ bản đồ 7
buộc ông Đ, L1 phải trả lại giá trị tài sản đã kiến tạo trên cho anh H chị P
đúng quy định. Do đó, kháng cáo của chị P đối với nội dung này không được
chấp nhận.
[6] Đối với kháng cáo không đồng ý trả các khoản nợ chung như bản án
sơ thẩm đã quyết định, HĐXX thấy:
14
[7] Về khoản nợ vợ chồng chị H3, anh T (cơ ssản xuất T): Chị P cho
rằng khi mua các hàng hóa của sở sản xuất T4 để sửa nhà 02 tầng trên thửa
đất số 233 (hàng rào sắt, lán tôn, sửa cổng...) thì chị anh H đã ly hôn rồi nên
đây khoản nợ riêng của anh H, chị không nghĩa vụ trả; nếu xác định ngôi
nhà 02 tầng tài sản chung của chị anh H thì chị mới đồng ý trả khoản nợ
này. Tuy nhiên, theo lời trình bày của chị Mạc Thị Thanh H3 thì vào tháng
3/2020, chị sửa cổng, cửa, làm hàng rào sắt cho anh H, chị P với tổng stiền
31.600.000 đồng, anh chị mới thanh toán được 8.000.000 đồng, còn nợ
23.600.000 đồng. Như vậy, thời điểm tháng 3/2020, anh H chị P chưa ly hôn
nhau. Nội dung này cũng phù hợp với lời khai của anh H, phù hợp với đơn khởi
kiện xin ly hôn ghi ngày 07/5/2020 do chị P viết xác nhận “nợ Thanh H3
10.000.000 đồng”. Do đó, căn cứ xác định anh H, chP ntiền của vợ
chồng chị H3, anh T. Mặt khác, tất cả các tài sản mà anh H, chị P kiến thêm trên
thửa đất số 233 (trong đó có các tài sản mua của cơ sở T4) được giao cho ông Đ,
L1 sử dụng và ông bà có trách nhiệm trả giá trị tài sản đã kiến tạo nên anh H,
chị P phải trách nhiệm thanh toán nốt khoản nợ còn lại của chị H3, anh T
phù hợp. Cấp thẩm buộc anh H, chị P phải trả chị H3, anh T số tiền nợ
23.600.000 đồng là có căn cứ. Kháng cáo của chị P đối với khoản nợ này không
được chấp nhận.
[8] Về khoản nợ vợ chồng ông D, H4 (sD2): Cả anh H, chị P đều
thừa nhận năm 2017, anh chị mua máy xát gạo của vchồng ông D, H4
(cơ sở sản xuất Dũng H8) với số tiền 88.000.000 đồng. Anh H vợ chồng ông
D, H8 xác định anh H, chị P mới thanh toán được số tiền 75.000.000 đồng,
còn nợ số tiền 13.000.000 đồng. Chị P cho rằng vợ chồng đã thanh toán hết số
tiền trên cho anh D, chị H8 nhưng không đưa ra được căn cứ nào chứng minh
việc thanh toán này. Do đó, căn cứ xác định anh H, chị P còn nợ vợ chồng
ông D, bà H8 số tiền 13.000.000 đồng, cấp sơ thẩm buộc anh chị phải thanh toán
khoản tiền trên cho ông D, H8 căn cứ. Kháng cáo của chị P đối với
khoản nợ này không được chấp nhận.
[9] Về khoản nợ ông Mạc Văn Đ, Mạc Thị L1: Ông Đ anh H đều
xác định quá trình sinh sống anh chị vay ông Đ bà L1 số tiền 100.000.000
đồng đ làm ăn kinh tế, chị P chỉ thừa nhận vay của ông Đ, L1 số tiền
40.000.000 đồng nhưng quá trình vchồng giải quyết ly hôn, anh chị đã trả hết
khoản tiền trên cho ông Đ, bà L1. Tuy nhiên, ông Đ và anh H không xuất tnh
tài liệu chứng cứ khoản nợ 100.000.000 đồng nợ chung giữa anh H chị P,
chị P cũng không xuất trình được chứng cứ đã trả ông Đ, bà L1 số tiền
40.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử chỉ có sở xác định anh H chị P còn nợ
ông Mạc Văn Đ Nguyễn Thị L3 số tiền 40.000.000đồng. Còn đối với số
15
tiền 60.000.000đồng xác định là khoản nợ riêng của anh H đối với ông Đ, bà L3.
Kháng cáo của chị P đối với khoản nợ này không được chấp nhận.
[10] Về khoản nợ của anh Mạc Văn H1 chị Trần Khánh H2: Anh Mạc
Văn H1 trình bày, vào tháng 2/2020, vợ chồng anh cho anh H, chP vay s
tiền 50.000.000đồng, mục đích để trả nợ vào Ngân hàng B, khi vay hai bên
không lập văn bản, không người làm chứng nhưng anh giữ GCNQSD đất
thửa đất của anh H, chị P; anh H cũng thừa nhận việc vay tiền đồng ý trả
tiền; chị P khẳng định chị anh H không vay tiền của vợ chồng anh H1, chị
H2. HĐXX thấy anh H1 trình bày cho anh H, chị P vay tiền nhưng ngoài lời
khai, anh H1 không tài liệu nào chứng minh. Việc anh H1 giữ GCNQSD đất
thửa đất của vợ chồng anh H, chị P không đủ cơ sở chứng minh có việc cho anh
H, chị P vay tiền. Do anh H xác định có việc vay tiền của anh H1, chị H2 nên có
cơ sở xác định khoản nợ 50.000.000 đồng nợ riêng của anh H với anh H1, chị
H2. Cấp thẩm xác định khoản nợ trên nchung của anh H, chị P buộc
chị P có trách nhiệm trả 25.000.000 đồng cho anh H1, chị H2 là không có cơ sở.
Nội dung kháng cáo này của chị P được chấp nhận.
[11] Ngoài ra, chị P còn kháng cáo cho rằng anh H đã thừa nhận đã bán
máy xát được 45.000.000 đồng hiện đang quản số tiền này nhưng cấp
thẩm không trừ số tiền này vào khoản nợ chung không đúng. Tuy nhiên, anh
H khẳng định do anh mua máy xát nên máy bhỏng, không sử dụng được.
Vào thời điểm dịch covid, do không việc làm, lại không có tiền nuôi con nên
anh đã bán máy xát với giá sắt vụn đã sử dụng hết số tiền đó đchi tiêu sinh
hoạt trong gia đình, đến nay anh cũng không nhớ bán được bao nhiêu tiền. Bản
thân chị P cũng xác định không biết anh H bán máy xát vào thời gian nào, cho ai
được bao nhiêu tiền. Do đó không căn cứ xác định anh H đang quản số
tiền 45.000.000 đồng và trừ số tiền này vào nchung của vợ chồng nkháng
cáo của chị P.
[12] Từ những phân tích trên, HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của
chị Dương Thị P, sửa bản án hôn nhân và gia đình sơ thm s 07/2025/HNGĐ-
ST ngày 19/3/2025 ca Tòa án nhân dân thành ph Chí Linh, tnh Hi Dương
(nay là Tòa án nhân dân khu vc - Hi Phòng).
[13] V án phí dân s sơ thm: Các đương s không kháng cáo v án phí
dân s sơ thm nhưng do HĐXX sa mt phn bn án sơ thm v khon n
nên án phí dân s sơ thm s đưc tính li cho phù hp vi quy định ca pháp
lut. Theo đó, ch P, anh H s phi chu án phí dân s sơ thm đối với phần tài
sản được chia sau khi trừ đi giá trị tài sản thực hiện nghĩa vụ trả nợ phải chịu
án phí đối với phần thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại điểm b khoản 7
Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội; ông Đ, bà L3 là người cao tui nên đưc min án phí dân
16
s sơ thm; anh H1, ch H2, ch H3, anh T, ông D, bà H2 đưc tr n nên không
phi chu án phí.
[14] Án phí phúc thẩm: Kháng cáo của chị P được chấp nhận một phần
nên chị P không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309, khoản 2 Điều 148 của Bộ luật tố
tụng dân sự; Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Chp nhn mt phn kháng cáo ca ch Dương Th P, sa bn án hôn
nhân và gia đình sơ thm s 07/2025/HNGĐ- ST ngày 19/3/2025 ca Tòa án
nhân dân thành ph Chí Linh, tnh Hi Dương (nay là Tòa án nhân dân khu vc
9 - Hi Phòng) như sau:
Căn cứ khoản 2 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 357, Điều 468 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 29, Điều 33,
Điều 59, Điều 60, Điều 62 Luật Hôn nhân Gia đình; điểm b khoản 7 Điều 27
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, xử:
1. Về tài sản:
1.1. Xác định tài sản chung của chị Dương Thị P và anh Mạc Văn H gồm:
Thửa đất số 232 tờ bản đồ số 7 tại khu dân B, phường A, thành phố C, tỉnh
Hải Dương (nay khu dân B, phường L, thành phố Hải Phòng) trị g
1.200.000.000đồng; tài sản kiến tạo trên thửa đất 233 tờ bản đồ số 7 gồm 01 lán
tôn 89,7m
2
, 01 đoạn tường dài 5m, cao 0,9m, 01 đoạn tường xây ngăn lán tôn
dài 5 + 12m, cao 1,2m, 01 sân đổ tông không lát nền diện tích 89,7m
2
, trị giá
25.868.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là: 1.225.868.000đồng.
1.2. Chia hiện vật:
- Giao cho anh Mạc Văn H quản lý, sử dụng thửa đất s232 tờ bản đồ số
7, diện tích 240m
2
đất tại khu dân B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải
Dương (nay khu dân B, phường L, thành phố Hải Phòng) trị g
1.200.000.000đồng được giới hạn bởi các điểm A1, B3, B2, B1 đến A1 (có
đồ kèm theo).
- Giao cho ông Mạc Văn Đ và bà Mạc Thị L1 quản lý, sử dụng các tài sản
chung của anh Mạc Văn H chị Dương Thị P đã tôn tạo trên thửa đất số 233,
tờ bản đồ số 7 tại khu dân cư B, phường A, thành phố C, tỉnh Hải Dương (nay là
khu dân B, phường L, thành phố Hải Phòng) gồm: 01 lán tôn 89,7m
2
, 01
đoạn tường dài 5m, cao 0,9m, 01 đoạn tường xây ngăn lán tôn dài 5 + 12m, cao
17
1,2m, 01 sân đổ tông không lát nền diện tích 89,7m
2
, tổng trị giá 25.868.000
đồng.
- Buộc anh Mạc Văn H phải thanh toán trả giá trị tài sản chung bằng tiền
cho chị Dương Thị P (tương đương 30% giá trị thửa đất) là 360.000.000đồng.
- Buộc ông Mạc Văn Đ và bà Mạc Thị L1 phải thanh toán trả tiền kiến tạo
tài sản trên thửa đất 233 tờ bản đồ số 7 tại khu dân B, phường A, thành phố
C, tỉnh Hải Dương (nay khu dân B, phường L, thành phố Hải Phòng) cho
anh Mạc Văn H là 12.934.000đồng và cho chị Dương Thị P là 12.934.000đồng.
2. Về nợ chung:
- Xác định anh Mạc Văn H chị Dương Thị P nợ ông Mạc Văn Đ
Mạc Thị L1 40.000.000đồng; nợ chị Mạc Thị Thanh H3 anh Phạm Văn T
23.600.000đồng; nợ ông Nguyễn Đình D và bà Phạm Thị H4 13.000.000đồng.
- Buộc anh Mạc Văn H phải trả nợ chung của vợ chồng như sau: Trả ông
Mạc Văn Đ bà Mạc Thị L1 20.000.000 đồng; trả chị Mạc Thị Thanh H3
anh Phạm Văn T 11.800.000 đồng; trả ông Nguyễn Đình D Phạm Thị H4
6.500.000 đồng;
- Buộc chị Dương Thị P phải trả nợ chung của vợ chồng như sau: Trả ông
Mạc Văn Đ Mạc Thị L1 20.000.000 đồng; trả chị Mạc Thị Thanh H3
anh Phạm Văn T 11.800.000 đồng; trả ông Nguyễn Đình D Phạm Thị H4
6.500.000 đồng;
3. Về nợ riêng:
Xác định anh Mạc Văn H nợ riêng ông Mạc Văn Đ Mạc Thị L1 số
tiền 60.000.000đồng; nợ anh Mạc Văn H1 chị Trần Khánh H2 số tiền
50.000.000 đồng.
Buộc anh Mạc Văn H phải trả ông Mạc Văn Đ và bà Mạc Thị L1
60.000.000đồng; trả anh Mạc Văn H1 và chị Trần Khánh H2 số tiền 50.000.000
đồng.
4. Không chấp nhận yêu cầu của ông Mạc Văn Đ, Mạc Thị L1 buộc
anh Mạc Văn H và chị Dương Thị P phải thanh toán số tiền thuê đất.
Tạm giao phần diện tích 235,3m
2
phần diện tích đất dôi cho ông Mạc
Văn Đ quản lý sử dụng. Khi chính quyền địa phương có nhu cầu sử dụng thì ông
Đ phải trả lại phần diện tích lấn chiếm tháo dcác công trình trên đất (nếu
có).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật, người được thi hành án đơn
yêu cầu thi hành án người phải thi hành án không thi hành các khoản tiền
trên thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất do chậm thi hành theo
quy định tại Điều 357 và 468 Bộ luật dân sự.
5. Về án phí dân sự thẩm: Chị Dương Thị P phải nộp 16.085.000 đồng
án phí chia tài sản chung 1.915.000 đồng án phí trả nợ, tổng 18.000.000
18
đồng; đối trừ với số tiền 12.900.000 đồng chị P đã nộp tạm ứng án phí theo biên
lai thu số 0003887 ngày 13/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Chí Linh, tỉnh Hải Dương, chị P còn phải nộp 5.100.000 đồng.
Anh Mạc Văn H phải nộp 31.668.000 đồng án phí chia tài sản chung
7.415.000 đồng án phí trả nợ, tổng là 39.083.000đồng.
Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho ông Mạc Văn Đ và bà Mạc Thị L1.
6. Về án phí phúc thẩm: Chị Dương Thị P không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
7. Các nội dung khác của bản án không có kháng cáo, kháng nghị hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án, 12/8/2025.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi
hành án dân sự, thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Hải Phòng;
- Thi hành án dân sự thành phố Hải
Phòng;
- Các đương sự;
- Người bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đoàn Thị Hương Nhu
Tải về
Bản án số 14/2025/HNGĐ-PT Bản án số 14/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 14/2025/HNGĐ-PT Bản án số 14/2025/HNGĐ-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất