Bản án số 1135/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 1135/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 1135/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 1135/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bà Nguyễn Thanh Thùy Linh kiện Chù tịch UBND thành phố Cần Thơ về "Khiếu kiện quyết định phê duyệt phương án bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại"
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1135/2024/HC-PT
Ngày: 30 - 9 - 2024
V/v “Khiếu kiện quyết định phê duyệt
phương án bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất và giải quyết khiếu nại”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Đạt;
Các Thẩm phán: Ông Dương Tuấn Vinh;
Bà Nguyễn Thị Thụy Vũ.
- Thư phiên tòa: Hoàng Thị Kim Nhi - Thư của Tòa án nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Vi Dũng - Kiểm sát viên tham gia phiên toà
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hành chính thụ
lý số 573/2024/TLPT-HC ngày 28 tháng 6 năm 2024, v“Khiếu kiện quyết định
phê duyệt phương án bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất giải quyết khiếu
nại”.
Do Bản án hành chính thẩm số 16/2023/HC-ST ngày 23 tháng 6 năm
2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ, bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2744/2024/QĐ-PT
ngày 09 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
Người khởi kiện:Nguyễn Thanh Thùy L, sinh năm 1986 (vắng mặt);
Địa chỉ: số C Khu V, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hùng T, sinh năm 1975 (có
mặt);
Nơi cư trú: P.8, Nhà K, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội.
Địa chỉ liên hệ: số A M, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Người bị kiện:
1/. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố C;
2
Người đại diện theo ủy quyền: ông Dương Tấn H, chức vụ Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố C (có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 02/3/2023).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp: Ông Phạm Trung H1-Phó Giám
đốc Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố C (có mặt).
2/. Ủy ban nhân dân quận N, thành phố Cần Thơ;
Người đại diện theo pháp luật: ông Huỳnh Trung T1, chức vụ Chủ tịch Ủy
ban nhân dân quận N (có đơn xin xét xử vắng mặt ngày 10/3/2023).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp:
Ông Nguyễn Việt C, cư trú tại số A N, phường A, quận N, thành phố Cần
Thơ (có mặt).
Ông Đoàn Quốc H2, trú tại số G, đường X, phường A, quận N, thành
phố Cần Thơ (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ kiện, người khởi kiện
người khởi kiện và người đại diện trình bày:
Do có nhu cầu về đất ở, bà Nguyễn Thanh Thùy L sau khi tìm hiểu tại khu
V, phường A, quận N, thấy đường đã sẵn (đường đal ngang 4m), dân
cất nhà, đường điện, nước đầy đủ, nên đã nhận chuyển nhượng 69,7m
2
,
loại đất trồng cây lâu năm. Sau này bà L mới phát hiện toàn bộ sở hạ tầng
này hình thành trái phép nhưng chính quyền không xử lý triệt để, vẫn để tồn tại.
Trong thông báo và quyết định thu hồi đất đang áp dụng giá đất không tiếp giáp
đường là không chính xác; theo Chứng thư thẩm định giá của công ty thẩm định
giá Thành Đô ghi đơn giá theo giá thị trường tại thời điểm 12/8/2022 là
6.921.112 đồng/m
2
, nhưng quyết định 8055 bồi thường theo giá đã định giá năm
2020, nên đề nghị định giá lại.
Trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có ghi rất rõ ràng địa chỉ, chủ sở
hữu hợp pháp L, nhưng đơn vị chịu trách nhiệm bồi thường giải phóng
mặt bằng đã triển khai quyết định thu hồi đến một người khác vào năm 2020,
nhưng đến ngày 01/12/2021, tức gần 2 năm sau ngày quyết định thu hồi đất
hiệu lực, vchồng L mới được bàn giao lại các quyết định này đã vi phạm
nghiêm trọng đến quyền tiếp cận thông tin đền bù đất, làm ảnh hưởng đến quyền
lợi của đơn giá bồi thường phải tại thời điểm nhận được quyết định thu
hồi đất, việc chậm trễ hoàn toàn do lỗi của quan bồi thường giải phóng
mặt bằng.
Nguyễn Thanh Thùy L khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy các quyết định
hành chính gây thiệt hại quyền và lợi ích hợp pháp của bà gồm:
- Quyết định số 8055/QĐ-UBND ngày 16/11/2020 của UBND quận N,
thành phố Cần Thơ về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với
Tăng Ngọc H3 ảnh hưởng dự án xây dựng khu Tái định cư N, khu vực 4 phường
A, quận N, thành phố Cần Thơ (sau đây gọi tắt là quyết định 8055);
3
- Một phần Quyết định số 10018/QĐ-UBND ngày 12/11/2021 của UBND
quận N về việc điều chỉnh họ tên đối với Tăng Ngọc H3 thành tên Nguyễn
Thanh Thùy L trên các quyết định thu hồi đất quyết định phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ về đất dự án xây dựng khu tái định cư N, khu V phường A,
quận N, thành phố Cần Thơ (sau đây gọi tắt là quyết định 10018) ;
- Quyết định số 3167/QĐ-UBND ngày 26/8/2022 của Chủ tịch UBND
thành phố C về việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với Nguyễn Thanh Thùy
L (sau đây gọi tắt là quyết định 3167).
Ý kiến của người bị kiện:
+ Ủy ban nhân dân quận N trình bày:
Căn cứ Quyết định số 6465/QĐ-UBND ngày 30/10/2019 của Ủy ban nhân
dân quận N về việc phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết tỉ lệ 1/500 Khu tái định
N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, đây dự án thành lập khu tái
định theo điểm c, khoản 3, điều 62 Luật Đất đai năm 2013, nên thuộc trường
hợp nhà nước thu hồi đất.
Căn cứ Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Căn cứ Thông số
30/2014/TT-BTNMT ngày 02 tháng 6 năm 2014 của Bộ T2 quy định về hồ
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất.
Nguyễn Thanh Thùy L bảnh hưởng diện tích 69,70m
2
loại đất trồng
cây lâu năm (CLN) thuộc thửa số 743, tờ bản đồ số 27 theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số
CS11573 do Sở T.Cần Thơ cấp ngày 29/12/2016 tọa lạc tại khu vực 4, phường
A, mức đ ảnh hưởng: mất trắng đất nông nghiệp, không nhà, nguồn gốc sử
dụng: nhận chuyển nhượng.
Ngày 16/11/2020, Ủy ban nhân quận ban hành Quyết định số 8015/QĐ-
UBND về việc thu hồi đất thửa đất trên để thực hiện dự án, Quyết định số
8055/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ đối với diện ch
đất bị thu hồi, nhưng cả hai quyết định đều ghi tên Tăng Ngọc H3 do bộ
phận làm thủ tục không cập nhật việc chỉnh lý đất từ bà H3 sang tên Nguyễn
Thanh Thùy L, vì vậy sau đó Ủy ban nhân dân quận đã ban hành Quyết định số
10018/QĐ-UBND ngày 12/11/2021 điều chỉnh thành tên bà Nguyễn Thanh
Thùy L trong hai quyết định nói trên.
Về gbồi thường, trên sở định giá đất do Công ty T3 thực hiện, đã
được Hội đồng thẩm định thành phố trình UBND thành phố C phê duyệt tại
Quyết định số 1264/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 về việc phê duyệt giá đất cụ thể
để tính bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với dự án Khu tái định cư
N (sau đây gọi tắt quyết định 1264), trong đó đất trồng cây lâu năm không
tiếp giáp đường 1.640.000 đ/m
2
. Trên sở giá đất được duyệt, UBND quận
N đã phê duyệt kinh phí bồi thường cho bà Nguyễn Thanh Thùy L với tổng kinh
4
phí 114.308.000 đồng đúng theo vị trí trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất (trên đất không có nhà).
Do đó, việc UBND quận N ban hành Quyết định số 8055, sau đó được
điều chỉnh họ tên bà Nguyễn Thanh Thùy L tại Quyết định số 10018 là đúng
theo quy định của pháp luật.
Từ các sở nêu trên, UBND quận N kiến nghị Tòa án nhân dân thành
phố xem xét, bác nội dung khởi kiện của Nguyễn Thanh Thùy L về việc u
cầu hủy Quyết định số 8055 và một phần Quyết định số 10018.
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố C có văn bản trình bày:
Theo Quyết định số 1264 thì giá đất cụ thể đối với loại đất trồng cây lâu
năm tại vị trí không tiếp giáp đường các vị trí còn lại khác 1.640.000
đồng/m
2
(giá đất quy định của Ủy ban nhân dân thành phố tại Quyết định số
19/QĐ-UBND ngày 31/12/2019 định kỳ 05 năm 2019-2024 đối với đất trồng
cây lâu năm có giá là 250.000 đồng/m
2
).
Trên cơ sở quyết định phê duyệt giá đất cụ thể nêu trên, UBND quận N đã
xem xét phê duyệt bồi thường cho L với đơn giá 1.640.000 đồng/m
2
. Tuy
nhiên, bà L chưa thống nhất, khiếu nại yêu cầu thu hồi quyết định thu hồi đất và
quyết định phê duyệt kinh phí bồi thường do ảnh hưởng dự án Khu tái định cư N
(cụ thể thẩm định lại giá đất bồi thường hoặc chi trả lãi suất cho thời gian
khoảng 02 năm).
Ngày 21/4/2022, Chủ tịch UBND quận N ban hành Quyết định số
2536/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại của L (lần đầu) nội dung
như sau: “Không chấp nhận nội dung khiếu nại của Nguyễn Thanh Thùy L
(do ông Nguyễn Hùng T đại diện theo ủy quyền) về việc đề nghị thu hồi Quyết
định số 8015/QĐ-UBND ngày 16 tháng 11 năm 2020 Quyết định số 8055
/QĐ-UBND ngày 16 tháng 11 năm 2020 của Ủy ban nhân dân quận N do không
có cơ sở xem xét giải quyết.”
Ngày 12/11/2021, UBND quận N ban hành Quyết định số 10018 về việc
điều chỉnh họ tên trên các quyết định thu hồi đất phê duyệt kinh phí bồi
thường từ Tăng Ngọc Q thành Nguyễn Thanh Thùy L. Đến ngày
01/12/2021, ông Nguyễn Hùng T (được L ủy quyền) mới được triển khai
quyết định điều chỉnh họ tên nêu trên.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 93 Luật đất đai năm 2013 như sau:
“Trường hợp quan, tổ chức trách nhiệm bồi thường chậm chi trả thì khi
thanh toán tiền bồi thường, h trợ cho người đất thu hồi, ngoài tiền bồi
thường, hỗ trợ theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được cấp có thẩm
quyền phê duyệt thì người đất thu hồi còn được thanh toán thêm một khoản
tiền bằng mức tiền chậm nộp theo quy định của Luật quản lý thuế tính trên số
tiền chậm trả thời gian chậm trả”. Như vậy, thời gian từ ngày 16/11/2020
đến ngày 01/12/2021 khoảng thời gian chậm chi trả cho L (do thu hồi, phê
duyệt không đúng đối tượng và thông tin chậm đến người có đất bị thu hồi), xác
5
định lỗi một phần thuộc các quan liên quan trọng việc lập hồ bồi
thường, do đây nội dung phát sinh chưa được Chủ tịch UBND quận N xem
xét, giải quyết tại Quyết định số 2536/QĐ-UBND ngày 21/4/2022. Do đó, đ
nghị bà L có đơn yêu cầu gửi đến Chủ tịch UBND quận N để được xem xét, giải
quyết đối với yêu cầu chậm chi trả tiền bồi thường theo quy định pháp luật (Nội
dung này đã được nêu tại trang 5 Quyết định số 3167/QĐ-UBND).
Từ những sở nêu trên, Chủ tịch UBND thành phố C đề nghị Tòa án
nhân dân thành phố Cần Thơ xem xét bác toàn bộ nội dung khởi kiện của
Nguyễn Thanh Thùy L.
Tại Bản án hành chính thẩm số 16/2023/HC-ST ngày 23 tháng 6
năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ quyết định:
Căn cứ Khoản 1 Điều 30, khoản 3 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 193,
khoản 1 Điều 348 của Luật tố tụng hành chính năm 2015;
Điều 62, 63, 66, 69 và Điều 74 Luật đất đai năm 2013.
Khoản 1, điều 32 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thanh Thùy L về việc
yêu cầu hủy các quyết định hành chính sau:
- Quyết định số 8055/QĐ-UBND ngày 16/11/2020 của UBND quận N,
thành phố Cần Thơ v/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với ng
Ngọc H3 ảnh hưởng dự án xây dựng khu Tái định N, khu vực 4 phường A,
quận N, thành phố Cần Thơ;
- Một phần Quyết định số 10018/QĐ-UBND ngày 12/11/2021 của UBND
quận N v/v điều chỉnh họ tên đối với bà Tăng Ngọc H3 thành tên Nguyễn Thanh
Thùy L trên các quyết định thu hồi đất quyết định pduyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ về đất dự án xây dựng khu tái định N, khu V phường A, quận
N, thành phố Cần Thơ;
- Quyết định số 3167/QĐ-UBND ngày 26/8/2022 của Chủ tịch UBND
thành phố C về việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với Nguyễn Thanh Thùy
L.
2. Kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N giải quyết đối với yêu cầu
chậm chi trả tiền bồi thường cho Nguyễn Thanh Thùy L theo quy định tại
khoản 2, điều 93 Luật Đất đai năm 2013.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm còn quyết định về án phí quyền kháng
cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm,
6
Ngày 04/7/2023, Nguyễn Thanh Thùy L kháng cáo toàn bộ bản án
thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện đơn kháng cáo
của người khởi kiện, lý do của việc kháng cáo:
Đồng ý với quyết định thu hồi đất, tuy nhiên quyết định thu hồi đất ngày
ban hành là 16/12/2020 nhưng đến ngày 01/12/2021 L mới nhận được làm
ảnh hưởng quyền lợi của đương sự; giá đất để tính bồi thường giá đất của
Công ty T3 thẩm định năm 2019; quyền lợi của người dân bị ảnh hưởng một
phần xuất phát từ lỗi của quan quản lý đất đai tại địa phương. Cụ thể đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng giá đất bồi thường của thửa đất có đường bê tông
lớn 4m và gái thẩm định đất phải là thời điểm tháng 12/2021. Từ đó yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của L.
Ông Phạm Trung H1 bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện
trình bày: Qua soát căn cứ pháp về việc bồi thường cho việc thu hồi đất
đúng quy định. Việc lập dự án, thẩm định giá đất cho L căn cứ pháp luật.
Vị trí đất của bà L được bồi thường 1.640.000 đồng/m
2
(trong khi giá đất quy
định của UBND thành phố C đối với đất trồng cây lâu năm giá 250.000
đồng/m
2
). Việc kiểm kê, kê biên, phê duyệt dự án là đúng pháp luật nên đề nghị
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Ông Nguyễn Việt C bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện
trình bày: Việc triển khai dự án đã công khai thông báo niêm yết theo đúng
quy định pháp luật. L vắng mặt nên việc soát sai sót, tuy nhiên UBND
quận N đã khắc phục việc chuyển sang tên L, bồi thường đầy đủ cho đương
sự nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa những người tham gia ttụng trong quá trình giải quyết vụ án,
kể từ khi thụ lý, cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghán: đã tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Quyết định thu hồi đất của UBND quận N
đúng với trình tự quy định pháp luật; mục đích thu hồi vì lợi ích công cộng.
Ngoài ra, Quyết định số 10018/QĐ-UBND ngày 12/11/2021 của UBND quận N
v/v điều chỉnh họ tên đối với bà Tăng Ngọc H3 thành tên Nguyễn Thanh Thùy L
trên các quyết định thu hồi đất và quyết định pduyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ về đất dự án xây dựng khu tái định cư N, khu V phường A, quận N, thành
phố Cần Thơ đã khắc phục các sai sót, không làm ảnh hưởng đến quyền lợi
ích hợp pháp của L. Đề nghị Hội đồng xét xphúc thẩm không chấp nhận
7
yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án
hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên toà, kết
quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, c quy định của pháp
luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Đơn kháng cáo của người khởi kiện hợp lệ, nên được xem xét
theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2]. Nguyễn Thanh Thùy L khởi kiện đối với các Quyết định hành
chính biệt Quyết định phê duyệt phương án bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất, quyết định điều chỉnh tên của người bị thu hồi đất, được bồi thường
Quyết định giải quyết khiếu nại, nên đáp ứng đủ các điều kiện theo khoản 1, 2,
Điều 3 Luật tố tụng hành chính năm 2015; Người bị kiện là UBND quận N, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thành phố C, vậy Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ
thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.
[1.3] UBND quận N đã ban hành Quyết định số 10018/QĐ-UBND ngày
12/11/2021 về việc điều chỉnh họ tên trên các Quyết định thu hồi đất Quyết
định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ về đất từ tên Tăng Ngọc H3
thành Nguyễn Thanh Thùy L. Xét thấy, việc điều chỉnh do UBND quận N
không cập nhật kịp thời việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chỉnh lý biến
động từ bà Tăng Ngọc H3 chuyển nhượng cho Nguyễn Thanh Thùy L (Bút
lục 79, 83). Khi điều chỉnh lại cũng không phát sinh việc khiếu nại từ Tăng
Ngọc H3. Do đó, không cần thiết phải triệu tập Tăng Ngọc H3 tham gia tố
tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu của người khởi kiện, nhận thấy:
Quyết định số 8055 Quyết định số 10018 do Ủy ban nhân dân quận N
ban hành đúng thẩm quyền theo điểm a khoản 2 Điều 66, điểm a khoản 3
Điều 69 Luật đất đai năm 2013.
Về nội dung: Người khởi kiện không đồng ý mức giá bồi thường theo
Quyết định số 8055 và một phần Quyết định số 10018 đồng thời yêu cầu định
giá theo giá thị trường.
Xét thấy, Quyết định số 8055 phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ căn
cứ vào giá đất cụ thể theo Quyết định số 1264 là đúng quy định tại khoản 2 Điều
74 Luật đất đai năm 2013:
Đối với đất của bà Nguyễn Thanh Thùy L theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ cấp GCN: CS11573 do Sở T cấp ngày 29/12/2016, được Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai quận N chỉnh sang tên L vào ngày
01/7/2019 (Bút lục 78-79) ghi nhận loại đất là đất trồng cây lâu năm, sơ đồ thửa
8
đất ngang 4,5 m, dài 15,5 m, diện tích 69,7 m
2
không thể hiện đường đi. Do đó,
UBND quận N áp giá đất thu hồi đối với người khởi kiện tại mục 4 Điều 1 của
Quyết định số 1264/QĐ-UBND ngày 26/6/2020 của UBND thành phố C
đúng quy định.
Việc UBND quận N ban hành Quyết định số 10018/QĐ-UBND ngày
12/11/2021 để điều chỉnh họ tên cho đúng với đối tượng bị thu hồi đất phê
duyệt phương án bồi thường là sau khi phát hiện Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đã được chỉnh sang tên chuyển nhượng tTăng Ngọc H3 cho
Nguyễn Thanh Thùy L (bút lục 79, 83), không phải ban hành quyết định thu hồi
đất mới nên việc người khởi kiện cho rằng giá thu hồi đất phải thời điểm
người khởi kiện chính thức nhận được quyết định thu hồi đất vào tháng 12/2021
không sở. Tuy nhiên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phC đã thừa
nhận lỗi một phần thuộc các quan liên quan trong việc lập hồ bồi
thường, chậm chi trả cho bà L. Do đó, L quyền gửi đơn yêu cầu đến Chủ
tịch Ủy ban nhân dân quận N đđược xem xét, giải quyết đối với yêu cầu chậm
chi trả tiền bồi thường theo quy định pháp luật.
[2.2] Quyết định số 3167/QĐ-UBND ngày 26/8/2022 về việc giải quyết
khiếu nại của Nguyễn Thanh Thùy L (lần hai) do Chủ tịch UBND thành phố
C ban hành đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật Khiếu
nại năm 2011.
Về trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại lần hai: Khi nhận được đơn khiếu
nại của Nguyễn Thanh Thùy L, người đại diện theo ủy quyền ông
Nguyễn Hùng T, Ủy ban nhân dân thành phố C tiến hành xác minh nội dung
khiếu nại lần hai Báo cáo số 2066 ngày 29/6/2022 kết quả xác minh nội
dung khiếu nại (Bút lục 181). Sau đó, tchức đối thoại thông qua Biên bản đối
thoại với người khiếu nại ngày 05/8/2022 (Bút lục 189) đúng theo quy định
tại Điều 38, Điều 39 Luật Khiếu nại năm 2011.
Về nội dung của đơn khiếu nại: Người khởi kiện trình bày yêu cầu
tương tự nyêu cầu khởi kiện đã được phân tích, nhận định mục [2.1]. Do
đó, Chủ tịch UBND thành phố C ban hành Quyết định số 3167/QĐ-UBND ngày
26/8/2022 không chấp nhận nội dung khiếu nại của Nguyễn Thanh Thùy L
đối với Quyết định số 2536/QĐ-UBND ngày 21/4/2022 của Chủ tịch UBND
quận N về việc giải quyết khiếu nại của Nguyễn Thanh Thùy L (lần đầu)
có căn cứ, nên không thể chấp nhận yêu cầu của Người khởi kiện.
Trong vụ án này, Tòa án cấp thẩm nhận thấy quyền lợi của người dân
bị ảnh hưởng là do một phần xuất phát từ cơ quan quản lý đất đai tại địa phương
nhưng không giải quyết trong vụ án này là có căn cứ.
Do vậy, yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh Thùy L không căn
cứ chấp nhận.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, người khởi kiện không xuất trình thêm
được chứng cứ, tài liệu mới để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.
9
Từ những nhận định phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét
thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo của
L.
[3]. Ý kiến của người bị kiện được chấp nhận.
[4]. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh tại phiên tòa được chấp nhận.
[5] Các quyết định khác của bản án hành chính thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
[6]. Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp
nhận nên bà L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241, Điều 242 Luật tố tụng hành chính;
Điều 32, Điều 33, Điều 34 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, giữ quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thanh Thùy L;
2. Giữ nguyên Bản án hành chính thẩm số 16/2023/HC-ST ngày 23
tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ;
3. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thanh
Thùy L về việc yêu cầu hủy các quyết định hành chính sau:
Quyết định số 8055/QĐ-UBND ngày 16/11/2020 của UBND quận N,
thành phố Cần Thơ v/v phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ đối với
Tăng Ngọc H3 ảnh hưởng dự án xây dựng khu Tái định N, khu vực 4
phường A, quận N, thành phố Cần Thơ;
Một phần Quyết định số 10018/QĐ-UBND ngày 12/11/2021 của UBND
quận N v/v điều chỉnh họ tên đối với Tăng Ngọc H3 thành tên Nguyễn
Thanh Thùy L trên các quyết định thu hồi đất quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ về đất dự án xây dựng khu tái định N,
khu V phường A, quận N, thành phố Cần T;
Quyết định số 3167/QĐ-UBND ngày 26/8/2022 của Chủ tịch UBND
thành phố C về việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với Nguyễn Thanh
Thùy L;
Kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N giải quyết đối với yêu cầu
chậm chi trả tiền bồi thường cho Nguyễn Thanh Thùy L theo quy định
tại khoản 2, điều 93 Luật Đất đai năm 2013.
10
4. Các quyết định khác của bản án hành chính thẩm không bị kháng
cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
5. Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận,
nên Nguyễn Thanh Thùy L phải nộp án phí hành chính phúc thẩm 300.000
đồng được trừ vào tiền tạm ứng án phí L đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai
thu số 0001876 ngày 05 tháng 7 năm 20223 của Cục Thi hành án dân sự thành
phố Cần Thơ. Bà L đã nộp đủ án phí hành chính phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại TP.HCM;
- TAND TP. Cần Thơ;
- Cục THADS TP. Cần Thơ;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, VT (TVN).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Văn Đạt
Tải về
Bản án số 1135/2024/HC-PT Bản án số 1135/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 1135/2024/HC-PT Bản án số 1135/2024/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất