Bản án số 131/2024/DS-ST ngày 06/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 131/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 131/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 131/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 131/2024/DS-ST ngày 06/10/2024 của TAND huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Đại (TAND tỉnh Bến Tre) |
Số hiệu: | 131/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 06/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Nguyễn Thị B đòi tiền vay, hụi Hồ Thi K |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ, TỈNH BT
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Võ Thị Loan.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Bùi Văn Chiếu.
2. Ông Trương Văn Săng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Kim Tuyết, thư ký Tòa án nhân dân huyện BĐ,
tỉnh BT.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BĐ: Ông Nguyễn Văn Lanh – Kiểm sát
viên.
Ngày 06 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện BĐ, tỉnh BT
xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 203/2024/TLST-DS ngày 29 tháng 5 năm
2024, về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, nợ hụi” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số 213/2024/QĐXX-ST ngày 14 tháng 9 năm 2024 và Quyết định hoãn
phiên tòa số 173/2024/QĐST-DS ngày 22/9/2024, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1960 (có mặt).
Cư trú: ấp Giồng Kiến, xã PL, huyện BĐ, tỉnh BT.
* Bị đơn: Bà Hồ Thị K, sinh năm 1962 (Vắng mặt).
Cư trú: ấp Giồng Kiến, xã PL, huyện BĐ, tỉnh BT.
Bà K ủy quyền cho ông Trần CT, sinh năm 1981, cư trú: ấp Phước Thạnh, xã
TP, huyện BĐ, tỉnh BT tham gia tố tụng theo Hợp đồng ủy quyền ngày 25/6/2024.
Ông T có mặt.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BĐ, TỈNH BT
Bản án số: 131/2024/DS-ST
Ngày: 06/10/2024.
V/v: “Tranh chấp hợp đồng vay tài
sản, nợ hụi”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm
1959; Cư trú: ấp Giồng Kiến, xã PL, huyện BĐ, tỉnh BT. Ông Th vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 14 tháng 7 năm 2023, biên bản lấy lời khai ngày
31/7/2024 (Bl 54), nguyên đơn bà Nguyễn Thị B trình bày nội dung khởi kiện và
yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:
Vào ngày 05/9/2021 bà có cho vợ chồng bà Hồ Thị K và ông Nguyễn Văn Thô
vay số tiền là 10.000.000 đồng, lãi suất thỏa thuận là 1%/tháng, không có thỏa thuận
thời gian trả nhưng khi nào bà cần lấy vốn lại thì báo trước 01 tuần. Khi vay thì bà Hồ
Thị K có ghi họ tên, số tiền vay vào Hợp đồng mượn tiền, toàn bộ các chữ viết trong
Hợp đồng mượn tiền là chữ viết của bà K và bà K ký tên, viết rõ họ tên ở dưới mục
Bên mượn, còn bên cho mượn thì bà có ký tên, ghi rõ họ tên của bà.
Do bà K, ông Thô không trả lãi, không trả vốn mặc dù bà có đến đòi nhiều lần
nhưng vẫn không trả. Do đó, bà kiện đòi vợ chồng bà K, ông Thô phải trả cho bà số
tiền vốn vay 10.000.000 đồng.
Ngoài số tiền vay trên thì bà có chơi hụi với tư cách là thành viên tham gia
chơi hụi, còn bà K là chủ hụi. Quá trình tham gia chơi hụi thì bà K còn nợ bà số
tiền là 53.500.000 đồng. Cụ thể bà tham gia chơi hụi như sau:
- Dây 1: Hụi mệnh giá một triệu, khui lần đầu vào ngày mùng 5 tháng 10 năm
2020 al, gồm 27 phần, bà tham gia 01 phần, đã đóng được 19 phần thì bà K tuyên
bố vỡ hụi. Trong dây hụi này bà K tự ghi là còn nợ bà số tiền là 18.500.000 đồng.
- Dây 2: Hụi mệnh giá một triệu, khui lần đầu vào ngày mùng 25 tháng 12
năm 2020 al, gồm 28 phần, bà tham gia 02 phần, đã đóng được 15 phần thì bà K
tuyên bố vỡ hụi. Trong dây hụi này bà K tự ghi là còn nợ bà số tiền là 29.000.000
đồng.
- Dây 3: Hụi mệnh giá hai triệu, khui lần đầu vào ngày mùng 30 tháng 10 năm
2021 al, gồm 28 phần, bà tham gia 01 phần, đã đóng được 06 phần thì bà K tuyên
bố vỡ hụi. Trong dây hụi này bà K tự ghi là còn nợ bà số tiền là 11.000.000 đồng.
- Dây 4: Hụi mệnh giá hai triệu, khui lần đầu vào ngày mùng 5 tháng 10 năm
2022 al, gồm 27 phần, bà tham gia 01 phần, đã đóng được 04 phần thì bà K tuyên bố
vỡ hụi. Trong dây hụi này bà K tự ghi là còn nợ bà số tiền là 7.000.000 đồng.
3
Phần tiền nợ hụi thì tổng số tiền bà K còn nợ bà là 65.500.000 đồng.
Bà nợ lại bà K tổng số tiền hụi chết là 12.000.000 đồng, bà K trừ ra 12.000.000
đồng nên bà K đã tự ghi giấy nợ xác định số tiền hụi còn nợ bà là 53.500.000 đồng.
Giấy hụi này do bà K ghi và giao lại cho bà giữ có ký tên xác nhận chủ hụi là bà Hồ Thị
K, còn giấy hụi ghi Vợ Ba Lu là bà vì chồng bà là Ba Lu. Bà B thừa nhận bà K có trả bà
làm nhiều lần được số tiền là 4.500.000 đồng.
Do đó, tại phiên tòa hôm nay bà yêu cầu bà K và ông Thô phải liên đới trả cho
bà tổng số tiền vay là 10.000.000 đồng. Tiền nợ hụi là: 53.500.000 đồng –
4.500.000 đồng = 49.000.000 đồng. Tổng số tiền nợ vay, nợ hụi là 59.000.000
đồng, bà không yêu cầu tính lãi suất.
Chứng cứ khởi kiện của bà là: Giấy mượn tiền ngày 05/9/2021; Giấy hụi
* Tại Văn bản trình bày ý kiến ngày 27/6/2024, ngày 14/8/2024 của người đại
diện theo ủy quyền của bị đơn bà Hồ Thị K nêu với nội dung như sau:
- Phần tiền vay bà K thừa nhận có vay của bà Nguyễn Thị B là 10.000.000
đồng.
- Phần tiền hụi thì, bà K thừa nhận bà có làm chủ hụi, bà B là thành viên chơi
hụi và những dây hụi bà B trình bày về mệnh giá hụi, thời gian chơi hụi, số thành
viên chơi hụi ở từng dây hụi đúng như bà B đã trình bày. Tuy nhiên, phần nợ tiền
hụi thì bà K chỉ thừa nhận số nợ ở các dây hụi như sau:
+ Hụi một triệu, mở ngày 05/10/2020 thì nợ là 9.590.000 đồng, không phải
như bà B nêu là 18.500.000 đồng vì mỗi lần đóng ở dây hụi này thấp nhất là
300.000 đồng, cao nhất là 800.000 đồng.
+ Hụi một triệu, mở ngày 25/12/2020 thì nợ là 14.300.000 đồng, không phải
như bà B nêu là 29.000.000 đồng vì mỗi lần đóng ở dây hụi này thấp nhất là
300.000 đồng, cao nhất là 800.000 đồng.
+ Hụi hai triệu, mở ngày 30/10/2021 thì nợ là 6.930.000 đồng, không phải như
bà B nêu là 11.000.000 đồng vì mỗi lần đóng ở dây hụi này thấp nhất là 950.000
đồng, cao nhất là 1.600.000 đồng.
+ Hụi hai triệu, mở ngày 05/10/2022 thì nợ là 5.650.000 đồng, không phải như
bà B nêu là 7.000.000 đồng vì mỗi lần đóng ở dây hụi này thấp nhất là 1.350.000
đồng, cao nhất là 1.600.000 đồng.
Ngoài ra, bà K đã trả nhiều lần cho bà B số tiền là 4.500.000 đồng. Vì vậy, bà
K còn nợ bà B số tiền vay là 10 triệu đồng, nợ hụi là
9.590.000 đồng + 14.300.000 đồng + 6.930.000 đồng + 5.650.000 đồng =
4
36.470.000 đồng.
Vì vậy, qua yêu cầu khởi kiện của B bà K đồng ý trả nợ số tiền là 46.470.000
đồng – 12.000.000 đồng tiền hụi chết – 4.500000 đồng tiền đã trả còn lại là
29.970.000 đồng, mỗi tháng trả 1.000.000 đồng.
* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán
Thẩm phán được phân công thụ lý xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp
đồng vay tài sản và tranh chấp hụi” là đúng quan hệ tranh chấp. Quan hệ pháp luật
này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện BĐ theo quy định tại
Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán
đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc xác định đúng tư cách pháp lý
của những người tham gia tố tụng, tổ chức phiên họp công khai chứng cứ và hòa
giải giữa các đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo, chuyển hồ sơ cho Viện
kiểm sát nghiên cứu đảm bảo đúng thời hạn. Tuy nhiên, có vi phạm trong việc gửi
Thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát trễ hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 196
BLTTDS.
- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của
BLTTDS và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về việc xét xử vụ án
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng
Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy
định tại Điều 70, 71 BLTTDS.
Bị đơn vắng mặt những lần Tòa án triệu tập để làm việc là chưa thực hiện
đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định tại Điều 70, 72 BLTTDS.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt những lần Tòa án triệu tập
để làm việc là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy
định tại Điều 70, 73 BLTTDS.
Về việc giải quyết vụ án dân sự, nhận thấy: Bà Nguyễn Thị B khởi kiện yêu
cầu bà Hồ Thị K và ông Nguyễn Văn Thô có trách nhiệm liên đới trả bà số tiền
59.000.000 đồng trong đó 10.000.000 đồng tiền vay, 49.000.000 đồng tiền nợ hụi,
yêu cầu tính lãi suất từ ngày 15/7/2024.
Đối với số tiền vay 10.000.000 đồng, chứng cứ bà B cung cấp là hợp đồng
mượn tiền đề ngày 05/9/2021 có chữ ký của bà K và bà B. Bà K thừa nhận có nợ bà
B và có ký tên trong hợp đồng mượn tiền nêu trên, nên đây là tình tiết không phải
chứng minh theo Điều 92 BLTTDS. Do đó, bà B yêu cầu bà K trả bà số tiền vay
trên là có cơ sở, đề xuất chấp nhận.
5
Đối với số tiền nợ hụi, chứng cứ bà B cung cấp là giấy tay ghi tiền hụi có chữ
ký của bà K. Bà K thừa nhận chữ ký là của bà, nhưng bà K không đồng ý với số
tiền bà B yêu cầu. Bà trình bày bà còn nợ bà B số tiền nợ hụi 19.970.000 đồng. Tuy
nhiên bà không có chứng cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình nên không
có cơ sở xem xét. Do vậy, có căn cứ việc bà K còn nợ bà B số tiền hụi 49.000.000
đồng, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà B.
- Về lãi suất và thời điểm tính lãi: bà B yêu cầu tính lãi suất với mức lãi suất
theo quy định của pháp luật đối với số tiền bà K nợ nêu trên từ ngày 15/7/2024.
Trong hợp đồng mượn tiền không thể hiện mức lãi suất và thời gian trả lãi nên áp
dụng mức lãi suất 0,83%/tháng từ ngày 15/7/2024 đối với số tiền vay 10.000.000
đồng là có cơ sở. Đối với số tiền nợ hụi thì không áp dụng lãi suất.
- Về trách nhiệm liên đới: bà B yêu cầu bà K và ông Thô có trách nhiệm liên
đới trả bà số tiền nêu trên. Tuy nhiên ông Thô vắng mặt tại các lần Tòa mời làm
việc nên không trình bày ý kiến cũng không có ý kiến phản đối. Ông Thô và bà K
là vợ chồng nên đây là số nợ trong thời kỳ hôn nhân. Bà K dùng số tiền trên vào
mục đích phát triển kinh tế gia đình nên ông Thô có trách nhiệm liên đới cùng bà K
trả cho bà B số tiền nợ nêu trên.
Từ những phân tích trên: đề nghị HĐXX căn cứ Điều 463, 466, 468 BLDS
2015, Điều 92 BLTTDS:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B. Buộc bà Hồ Thị K và ông
Nguyễn Văn Thô có trách nhiệm liên đới trả bà số tiền vay 10.000.000 đồng, tính
lãi suất 0,83%/tháng từ ngày 15/7/2024 và 49.000.000 đồng tiền nợ hụi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp:
Bà Nguyễn Thị B khởi kiện yêu cầu bà Hồ Thị K và ông Nguyễn Văn Thô
phải liên đới cho bà số tiền nợ vay, nợ hụi. Do đó, quan hệ pháp luật tranh chấp
trong vụ án này được xác định là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, nợ hụi” được
quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn có đăng ký thường trú tại xã PL,
huyện BĐ, tỉnh BT. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết
6
theo trình tự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện BĐ.
Về nội dung vụ án:
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị B yêu cầu bà Hồ
Thị K phải trả số tiền vốn vay là 10.000.000 đồng.
Hội đồng xét xử, xét thấy: Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của bị
đơn Hồ Thị K thừa nhận có vay và còn nợ bà B số tiền vay trên. Căn cứ Điều 92
của Bộ luật tố tụng dân sự thì đây là tình tiết được bị đơn thừa nhận nên công nhận
đó là sự thật, nguyên đơn không cần phải chứng minh.
Do vậy, bà Nguyễn Thị B khởi kiện đòi bà Hồ Thị K phải trả số tiền nợ vốn
vay 10.000.000 đồng là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên Hội
đồng xét xử chấp nhận.
[4] Xét chứng cứ nguyên đơn cung cấp là giấy hụi (bl 55), trong đó thể hiện
04 dây hụi cho bà K làm chủ hụi có ký tên và ghi rõ họ tên chủ hụi Hồ Thị K. Theo
chứng cứ trên đã thể hiện: Tổng số tiền chủ hụi Hồ Thị K còn nợ bà B là
65.500.000 đồng, đã trừ đi số tiền hụi chết 12.000.000 đồng, còn nợ lại là
53.500.000 đồng. Bị đơn không thừa nhận chỉ thừa nhận bà B đã đóng tiền vốn
góp hụi cho các dây hụi trên là 36.470.000 đồng.
[5] Xét chứng cứ là giấy ghi hụi do bị đơn giao nộp thể hiện việc chủ hụi bà K
tự ghi số tiền góp hụi ở những lần hụi viên đóng hụi để theo dõi. Qua xem xét
chứng cứ này không phù hợp với số lần mà nguyên đơn đã trình bày tại giấy hụi do
nguyên đơn cung cấp. Cụ thể:
Dây hụi mở ngày 05/10/20220 nguyên đơn khai chỉ đóng 19 lần, còn giấy hụi
bị đơn nộp (bl 37) thể hiện đã mở hụi 22 lần; dây hụi mở ngày 25/12/2020 bà B
tham gia 2 phần nhưng bị đơn giao nộp (bl 38) chỉ thể hiện bà B 01 phần, đã mở
hụi đến 19 lần, còn nguyên đơn thì dây hụi này chỉ mở 15 lần; Dây hụi mở ngày
30/10/2021 nguyên đơn khai chỉ mở được 6 lần còn bị đơn cung cấp chứng cứ là
giấy hụi đã mở 8 lần; Hụi ngày 05/10/2022 nguyên đơn khai 4 lần mở hụi , bị đơn
cung cấp giấy hụi mở đến 5 lần. Như vậy, những giấy hụi mà bị đơn giao nộp có
nội dung không liên quan đến các dây hụi mà nguyên đơn khởi kiện và các giấy
này là bản sao không có giá trị chứng minh.
[6] Qua đánh giá chứng cứ nguyên đơn cung cấp là Giấy hụi (bl55) và các
chứng cứ do bị đơn cung cấp (Bl 37-40).
Nhận thấy:
- Qua trình bày của nguyên đơn, bị đơn hoàn toàn phù hợp với nhau về thời
gian, số tiền của từng dây hụi, số thành viên chơi hụi.
7
Tuy nhiên, về số tiền hụi còn thiếu thì bị đơn chỉ thừa nhận có một phần
nhưng bị đơn không đưa ra được căn cứ chứng minh. Hơn nữa, tại văn bản trình
bày của bị đơn ngày 27/6/2024, ngày 14/8/2024, Biên bản do Hòa giải viên lập
ngày 10/11/2023 thì bị đơn thừa nhận số tiền nợ hụi như nguyên đơn nêu phù hợp
với chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cho Tòa án là giấy hụi có chữ ký của chủ hụi
bà Hồ Thị K.
- Tại phiên tòa bị đơn thừa nhận chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là đúng
chữ ký tên của bà K và ghi rõ tên của bà Hồ Thị K, nên Hội đồng xét xử ghi nhận
sự thừa nhận này của bị đơn. Sự thừa nhận này phù hợp với chứng cứ nguyên đơn
đã dùng làm căn cứ cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Vì vậy, nguyên đơn căn cứ vào Giấy hụi tại thời điểm bị bể hụi bà K đã tự
nguyện ghi và xác nhận số nợ còn thiếu bà B tổng số số 53.500.000 đồng, giấy hụi
này do bà tự nguyện xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận,
không ai ép buộc bà nên buộc bà Hồ Thị K phải thực hiện theo sự thỏa thuận này là
phù hợp với quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự quy định các nguyên tắc cơ bản
của pháp luật dân sự.
Từ những cơ sở trên, có căn cứ để xác định bà Hồ Thị K đã có nợ tiền hụi của
bà B theo giấy hụi mà bà B cung cấp là 53.500.000 đồng theo như sự thỏa thuận
của hai bên tại thời điểm xãy ra bể hụi. Do đó, bà B kiện đòi bà Hồ Thị K phải trả
cho bà số tiền nợ hụi còn thiếu là 53.500.000 đồng là có cơ sở.
[7] Tại Văn bản trình bày ý kiến của người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
ngày 14/8/2024 đã thừa nhận bà K đã trả cho bà B nhiều lần được tổng số tiền là
4.500.000 đồng, điều này được bà B thừa nhận nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Tại phiên tòa, bà Nguyễn Thị B yêu cầu bà Hồ Thị K phải có nghĩa vụ trả
cho bà số tiền hụi còn nợ là: 53.500.000 đồng – 4.500.000 đồng = 49.000.000 đồng
là có căn cứ để chấp nhận. Buộc bà Hồ Thị K phải có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn
Thị B số tiền hụi còn thiếu là 49.000.000 đồng.
[8] Như vậy, tổng số tiền nợ vay, nợ hụi bà Hồ Thị K phải có nghĩa vụ trả cho
bà Nguyễn Thị B là 59.000.000 đồng.
[9] Xét về nghĩa vụ liên đới của ông Nguyễn Văn Thô: Ông Nguyễn Văn Thô
là chồng bà Hồ Thị K nên phải có nghĩa vụ liên đới cùng bà K trả số nợ này cho bà
B là phù hợp với quy định tại Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình.
[10] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bà Hồ Thị K, ông Nguyễn Văn Thô phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm
có giá ngạch là 2.950.000 đồng (hai triệu chín trăm năm mươi ngàn đồng). Tuy
8
nhiên, bà K là người cao tuổi và có đơn xin miễn nộp tiền án phí. Căn cứ Điều 12
của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án
bà K, ông Thô được miễn nộp toàn bộ số tiền án phí mà ông, bà phải chịu.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 463, 466, 468, 469, 471, Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015;
khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Luật Hôn
nhân và gia đình; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B đối với Hồ Thị K và ông
Nguyễn Văn Thô. Về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản, hợp đồng góp hụi”.
2. Buộc bà Hồ Thị K, ông Nguyễn Văn Thô phải có nghĩa vụ liên đới trả cho
bà Nguyễn Thị B tổng số tiền nợ vay, nợ hụi là 59.000.000 đồng. Trong đó: Nợ vay
là 10 triệu đồng (Mười triệu đồng), nợ hụi 49.000.000 đồng (Bốn mươi chín triệu
đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành
án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu
thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người
được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Hồ Thị K, ông Nguyễn Văn Thô thuộc trường hợp được miễn nộp toàn bộ
số tiền án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
9
Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn Thô vắng mặt tại phiên
tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản
án hoặc Bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh BT
(Phòng KTNV& THA);
- VKSND huyện BĐ;
- Chi cục THADS huyện BĐ;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Võ Thị Loan
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Văn Chiếu Trƣơng Văn Săng Võ Thị Loan
10
Tải về
Bản án số 131/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 131/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm