Bản án số 1128/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1128/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1128/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1128/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1128/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1128/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | y án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1128/2024/HC-PT
Ngày: 30 - 9 - 2024
V/v Khiếu kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Phan Nhựt Bình
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Minh
Bà Hồ Thị Thanh Thúy
- Thư ký phiên tòa: Ông Phạm Phú Cường - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Trí Dũng - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số:
648/2024/TLPT-HC ngày 26 tháng 7 năm 2024 về việc “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 105/2024/HC-ST ngày 12 tháng 4 năm
2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 3321/2024/QĐPT-HC
ngày 09 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1950 (có mặt)
Địa chỉ: Số F, đường số E, khu phố B, phường C, Quận B (nay là thành
phố T), Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Xuân K, sinh năm 1970 (có
mặt);
Địa chỉ: số D đường H, khu phố B, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ
Chí Minh
- Người bị kiện:
1/Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (xin
vắng mặt);
2/Ủy ban nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (xin vắng mặt);
Địa chỉ: Số A T, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh
2
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố T và Ủy ban nhân dân thành phố T:
1/Ông Trần Tuấn K1, sinh năm 1980 – Phó trưởng Ban bồi thường giải
phóng mặt bằng thành phố T (xin vắng mặt);
2/Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1975 – Trưởng phòng Nghiệp vụ 1 -
Ban bồi thường giải phóng mặt bằng thành phố T (xin vắng mặt);
3/Ông Trần Quốc S, sinh năm 1980 – Phó trưởng Phòng Tiếp dân - Ban
bồi thường giải phóng mặt bằng thành phố T (có mặt)
- Người c quyền lợi, ngha v liên quan:
1/Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1956 (có mặt)
Địa chỉ: Số F Đường số E, Khu phố B, phường C, thành phố T, Thành phố
Hồ Chí Minh.
2/Bà Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1981 (vắng mặt)
Địa chỉ: Số D ấp K, xã B, thành phố T, tỉnh Tây Ninh.
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Đ.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tm tắt Bản án sơ thẩm số 1233/HCST ngày 25/9/2019 và Bản án phúc
thẩm số 585/HCPT ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao 3, như sau:
Ngày 09/8/1978, Ủy ban nhân dân thành phố H ban hành giấy phép số
63/GPĐ78NN cấp cho Bộ Tư lệnh Phòng Không, được sử dụng đất có thời hạn.
Nội dung giấy phép có nêu:
- Mc đích sử dng: Dùng vào công tác quân sự
- Tổng diện tích: 5 ha 00,00 (Năm mẫu)
- Tọa lạc tại: xã B
- Đặc trưng thửa đất: Nhằm một phần lô họa đồ số 271 và 272 tờ thứ 3 xã
B của chủ đất Nguyễn Vnh M, Nguyễn Thị N và nhiều người khác cộng hữu
chủ. Khu đất này là một gò cát hiện còn bỏ hoang chưa c ai khai phá.
Ngày 12/3/2007, Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Văn bản số
1425/UBND-ĐT để thu hồi, chuyển mục đích sử dụng đất quốc phòng tại
phường C và phường B, Quận B (gọi là Dự án chuyển mục đích sử dụng đất
quốc phòng).
Ngày 23/12/2008, U, nay là Thành phố T ban hành Quyết định số
11340/QĐ-UBND-TNMT thu hồi 5.020m
2
đất (gọi là khu đất) của bà Nguyễn
Thị Đ, vị trí, ranh giới khu đất được xác định theo bản đồ hiện trạng vị trí số
6162-18/ĐĐBĐ-VPQ2 do Trung tâm đo đạc bản đồ Sở T4 lập ngày 30/01/2008.
Ủy ban nhân dân thành phố T đã thực hiện trình tự, thủ tục được quy định tại
Luật Đất đai năm 2003; Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính
phủ.
Ngày 10/12/2012, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số
3
13350/QĐ-UBND-TNMT về điều chỉnh Điều 1 của Quyết định 11340 như sau:
“Thu hồi phần đất diện tích 5.020 m
2
thuộc một phần thửa đất số 114 tờ bản đồ
số 34 và một phần thửa đất số 03 tờ bản đồ số 36 (Bản đồ địa chính đo năm
2004) tọa lạc tại phường B - C, quận B. Vị trí, ranh giới khu đất thu hồi được
xác định theo bản đồ hiện trạng vị trí số 6162-18/ĐĐBĐ-VPQ2 do Trung tâm
đo đạc bản đồ Sở T4 lập ngày 30/01/2008” thành “Thu hồi phần đất diện tích
5.020 m
2
thuộc một phần thửa đất số 646, 668, 692, 718 và đường tờ bản đồ số
13 (theo Tài liệu 02/CT-UB) nay thuộc một phần thửa đất số 114 tờ bản đồ số
34 và một phần thửa đất số 03 tờ bản đồ số 36 (Bản đồ địa chính đo năm 2004)
tọa lạc tại phường B, Quận B của ông (bà) Nguyễn Thị Đ... .Vị trí, ranh giới khu
đất thu hồi được xác định theo bản đồ hiện trạng vị trí số 6162-18/ĐĐBĐ-VPQ2
ngày 30/01/2008 và Bản đồ hiện trạng, vị trí số 8163-18/ĐĐBĐ-VPQ2 ngày
03/01/2011 do Trung tâm Đo đạc Bản đồ Sở T4 lập”.
Ngày 27/9/2014, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định
4078/QĐ-UBND về bồi thường, hỗ trợ đất cho bà Đ (Kèm Bảng chiết tính số
18/BTĐ ngày 30/5/2014 của Ban bồi thường). Chính sách bồi thường theo Văn
bản số 1020/UBND-ĐTMT ngày 11/03/2011 về đơn giá đất để tính bồi thường,
hỗ trợ trong Dự án đất quốc phòng và Văn bản số 4815/UBND-ĐTMT ngày
27/9/2011 về đơn giá đất nông nghiệp để tính bồi thường và nguyên tắc xác định
giá đất ở trung bình khu vực tính hỗ trợ đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân
cư trên địa bàn Thành phố. Phương án bồi thường số 155/PA-HĐBT ngày
27/6/2011. Cụ thể bồi thường, hỗ trợ cho bà Đ là 1.605.213.100 đồng và được
tái định cư. Cụ thể:
* Về đất:
- Đất ở chưa được cấp giấy, chuyển mục đích từ 15/10/1993 đến trước
ngày 22/4/2002. vị trí hẻm cấp 1, vị trí 3 đường kết nối đường số E: 200m
2
x
6.600.000 đồng x 0,1 = 1.320.000.000đồng;
- Đất nông nghiệp; vị trí không mặt tiền đường: 200m
2
x 342.000 đồng x
0,1 = 68.400.000đồng;
- Đất nông nghiệp chiếm dụng năm 2007; vị trí không mặt tiền đường:
4.620m
2
= Không bồi thường, hỗ trợ.
- Hỗ trợ đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường:
200m
2
x 1.612.000 đồng x 0,5 = 161.200.000 đồng
* Khấu trừ nghĩa vụ tài chính:
Đất ở, chuyển mục đích sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày
22/4/2002, vị trí hẻm cấp 1, vị trí 3 đường kết nối đường số E: 200m
2
x
2.600.000 đồng x 0,5*0,5*0,3* = 39.000.000 đồng;
* Về công trình xây dựng và vật kiến trúc trên đất:
Diện tích nhà: 226,20m
2
, gồm các hiện trạng:
- Mái lá, xà gỗ, nền đất; xây dựng sau 01/7/2004: 18,80 m
2
= không bồi
4
thường, hỗ trợ;
- Cột gạch, tường gạch, xà gỗ, mái tôn, nền xi măng; xây dựng sau ngày
01/7/2004: 44,70m
2
= Không bồi thường, hỗ trợ;
- Cột gạch, tường gạch + ván, xà gỗ + sắt, mái tole, nền xi măng; xây
dựng trước ngày 22/4/2002: 51,80 m
2
x 1.150.000 đ x 1,3 = 77.441.000đồng;
- Cột gỗ, vách lá, xà gỗ, mái lá, nền xi măng; xây dựng sau ngày
01/7/2004: 20,20m
2
= không bồi thường, hỗ trợ;
- Cột gỗ, xà gỗ + tre, mái lá, nền Ceramic; xây dựng sau ngày 01/7/2004,
vi phạm xây dựng : 77,40m
2
= không bồi thường, hỗ trợ;
- Cột gạch, tường gạch cao 0,8m, mái lá; xây dựng sau ngày 01/7/2004:
Không bồi thường, hỗ trợ.
* Bồi thường, hỗ trợ về trang thiết bị và tài sản khác:
- Giếng khoan (sâu 50m) = 3.000.000 đồng
* Về cây trồng, hoa màu: 6.172.100 đồng
* Về các khoản khác:
- Hỗ trợ di chuyển: 4.000.000 đồng
- Gia đình liệt sĩ: 4.000.000 đồng
Ngày 16/11/2015, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số
4696/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất 5.020 m
2
.
Ngày 02/6/2016, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số
1876/QĐ-UBND về việc điều chỉnh thời gian cưỡng chế.
Bà Nguyễn Thị Đ khởi kiện cho rằng:
Khu đất 5.020m
2
bị thu hồi do mẹ bà Nguyễn Thị Đ tên Lê Thị B tự khai
hoang sử dụng canh tác và nuôi vịt trước năm 1975. Trong quá trình sử dụng bà
B đã dựng 01 cái chòi lá với diện tích 400 m
2
để trông coi vịt. Trước năm 1978
bà B cho lại bà Đ 400 m
2
có căn chòi và phần đất còn lại cha mẹ của bà Đ vẫn sử
dụng. Toàn bộ khu đất 5.020m
2
gia đình bà Đ sử dụng cho đến thời điểm bị thu
hồi. Khu đất chưa được cấp giấy chứng nhận, gia đình bà Đ sử dụng cụ thể:
- Năm 2000, xây dựng và cơi nới thêm 1 phần thuộc hạng mục 3;
- Ngày 27/02/2002, xây dựng thêm 1 phần nhà thuộc hạng mục 1, 2 diện
tích 43,12m
2
;
- Trong năm 2007, xây dựng thêm hạng mục 4, 5, 6.
Năm 1999, Nhà nước có chủ trương đăng ký kê khai đất đai, bà Đ không
đăng ký vì đi làm ăn xa.
Thực tế phần diện tích 400m
2
không thuộc đất do Nhà nước trực tiếp quản
lý vì mẹ bà Đ đã sử dụng ổn định từ trước năm 1978, không lấn chiếm.
Giấy phép 63/GPĐ78NN có nội dung Sư đoàn 367 được sử dụng 5 ha đất
trong thời gian 12 tháng, nếu không sử dụng thì bị thu hồi. Thực tế, Sư đoàn C1
không sử dụng 5 ha đất từ khi có giấy phép 63/GPĐ78NN. Dự án đất quốc
phòng, Sư đoàn C1 không phải là chủ đầu tư mà do Công ty Trách nhiệm hữu
5
hạn Đ2 phân lô bán nền theo quy hoạch chi tiết xây dựng 1/500 Bản đồ quy
hoạch không gian kiến trúc cảnh quan. Việc lấy Dự án quốc phòng làm dự án
dân sự là không đúng mục đích sử dụng đất. Từ việc xác định sai về đối tượng
chủ đầu tư dự án và mục đích xây dựng phương án là khác nhau sẽ dẫn đến
chính sách đền bù theo quy định của pháp luật là khác nhau.
Trong Giấy xác nhận số 157/UBND-XN ngày 19/5/2014, Ủy ban nhân
dân phường B xác nhận tình trạng pháp lý đối với phần đất 400m
2
là không đúng
vì thực tế mẹ bà Đ quản lý, sử dụng từ trước năm 1975. Ủy ban Quận B căn cứ
vào nội dung giấy xác nhận này xem xét tính bồi thường cho bà Đ là không hợp
lý.
Vị trí khu đất
nằm ngoài ranh 5 ha theo Giấy phép 63/GPĐ78NN, không
tranh chấp, trên đất tại thời điểm bị thu hồi có nhà, ao, đất trồng cây lâu năm, sử
dụng ổn định. Tại Văn bản số 674/HĐTĐBT-TTr ngày 10/9/2014 Hội đồng
thẩm định bồi thường thành phố xác định: Khu đất đã được chuyển mục đích sử
dụng thành đất ở, không còn sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng nên cần
cân đối hài hòa lợi ích của Nhà nước và người dân. Như vậy, việc thu hồi đất
chưa xác định đúng mục đích sử dụng.
Ngày 03/01/2024 bà Đ xác định khởi kiện yêu cầu hủy bỏ một phần Quyết
định 4078/2014/QĐ-UBND ngày 27/9/2014 của Ủy ban nhân dân thành phố T
về bồi thường hỗ trợ tái định cư cho bà Đ. Lý do khởi kiện: bồi thường thiếu
diện tích đất 4.620m
2
. Rút lại khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định 4696/QĐ-
UBND ngày 16/11/2015 và Quyết định sửa đổi 1876/QĐ-UBND ngày
02/6/2016 của Ủy ban nhân U (nay là Thành phố T) về cưỡng chế thu hồi đất.
Người bị kiện - Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố
T c ý kiến tại Văn bản số 1639/UBND-BBT ngày 11/01/2023 như sau:
Tổng diện tích đất giải tỏa theo dự án chuyển đổi mục đích sử dụng đất
quốc phòng, do bà Đ sử dụng là 5.020m
2
, thuộc một phần thửa 646, 668, 692,
718 và một phần đường, tờ bản đồ 13 (Tài liệu 02/CT-UB); một phần thửa 114
tờ bản đồ 34 và một phần thửa 3, tờ bản đồ 36 (Tài liệu năm 2004). Đất nằm
ngoài ranh 05 ha theo Giấy phép số 63/GPĐ78NN cấp cho Bộ trước đây. Đất có
nguồn gốc do bà Khổng Thị Ngọc S1 đứng bộ trước năm 1975 nhưng không sử
dụng mà bỏ hoang. Sau đó, bà Lê Thị B (mẹ của bà Đ) tự phá hoang sử dụng
canh tác, nuôi vịt và dựng 01 chòi lá để trông coi vịt trước năm 1975 với diện
tích 400m
2
. Đến trước năm 1978, bà B cho lại con là bà Nguyễn Thị Đ toàn bộ
diện tích 400m
2
, bà Đ tiếp tục canh tác nuôi vịt.
Theo TL 02/CT-UB vị trí đất thuộc một phần thửa 718, tờ bản đồ số 13,
diện tích 3.332,3m
2
, loại đất CDK (Ủy ban xã B có tên trong sổ mục kê TL
02/CT-UB); một phần thửa 646, 668, 692 tờ Bản đồ số 13 diện tích 1.518,2m
2
,
loại đất lúa, không có người đăng ký, và một phần đường diện tích 169,5m
2
.
Thực tế, phần diện tích 400m
2
thuộc vị trí bà Đ xây dựng các hạng mục
6
công trình số 1, 2, 3, 4; không thuộc đất do Nhà nước trực tiếp quản lý và bà Đ
vẫn đang sử dụng ổn định từ trước năm 1978 đến nay, không lấn chiếm, nhưng
không xác định được ranh giới chính xác.
U đã ban hành Quyết định 4078/2014/QĐ-UBND ngày 27/9/2014 của U
về bồi thường hỗ trợ tái định cư cho bà Đ, là đúng.
Người c quyền lợi, ngha v liên quan ông Nguyễn Văn T1 là chồng của
bà Đ yêu cầu Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt, không tranh chấp.
Người c quyền lợi, ngha v liên quan bà Nguyễn Ngọc L yêu cầu Tòa án
giải quyết, xét xử vắng mặt, không tranh chấp.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 1233/2019/HC-ST ngày 23 tháng 9
năm 2019 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Không chấp khởi kiện yêu cầu hủy quyết định bồi thường đối với bà Đ.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 585/2020/HCPT ngày 25 tháng 9
năm 2020 của Tòa án nhân dân cấp cao nhận định:
Cấp sơ thẩm căn cứ biên bản làm việc ngày 17/3/2003 bà Đ trình bày về
nguồn gốc đất 400m
2
được bà Khổng Thị Ngọc S1 cho bà Đ.
Tuy nhiên theo thừa nhận của Uỷ ban nhân dân thì nguồn gốc đất 5.020m
2
của chủ sử dụng là bà S1 đứng bộ trước năm 1975 nhưng không sử dụng. Thực
tế gia đình cha mẹ của bà Đ khai hoang sử dụng, canh tác chăn nuôi Vịt. Do bà
Đ không biết chữ nên vào năm 2003 khi các cán bộ xuống đo đạc đất của bà kêu
bà ký tên vô xác định đất cất nhà là 400 m
2
chứ không có nói rằng tổng diện tích
đất bà Đ đang sử dụng.
Bà Đ có cung cấp các giấy tờ liên quan đến việc trả cho bà S1 120.000
đồng vào năm 1974 và giấy tái cam kết ngày 28/02/2019 của bà Khổng Thị
Ngọc S1 chuyển quyền sử dụng đất 5.020m
2
cho bà Đ.
Uỷ ban nhân dân thừa nhận vào năm 1978 khi Ủy ban nhân dân Thành
phố H cấp giấy phép 63/GPĐ78NN cho C1 sử dụng 5 ha vào công tác quân sự,
số đất còn lại một số hộ dân chiếm làm nhà ở và vị trí phần đất bà Đ sử dụng
nằm ngoài ranh đất 5 ha theo Giấy phép 63. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm không
làm rõ từ năm 1978 đến năm 1997 toàn bộ diện tích 5.020 m
2
của bà Đ bị thu
hồi thì ai là người sử dụng phần đất này vì Ủy ban nhân dân Quận U cho rằng bà
Đ chỉ mới khai phá thêm vào năm 2000.
Lời khai của người làm chứng: toàn bộ khu đất 5.020m
2
do bà Đ đã sử
dụng từ trước năm 1975 cho đến khi bị thu hồi đất.
Bản án phúc thẩm xử hủy án sơ thẩm để làm rõ các nội dung trên.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 105/2024/HC-ST ngày 12 tháng 4 năm
2024 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1/Đình chỉ giải quyết đối với Quyết định 4696/QĐ-UBND ngày
16/11/2015 và Quyết định sửa đổi 1876/QĐ-UBND ngày 02/6/2016 của Ủy ban
7
nhân U (nay là Thành phố T) về thu hồi đất.
2/Không chấp nhận khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ, yêu cầu:
Hủy Quyết định 4078/QĐ-UBND ngày 27/9/2014 của Ủy ban nhân dân
Quận U (nay là Thành phố T) về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với bà
Nguyễn Thị Đ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo
của đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/4/2024 người khởi kiện bà Nguyễn Thị Đ
kháng cáo bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người khởi kiện là bà Nguyễn Thị Đ (có ông Nguyễn Xuân K đại diện
theo ủy quyền) vẫn giữ kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ
thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đ vì bà Đ ở trực tiếp trên đất từ sau
giải phóng đến nay, được bà L1 con bà S1 chủ đất cũ tái xác nhận bán đất cho bà
Đ, những người dân xung quanh cũng xác nhận việc sử dụng đất của bà Đ. Các
quyết định xử phạt của Ủy ban đều xử phạt hành vi xây dựng trái phép chứ
không có quyết định nào xử phạt hành vi chiếm dụng đất. Ủy ban cũng không
đưa ra được căn cứ xác định bà Đ chiếm dụng đất từ năm 2007, và không xác
định được bà Đ chiếm dụng của ai.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện là ông Trần
Quốc S phát biểu ý kiến không đồng ý kháng cáo của người khởi kiện, đề nghị
Hội đồng xét xử bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Văn T1 yêu cầu
Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm tuân thủ quy định
của pháp luật Tố tụng hành chính. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện
quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật.
- Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xử có căn cứ và đúng pháp luật. Tại
phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện kháng cáo nhưng không cung cấp được
chứng cứ nào mới chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo và
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của
8
Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án triệu tập hợp lệ, người bị kiện xin xét xử vắng mặt; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Ngọc L vắng mặt. Căn cứ Điều 225
Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án vắng
mặt các đương sự này.
[2] Ngày 03/01/2024, bà Nguyễn Thị Đ có văn bản xác định chỉ khởi kiện
một phần Quyết định số 4078/2014/QĐ-UBND ngày 27/9/2014 về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư; Rút yêu cầu khởi kiện đối với các Quyết định số 4696/QĐ-
UBND ngày 16/11/2015 và 1876/QĐ-UBND ngày 02/6/2016. Do đó, Tòa án
cấp sơ thẩm đình chỉ giải quyết đối với phần yêu cầu đã rút là đúng quy định
pháp luật.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Đ đối với Quyết định số 4078/2014/QĐ-
UBND ngày 27/9/2014:
[3.1] Tại Quyết định số 4078/2014/QĐ-UBND, U bồi thường hỗ trợ về
đất, công trình xây dựng và vật kiến trúc trên đất, trang thiết bị và tài sản khác
và các khoản khác đối với phần diện tích 400m
2
. Phần diện tích còn lại 4.620m
2
,
U không giải quyết bồi thường, hỗ trợ vì cho rằng là đất nông nghiệp bà Đ
chiếm dụng từ năm 2007.
[3.2] Bà Đ cho rằng nguồn gốc khu đất 5.020m
2
do bà nhận chuyển
nhượng của bà Khổng Thị Ngọc S1. Bà S1 đã quản lý, sử dụng đất từ trước năm
1975 nên đủ điều kiện được bồi thường toàn bộ diện tích khi thu hồi đất. Chứng
cứ chứng minh là các giấy tờ liên quan đến việc trả cho bà S1 120.000 đồng vào
năm 1974, giấy tái cam kết ngày 28/02/2019 của bà Khổng Thị Ngọc S1 chuyển
quyền sử dụng đất cho bà Đ 5.020m
2
, có chứng thực của Uỷ ban nhân dân
phường. Bà L là con của bà S1 (đã chết) có lời trình bày xác nhận nội dung như
bà S1 viết tại Giấy cam kết ngày 28/02/2019. Lời khai của người làm chứng
gồm các ông, bà Nguyễn Thị Kim L2, Nguyễn Thị N1, Nguyễn Thị N2, Nguyễn
Thị H, Nguyễn Văn C đều xác định: Bà Đ đã sử dụng từ trước năm 1975 cho
đến khi bị thu hồi.
Xét, theo Biên bản làm việc ngày 17/3/2003 bà Đ trình bày nguồn gốc đất
đang sử dụng là do cha mẹ bà đã thuê của ba chồng bà Khổng Ngọc S1 từ năm
1965 có diện tích 400m
2
. Năm 1993, bà S1 chính thức cho bà Đ nhưng cho bằng
miệng phần đất có diện tích như đã thuê. Khi hiệp thương dự thảo xác nhận
nguồn gốc pháp lý nhà đất ngày 20/11/2012 tại Ủy ban nhân dân phường B và
tại Tòa cấp sơ thẩm lần 2, bà Đ cho rằng do bà không biết chữ, nên vào năm
2003 khi các cán bộ xuống đo đạc đất của bà kêu bà ký tên vô xác định đất cất
nhà là 400m
2
chứ không có nói rằng tổng diện tích đất bà đang sử dụng. Nhưng
trong quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Đ vẫn đọc, ký tên văn bản ủy quyền cho
người đại diện tham gia tố tụng, nên việc bà Đ cho rằng không biết chữ khi ký
9
tên vào biên bản làm việc là không có căn cứ.
Tại Văn bản ý kiến số 1639/UBND-BBT ngày 11/01/2023 UBND Thành
phố T nêu: Nguồn gốc đất là của các ông bà Nguyễn Vnh M, Ngô Thị T2,
Nguyễn Vnh X, Châu Ngọc D, Nguyễn Vnh K2, Huỳnh Thị T3, Nguyễn Vnh
N3, Nguyễn Vnh Đ1,bà Khổng Thị Ngọc S1, Nguyễn Bạch Y, Nguyễn Văn h,
Nguyễn Bạch L3 cùng đứng bộ trước năm 1975 nhưng không sử dng mà bỏ
hoang… Diện tích đất bị thu hồi của bà Đ là 5.020m
2
nhưng cho rằng gia đình
cha mẹ bà Đ (bà B) khai hoang 400m
2
trước năm 1975, phần đất còn lại
(4.620m
2
) do bà Đ chiếm dng năm 2007. Không ai tranh chấp. Vậy, trong tổng
diện tích đất 5.020m
2
không phải của riêng bà Khổng Thị S1 đứng tên quyền sử
dụng đất.
Đối với lời khai của người làm chứng về việc bà Đ quản lý toàn bộ khu
đất từ trước năm 1975 nhưng không nêu rõ diện tích, nên không đủ cơ sở chứng
minh.
Từ phân tích trên, có cơ sở xác định Quyết định số 4078/2014/QĐ-UBND
ngày 27/9/2014 chỉ bồi thường, hỗ trợ cho bà Đ đối với diện tích 400m
2
/5.020m
2
là có căn cứ.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy, bản án của Tòa
án cấp sơ thẩm đã xét xử là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tại phiên
tòa phúc thẩm, người khởi kiện có kháng cáo nhưng không cung cấp được tài
liệu, chứng cứ nào mới chứng minh nên bác kháng cáo và giữ nguyên bản án sơ
thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ
Chí Minh tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[5] Các phần quyết định khác của bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không
có kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật.
[6] Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1950 là
người cao tuổi nên được miễn theo quy định của pháp luật về án phí, lệ phí Tòa
án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính,
B1 yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện bà Nguyễn Thị Đ (có ông
Nguyễn Xuân K là đại diện theo ủy quyền).
Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số 105/2024/HC-ST ngày
12/4/2024 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Áp dụng Luật Đất đai năm 2013; Điều 116, Điều 173, điểm a khoản 2
Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Nghị Quyết số
10
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ giải quyết đối với Quyết định 4696/QĐ-UBND ngày
16/11/2015 và Quyết định sửa đổi 1876/QĐ-UBND ngày 02/6/2016 của Ủy ban
nhân U (nay là Thành phố T) về thu hồi đất.
2. Không chấp nhận khởi kiện của bà Nguyễn Thị Đ về việc yêu cầu:
Hủy Quyết định 4078/QĐ-UBND ngày 27/9/2014 của Ủy ban nhân dân
Quận U (nay là Thành phố T) về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối với bà
Nguyễn Thị Đ.
3. Các phần quyết định khác của bản án của Tòa án cấp sơ thẩm không có
kháng cáo, kháng nghị nên đã có hiệu lực pháp luật.
4. Án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị Đ được miễn.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
Tòa án nhân dân tối cao (1);
VKSNDCC tại Thành phố Hồ Chí Minh (1);
TAND Thành phố Hồ Chí Minh (1);
VKSND Thành phố Hồ Chí Minh (1);
Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh (1);
Các đương sự (5);
Lưu: hồ sơ vụ án (1), VP (5), 16b (PPC);
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Nhựt Bình
Tải về
Bản án số 1128/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1128/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm