Bản án số 1123/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 1123/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 1123/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 1123/2024/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 1123/2024/HC-PT ngày 30/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 1123/2024/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Nguyễn Phùng T kiện UBND huyện C "Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai" |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 1123/2024/HC-PT
Ngày 30-9-2024
V/v “Khởi kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Minh
Ông Đỗ Đình Thanh
Ông Vương Minh Tâm
- Thư ký phiên tòa: Ông Trần Văn Nơi - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Minh Sơn - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 17 tháng 9 và ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án
nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án
hành chính thụ lý số 314/2024/TLPT-HC ngày 25 tháng 3 năm 2024 về “Khởi
kiện quyết định hành chính trong quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 143/2023/HC-ST ngày 14 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 2732/2024/QĐ-PT ngày
28 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Phùng T, sinh năm 1958; địa chỉ: Khu dân
cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; (có mặt);
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện C và Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn P. Chức vụ: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện C; (xin vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Trần Công D, Chức vụ: Giám
đốc Trung tâm phát triển quỹ đất huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1965;
Địa chỉ: Khu dân cư S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vợ ông T, có mặt ngày
17/9, vắng mặt ngày 30/9).
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Phùng T là người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
1. Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, phía người khởi
kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các nội dung như sau:
- Tuyên hủy một phần Quyết định số 1193/QĐ-UBND ngày 16/11/2021
của Ủy ban nhân dân huyện C (sau đây viết tắt là UBND huyện C) về việc phê
duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với hộ
ông Nguyễn Phùng T - Thường trú tại khu dân cư số G, huyện C, tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư trung tâm huyện
C. Cụ thể, hủy Điều 1, Mục 1.2 “Diện tích đất không bồi thường” (viết tắt: Quyết
định số 1193).
- Tuyên hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 781/QĐ-UBND
ngày 26-5-2022 của Chủ tịch UBND huyện C về việc giải quyết khiếu nại của
ông Nguyễn Phùng T - Cư trú tại khu dân cư số 7 khiếu nại về việc bồi thường
khi thu hồi đất (viết tắt: Quyết định số 781).
- Tuyên hủy Quyết định số 760/QĐ-UBND ngày 18-5-2022 của Chủ tịch
UBND huyện C về việc cưỡng chế thu hồi 2.603,5m
2
đất của gia đình ông T. Buộc
UBND huyện Côn Đảo giữ nguyên hiện trạng các thửa đất và tài sản trên đất cho
đến khi có quyết định, bản án có hiệu lực pháp luật (viết tắt: Quyết định số 760).
- Tuyên buộc UBND huyện C công nhận 2.375m
2
thuộc một phần thửa đất
số 255, tờ bản đồ số 42 và 71,5m
2
đất thuộc một phần thửa số 9, tờ bản đồ số 13
của hộ ông Nguyễn Phùng T đủ điều kiện bồi thường theo quy định.
- Tuyên buộc UBND huyện C bồi thường giá trị quyền sử dụng đất 2.375m
2
và 71,5m
2
nêu trên cho gia đình ông T theo đúng quy định pháp luật.
Cơ sở của yêu cầu khởi kiện:
1. Việc xác định thời điểm sử dụng đất: Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng
đất (viết tắt: VPĐKQSD đất) huyện và Phòng T5 (viết tắt: PTN&MT) huyện
không trực tiếp lấy ý kiến các hộ sử dụng đất liền kề, những người cao tuổi sinh
sống gần thửa đất, biết rõ quá trình sử dụng đất của gia đình ông T là chưa đảm
bảo khách quan, trung thực, theo quy định pháp luật về đất đai.
Trong Đơn xin cấp giấy chứng nhận trước đây và Đơn xin xem xét ngày
25/01/2011, ông T đã được các hộ dân sử dụng đất liền kề và những người sinh
sống lâu năm gần thửa đất xác nhận thời điểm sử dụng đất của gia đình ông T là
năm 1990.
2. Việc xác định thời điểm sử dụng đất: VPĐKQSD đất huyện và PTN&MT
huyện chỉ dựa vào ý kiến của 01 người là thanh viên Ban điều hành Khu là chưa
đảm bảo khách quan, trung thực.
Cụ thể, Biên bản làm việc ngày 14/12/2010 của VPĐKQSD đất huyện khi
xuống Khu dân cư lấy ý kiến về thời điểm sử dụng đất của gia đình ông T lại chỉ
dựa vào lời nói của một mình ông Nguyễn Văn L - Phó Khu, ông L mới chuyển
đến sinh sống tại Khu G khoảng từ năm 2007 và thời điểm lấy ý kiến đó thì gia
đình ông L đang tranh chấp đất đai với gia đình ông T. Do đó, lời trình bày của
ông L nói rằng gia đình ông T sử dụng thửa đất này vào năm 2007 là không đúng
sự thật.
3
3. Cũng trong Biên bản làm việc ngày 14/12/2010 của VPĐKQSD đất
huyện (03 dòng cuối trang đầu của Biên bản), ghi rằng: “Theo thời điểm tự khai
phá của bà T1 là năm 1987. Năm 1992 bà T1 mới ra C, thời gian sử dụng bà T1
khai là không đúng”.
Ông T không biết ý kiến này là của ai đã nêu ra mà không kiểm chứng sự
thật, có nhiều cách để Cơ quan nhà nước kiểm chứng vợ ông T ra C khi nào để
làm cơ sở đưa ra kết luận cho đúng.
Thực tế, vào năm 1986, ông T khi đó là Đội phó Đội Kiểm lâm bảo vệ rừng
thuộc Rừng cấm C (nay là Ban Q), cuối năm 1986 ông T đưa vợ là bà Nguyễn Thị
T1 ra Côn Đảo sinh sống. Ngày 23/7/1988, vợ ông T sinh cháu đầu là Nguyễn
Phùng T2, đến ngày 16/7/1991 sinh cháu Nguyễn Thị Thanh T3. Cả hai con của
ông T đều sinh tại Trung tâm y tế C, giấy khai sinh do UBND huyện C cấp. Khi
ra Đ, vợ ông T không có việc làm ở cơ quan Nhà nước nên ra sức khai hoang
trồng rau màu, nấu rượu chăn nuôi heo, gà, vịt và chuồng heo hiện nay trên thửa
đất là được chuyển đổi từ chuồng nuôi gà, vịt vợ chồng ông T làm từ 1987, khoảng
năm 2007, khi chuồng heo sau hồ rau muống bị giải tỏa để làm Khu G (nay là
Khu dân cư và Nhà trẻ Tuổi thơ) thì vợ chồng ông T chuyển đổi chuồng nuôi gà
vịt sang nuôi heo. Do đó, Biên bản làm việc ngày 14/12/2010 của VPĐKQSD đất
nói rằng năm 1992 bà T1 mới ra C, để từ đó làm cơ sở xác định vợ ông T canh tác
sử dụng thửa đất sau năm 1990 là không đúng. Từ kết luận không đúng sự thật tại
Biên bản làm việc ngày 14/12/2010 của VPĐKQSD đất, U căn cứ để xác định
thời gian sử dụng thửa đất này của gia đình ông T từ năm 2007 lại càng không
chính xác, làm thiệt thòi quyền lợi chính đáng của gia đình ông T.
4. Việc UBND huyện cho rằng gia đình không kê khai đăng ký sử dụng
thửa đất, nên không có cơ sở xác định gia đình ông T sử dụng đất từ năm 1990.
Nhận định này là phiến diện.
Tình trạng sử dụng đất mà chưa kê khai đăng ký với Cơ quan quản lý đất
đai trên địa bàn huyện C xẩy ra rất nhiều, thậm chí có gia đình cán bộ được Nhà
nước cử ra tiếp quản Côn Đảo từ năm 1976, được huyện C cấp nhà và sử dụng đất
trong khu vườn nhà từ năm 1976 đến nay mà trong Sổ địa chính của huyện chỉ có
vỏn vẹn diện tích “nền nhà” là có đăng ký, còn đất vườn vẫn không có tên người
sử dụng đất trong Sổ địa chính của huyện C.
5. Quyết định giải quyết khiếu nại về việc không cấp GCNQSD đất số
252/QĐUBND ngày 27/3/2019, UBND huyện cho rằng gia đình ông T lấn chiếm
đất là hành vi vi phạm pháp luật, không đủ điều kiện, điều này không đúng.
UBND huyện không thể lấy quy định pháp luật về đất đai tại thời điểm năm
2019 để phán xét hành vi của người dân khai hoang phục hóa, phủ xanh đất trồng,
đồi núi trọc xảy ra từ năm 1990 để cho rằng hành vi đó là trái pháp luật đất đai
hiện hành để rồi lập Biên bản vi phạm hành chính và ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với người sử dụng đất. Cách vận dụng pháp luật như vậy
của UBND huyện là trái với quan điểm giải quyết tranh chấp đất đai “hành vi của
người sử dụng đất xảy ra khi nào thì vận dụng pháp luật đất đai tại thời điểm đó
4
để giải quyết”; đồng thời, vi phạm nguyên tắc “Chỉ xử phạt vi phạm hành chính
khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định” của Luật xử phạt vi
phạm hành chính - vì hành vi của gia đình ông T khai hoang, trồng cây phủ xanh
đất trống đồi núi trọc khi đó theo Luật đất đai 1987 không quy định là hành vi vi
phạm hành chính.
Quá trình thu hồi đất, khiếu nại và giải quyết khiếu nại:
Không đồng ý với một phần Quyết định số 1193/QĐ-UBND của UBND
huyện C ngày 16/11/2021 về việc phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Phùng T để thực hiện dự án
Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư trung tâm huyện C, về nội dung:
+ Không bồi thường 276m
2
đất, thuộc một phần thửa số 9, tờ bản đồ số 13,
loại đất BHK, vị trí 1 (thuộc thửa thu hồi số 10). Ví lý do đất đã thu hồi để làm
đường trục chính ven hồ Quang Trung (nay là đường N) vào năm 2003; Nhà nước
đã xác lập quyền quản lý, nên không đủ điều kiện bồi thường theo Điều 75, khoản
2 Điều 77 và Điều 88 Luật đất đai năm 2013.
+ Không bồi thường đối với 2.327,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 255, tờ
bản đồ số 42, vì lý do đất sử dụng sau ngày 01/7/2004 và không đủ điều kiện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.
Ngày 23/12/2021, ông T làm Đơn khiếu nại, đến ngày 26/5/2022, UBND
huyện C mới ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 781/QĐ-UBND
về việc giải quyết khiếu nại của ông T và chấp nhận một phần nội dung Đơn khiếu
nại, đồng ý sửa đổi một phần Quyết định số 1193/QĐ-UBND ngày 16/11/2021
của UBND huyện:
- Đồng ý bồi thường 204,5m
2
thuộc một phần thửa số 9, tờ bản đồ số 13,
loại đất BHK, vị trí 1 (thuộc thửa thu hồi số 10); còn 71,5m
2
thì không được
UBND huyện giải quyết bồi thường, vì lý do đã bị thu hồi để làm đường Nguyễn
Văn L1 vào năm 2003”, nhưng UBND huyện lại không trích dẫn được sơ đồ hợp
pháp đối với diện tích 71,5m
2
bị thu hồi này.
“- Không bồi thường đối với 2.327,5m
2
thuộc một phần thửa đất số 255, tờ
bản đồ số 42”.
Ngày 17/8/2023, ông T có đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện và không yêu
cầu giải quyết đối với quyết định Quyết định cưỡng chế số 760/QĐ-UBND ngày
18/5/2022 của Chủ tịch UBND huyện C.
2. Người bị kiện, phía UBND huyện C có văn bản trình bày:
- Ngày 16/11/2021, UBND huyện C ban hành Quyết định số 1186/QĐ-
UBND về việc thu hồi 2.603,5 m
2
đất của hộ ông Nguyễn Phùng T - thường trú
Khu dân cư S, huyện C để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư trung
tâm huyện C.
- Ngày 16/11/2021, UBND huyện C ban hành Quyết định số 1192/QĐ-
UBND và Quyết định số 1193/QĐ-UBND về việc phê duyệt kinh phí bồi thường,
5
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Phùng T để
thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư trung tâm huyện C (đợt 2).
- Ngày 15/11/2022, UBND huyện C ban hành Quyết định số 1917/QĐ-
UBND và Quyết định số 1918/QĐ-UBND về việc phê duyệt Phương án bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án Hạ tầng
kỹ thuật khu tái định cư trung tâm huyện C (phần chênh lệch, bổ sung).
Theo Sổ mục kê và Bản đồ địa chính năm 1995: phần diện tích 2.375m
2
đất
này thuộc một phần thửa 01 - tờ 03, diện tích 52.287 m
2
đất chưa sử dụng, cột ghi
tên sử dụng đất để “Đồi cát”.
Căn cứ Bộ hồ sơ địa chính huyện C được thành lập năm 1998 và được cấp
có thẩm quyền phê duyệt ngày 20/1/1999 thì diện tích 2.375m
2
nêu trên là thuộc
một phần của thửa đất số 253 - tờ bản đồ số 15, diện tích 244.346 m
2
, loại đất lâm
nghiệp (LN) - ghi chú: đất rừng tự nhiên phòng hộ (RTnP), do UBND huyện đăng
ký quản lý.
Theo bà Nguyễn Thị T1 trình bày, thửa đất số 119 - tờ bản đồ số 13, diện
tích 2.327,5 m
2
, tại khu vực đường N - Khu dân cư S là do gia đình bà Nguyễn
Thị T1 tự khai phá sử dụng, không có giấy tờ về việc sử dụng đất, không có văn
bản cho phép sử dụng đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Như vậy, đây là hành vi lấn chiếm đất đai đã được pháp luật quy định; việc
sử dụng đất của gia đình bà Nguyễn Thị T1 có nguồn gốc từ việc tự ý lấn chiếm
sử dụng đất, không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất,
cho phép sử dụng đất.
+ Năm 2010, gia đình bà Nguyễn Thị T1 làm đơn xin công nhận quyền sử
dụng đất tại đường N - Khu dân cư S, đối với phần diện tích đất giáp với 02 thửa
đất số 27 diện tích 2.918,7 m
2
và thửa số 53 - diện tích 1.260,12 m
2
- tờ bản đồ số
25 đã được công nhận ngày 12/9/2007 (giấy chứng nhận AH 648249 ngày
12/9/2007).
+ Ngày 07/10/2010, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất lập Biên bản
xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất đối với hai thửa
đất ký hiệu A, B, diện tích (1.540,6 + 573 m
2
) - tờ bản đồ số 25. Hiện trạng kiểm
tra thực địa ghi nhận: “Trên đất có cây dương, cầu dầu cát Côn Sơn, tràm bông
vàng của nhà nước trồng; dưới tán cây có trồng dừa, mít, 01 chuồng heo, 01
chuồng gà”.
+ Ngày 08/10/2010, bà T1 làm đơn tường trình về việc sử dụng đất.
+ Ngày 21/10/2010, Ban điều hành Khu dân cư số 7 lập Phiếu lấy ý kiến
của Khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất.
+ Ngày 08/12/2010, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất lập biên bản
làm việc xác định thời điểm sử dụng đất của bà Nguyễn Thị T1.
+ Ngày 17/01/2011, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất lập Danh sách
công khai các trường hợp không đủ điều kiện cấp GCNQSD đất, quyền sở hữu
6
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với hai thửa đất A, B - tờ bản đồ số 25,
theo đó công khai thời điểm sử dụng đất năm 2007 (theo biên bản làm việc ngày
08/12/2010).
+ Ngày 25/01/2011, bà Nguyễn Thị T1 làm đơn xin xem xét về việc đất
không đủ điều kiện cấp GCNQSD đất, theo đó đề nghị xem xét lại Danh sách
công khai số 13/DSTB-VPĐKQSDĐ ngày 17/01/2011 của VPĐKQSD đất.
+ Ngày 28/01/2011, UBND huyện C ban hành Công văn số 102/UBND-
VP giao Phòng Tài nguyên và Môi trường tham mưu giải quyết đơn đề nghị của
bà Nguyễn Thị T1.
+ Ngày 22/4, 25/4 và ngày 02/10/2012, bà Nguyễn Thị T1 tiếp tục gửi đơn
đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
+ Ngày 27/7/2013, VPĐKQSD đất lập Biên bản xác định ranh giới thửa đất
theo hiện trạng sử dụng đất, đối với thửa đất số 119 - tờ bản đồ số 13, diện tích
2.327,5 m
2
, tại đường N. Hiện trạng thửa đất tại thời điểm kiểm tra ghi nhận:
“Trên đất có trồng dừa, mít, chanh, nhãn, xoài, 17 cây tràm, 11 cây dương, 01
chuồng heo, 03 chuồng gà di chuyển được, (tràm, dương nhà nước) (ghí chú: thửa
đất số 119 giáp ranh với hai thửa đất số 27 và 53 đã được công nhận năm 2007,
đây là phần diện tích đất nhà nước quản lý đã được ghi trên giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho gia đình bà Nguyễn Thị T1 năm 2007).
+ Ngày 10/8/2013, bà T1 làm Đơn tường trình về việc sử dụng đất.
+ Ngày 13/11/2013, Ban điều hành Khu dân cư số 7 lập Phiếu lấy ý kiến
của Khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, theo đó ghi ý kiến:
“Nguồn gốc sử dụng đất: do nhà nước quản lý gia đình tự khai phá trồng trọt cây
ăn quả, hoa màu. Thời điểm bắt đầu sử dụng đất: Năm 2006”.
+ Ngày 23/6/2014, Phòng T5 ban hành Danh sách công khai số 458/DSTB-
TNMT về các trường hợp không đủ điều kiện cấp GCNQSD đất, theo đó trường
hợp của gia đình bà Nguyễn Thị T1 được công khai sử dụng đất năm 2006, không
đủ điều kiện công nhận quyền sử dụng đất.
+ Ngày 25/12/2014, Phòng T5 ban hành công văn số 1068/TNMT về việc
chuyển trả các hồ sơ xin công nhận QSD đất, theo đó chuyển trả hồ sơ của gia
đình bà T1 và ông T do vị trí xin công nhận nằm trong khu quy hoạch dân cư 9a
thuộc Khu đô thị S, trung tâm C, huyện C.
+ Ngày 14/4/2018, Phòng T5 lập Biên bản số 260A/BB-TNMT kiểm tra
việc sử dụng đất của gia đình bà Nguyễn Thị T1 tại tuyến đường N (đối với việc
xây dựng nhà tạm trên đất nông nghiệp và một phần sử dụng đất chưa có giấy
chứng nhận).
+ Ngày 07/11/2018, UBND huyện C ban hành công văn số 3206/UBND-
TNMT về việc trả lời hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, yêu cầu
di dời tài sản trên đất và trả lại đất trống cho nhà nước quản lý.
7
+ Không đồng ý với nội dung trả lời tại công văn số 3206/UBND-TNMT
ngày 07/11/2018 của UBND huyện C, bà Nguyễn Thị T1 làm đơn khiếu nại. Ngày
27/3/2019, UBND huyện đã giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị T1, bác nội
dung khiếu nại, xác định phần diện tích 2.327,5 m
2
đất thuộc thửa đất số 119 - tờ
bản đồ số 13, tại khu vực đường N - Khu dân cư S là không đủ điều kiện công
nhận quyền sử dụng đất.
- Căn cứ xác nhận của Chi nhánh Văn phòng Đ1 tại Công văn số
551A/CNVPĐKĐĐ ngày 25/12/2018, theo đó xác nhận: Theo Sổ mục kê đất đai
được thành lập kèm theo Bản đồ địa chính huyện Côn Đảo được phê duyệt ngày
20/01/1999, thì thửa đất số 253 - tờ bản đồ số 15: Chủ sử dụng đất là UBND
huyện, diện tích 244.346 m
2
đất rừng phòng hộ (ghi chú RTr-P).
Gia đình bà Nguyễn Thị T1 hoàn toàn không có kê khai đăng ký sử dụng
đất; toàn bộ thửa đất diện tích 244.346 m
2
là đất rừng phòng hộ do UBND huyện
quản lý. Do đó, không có cơ sở xác định gia đình bà T1 sử dụng đất từ năm 1990.
- Căn cứ hồ sơ xin công nhận quyền sử dụng đất năm 2005 (được công nhận
năm 2007), gia đình bà Nguyễn Thị T1 kê khai chỉ sử dụng 02 (hai) thửa đất số
27 và thửa số 53 - tờ bản đồ số 25, diện tích 4.800 m
2
.
Kết quả đo đạc, xác định ranh giới, mốc giới thửa đất theo hiện trạng sử
dụng đất ngày 04/3/2007 của Phòng T5 xác định gia đình bà Nguyễn Thị T1 sử
dụng 02 (hai) thửa đất: Thửa đất số 27 - diện tích 2.918,7 m
2
và thửa đất số 53 -
diện tích 1.260,12 m
2
(còn lại một phần diện tích thuộc thửa đất số 53 được quy
hoạch làm đường N do đó không đo đạc diện tích xem xét công nhận quyền sử
dụng đất). Phần diện tích đất ngoài ranh giới hai thửa đất số 27 và 53 được xác
định là “Đất nhà nước”, bà Nguyễn Thị T1 đồng ý xác nhận ranh giới sử dụng đất
và ký xác nhận.
- Theo bà Nguyễn Thị T1 trình bày trong quá trình sử dụng thửa đất số 119,
tờ bản đồ số 13, diện tích 2.327,5 m
2
, tại khu vực đường N, gia đình bà T1 có
đóng thuế sử dụng đất theo Biên lai thu thuế sử dụng đất số 009102 ngày
29/12/2003.
Tuy nhiên, theo thông tin kê khai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp của gia
đình bà Nguyễn Thị T1 và ông Nguyễn Phùng T, do Chi cục Thuế huyện C cung
cấp tại công văn số 978/CCT-QLTT ngày 09/11/2018, thì gia đình bà Nguyễn Thị
T1 và ông Nguyễn Phùng T kê khai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp cho diện
tích 1.000 m
2
tại Tổ F, khu cư xá đất đỏ, Khu dân cư số 7. Cụ thể tại Tờ khai thuế
ngày 15/4/1996 do ông Nguyễn Phùng T kê khai nộp thuế 1.000m
2
đất tại cư xá
Đ.
Đối với việc sử dụng đất tại khu cư xá Đ, gia đình bà T1 đã nộp hồ sơ xin
công nhận quyền sử dụng đất và đã được công nhận 03 (ba) thửa đất theo giấy
chứng nhận diện tích 471,7 m
2
đất trồng cây hàng năm khác tại khu vực đường H
- T; Giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với
thửa đất số 539 - tờ bản đồ số 29, diện tích 589,5 m
2
tại đường P - Hồ T - Khu dân
cư S và Giấy CNQSD đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối
8
với thửa đất số 553 (mới) - tờ bản đồ số 29, diện tích 547 m
2
, tại đường P - Khu
dân cư S.
Trong Đơn xin cấp giấy CNQSD đất (đơn viết tay) đề ngày 15/4/2005, bà
T1 xin công nhận QSD đất đối với 02 thửa đất số 27 và 53 - tờ bản đồ số 25 cũng
đã kê khai có nộp thuế sử dụng đất đối với hai thửa đất này. Như vậy, không có
cơ sở để xác định Biên lai nộp thuế sử dụng đất số 009102 ngày 29/12/2003 của
ông Nguyễn Phùng T là nộp thuế sử dụng đất đối với thửa đất số 119 - tờ bản đồ
số 13, diện tích 2.327,5 m
2
, tại khu vực đường N, Khu dân cư S.
+ Căn cứ Biên bản làm việc ngày 08/12/2010 của Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất với đại diện Khu dân cư số 7 xác định việc sử dụng đất của gia
đình bà T1 là từ năm 2007.
+ Căn cứ Phiếu lấy ý kiến của Khu dân cư số 7 ngày 13/11/2013 về nguồn
gốc và thời điểm sử dụng đất, theo đó ghi nhận: “Nguồn gốc sử dụng đất: do nhà
nước quản lý gia đình tự khai phá trồng trọt cây ăn quả, hoa màu. Thời điểm bắt
đầu sử dụng đất: Năm 2006”.
+ Căn cứ Biên bản đo đạc ranh giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất
ngày 27/7/2013 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất và Đơn tường trình
về việc sử dụng đất ngày 10/8/2013 của bà Nguyễn Thị T1, ghi nhận hiện trạng
trên đất có cây ăn trái (theo đơn tường trình ngày 10/8/2013 của bà T1 trình bày
năm 2011 chuyển sang trồng cây ăn trái); ngoài ra hiện trạng vẫn còn 17 cây tràm,
11 cây dương (cây rừng nhà nước quản lý).
Căn cứ các hồ sơ nêu trên, UBND huyện C xác định thửa đất số 119, tờ bản
đồ số 13, diện tích 2.327,5 m
2
, tại khu vực đường N, Khu dân cư S là do gia đình
bà Nguyễn Thị T1 lấn chiếm sử dụng từ sau tháng 9/2007 cho đến tháng 10/2010
(sau thời gian được công nhận quyền sử dụng đất đối với hai thửa đất số 27 và
thửa số 53 - tờ bản đồ số 25, diện tích 4.178,82 m
2
, gia đình bà T1 tiếp tục mở
rộng ranh giới thửa đất, lấn chiếm sử dụng đất đối với thửa đất số 119 - tờ bản đồ
số 13, diện tích 2.327,5 m
2
; đến 07/10/2010 Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng
đất tiến hành đo đạc ranh giới thửa đất theo hiện trạng sử dụng đất).
Từ những căn cứ trên, UBND huyện xác định, việc bà Nguyễn Thị T1 khiếu
nại cho rằng thửa đất số 119 - tờ bản đồ số 13, diện tích 2.327,5 m
2
do gia đình bà
sử dụng từ năm 1990 là không có cơ sở.
Về nội dung không được bồi thường đối với diện tích đất 71,5 m
2
:
Theo điểm 1.2, Điều 1 Quyết định số 1193/QĐ-UBND ngày 16/11/2021
của UBND huyện C, thì phần diện tích 276 m
2
đất thuộc một phần thửa số 9 - tờ
bản đồ số 13 đất nông nghiệp trồng cây hàng năm khác (BHK) do ông Nguyễn
Phùng T đang sử dụng không đủ điều kiện bồi thường về đất. Lý do: đất đã bị thu
hồi để xây dựng Đường trục chính ven hồ Q1 (nay là đường N) vào năm 2003;
nhà nước đã xác lập quyền quản lý, do đó không đủ điều kiện được bồi thường
theo Điều 75, khoản 2 Điều 77 và Điều 82 Luật Đất đai năm 2013.
9
Qua kiểm tra, đo đạc xác định ranh giới, tọa độ thu hồi đất do Chi nhánh
Văn phòng Đ1 thực hiện và xác nhận tại Công văn số 44/CNVPĐKĐĐ ngày
17/02/2022, xác định: Trong số diện tích đất 276 m
2
đất thuộc một phần thửa số
9 - tờ bản đồ số 13, có:
+ 71,5 m
2
đất nằm trong ranh thu hồi đất dự án Đường trục chính ven hồ
Q1 (nay là đường N) đã được thu hồi theo Quyết định số 10919/QĐ-UB ngày
14/11/2003 của UBND tỉnh B; khi thu hồi đất, ông Nguyễn Phùng T được bồi
thường, hỗ trợ về tài sản trên đất.
+ Còn lại 204,5 m
2
đất nằm ngoài ranh giới thu hồi đất của dự án Đường
trục chính ven hồ Q1 (nay là đường N) năm 2003.
Theo Quyết định số 10919/QĐ-UB ngày 14/11/2003 của UBND tỉnh B;
không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại
khoản 6 Điều 19 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/05/2014 của Chính phủ.
Về điều kiện bồi thường về đất: ông Nguyễn Phùng T bị thu hồi đất theo Quyết
định số 10919/QĐ-UB ngày 14/11/2003 của UBND tỉnh B, phần diện tích thu hồi
không được bồi thường về đất, tuy nhiên được hỗ trợ hoa màu, vật kiến trúc trên
đất.
Như vậy, diện tích 71,5 m² không bồi thường do đất nằm trong ranh đã thu
hồi đất để thực hiện dự án Đường trục chính ven hồ Q1 (nay là đường N) theo
Quyết định số 10919/QĐ-UB ngày 14/11/2003 của UBND tỉnh B.
Về nội dung khiếu kiện việc không được bồi thường đối với diện tích đất
2.327,5 m
2
thuộc một phần thửa 255 - tờ bản đồ số 42:
Căn cứ khoản 4 Điều 82 Luật Đất đai năm 2013 quy định về các trường
hợp Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất: “Trường hợp không đủ
điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này”.
Căn cứ khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai 2013 quy định về Điều kiện được bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng: “1. Hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất hàng năm, có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) hoặc có đủ điều kiện để
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất theo quy định của Luật này mà chưa được cấp, trừ trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 77 của Luật này; người Việt Nam định cư ở nước
ngoài thuộc đối tượng được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại
Việt Nam mà có Giấy chứng nhận hoặc có đủ điều kiện được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo
quy định của Luật này mà chưa được cấp”.
10
UBND huyện C có căn cứ xác định diện tích 2.375 m
2
đất thuộc thửa đất
số 255 - tờ bản đồ số 42 tại đường N - Khu dân cư S, do ông Nguyễn Phùng T
đang sử dụng là từ việc chiếm đất rừng do UBND huyện quản lý, không đủ điều
kiện công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Đất
đai 2013; các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 22 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai
(đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 và
Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày 18/12/2020 của Chính phủ), do đó, không
đủ điều kiện bồi thường về đất theo quy định tại khoản 1 Điều 75 và khoản 4 Điều
82 Luật Đất đai 2013.
Căn cứ khoản 2 Điều 77 Luật Đất đai 2013 quy định: “Bồi thường về đất,
chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của hộ gia
đình, cá nhân. UBND huyện C xác định thửa đất số 119 - tờ bản đồ số 13, diện
tích 2.327,5 m
2
, tại khu vực đường N, Khu dân cư S là do gia đình bà Nguyễn Thị
T1 lấn chiếm sử dụng từ sau tháng 9/2007 cho đến tháng 10/2010.
Thời điểm sử dụng đất đối với phần diện tích 2.327,5m² đất (nằm trong
phạm vi thu hồi dự án) là do gia đình bà Nguyễn Thị T1 lấn chiếm sử dụng từ sau
tháng 9/2007 cho đến tháng 10/2010. Do đó, không đủ điều kiện bồi thường về
đất, chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo quy
định tại khoản 2 Điều 77.
Về nội dung khởi kiện hủy Quyết định 760/QĐ-UBND ngày 18/5/2022 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về việc cưỡng chế thu hồi 2.603,5m² đất của
gia đình ông T:
Hiện nay, UBND huyện đã thực hiện xong công tác cưỡng chế thu hồi và
bàn giao mặt bằng đối với phần diện tích 2.603,5m² đất của gia đình ông T cho
chủ đầu tư để thực hiện dự án theo đúng quy định.
Ngày 17/8/2023, ông T có đơn thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện và không
còn yêu cầu khởi kiện đối với nội dung này, nên UBND huyện C không có ý kiến.
Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bác toàn bộ nội dung
khiếu kiện của ông Nguyễn Phùng T và công nhận tính hợp pháp của các Quyết
định, văn bản hành chính có liên quan mà UBND huyện C đã ban hành.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 143/2023/HC-ST ngày 14/9/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện hủy Quyết định Cưỡng chế số
760/QĐ-UBND ngày 18/5/2022 của Chủ tịch UBND huyện C.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phùng T đối với các nội dung sau:
- Tuyên hủy một phần quyết định số 1193/QĐ-UBND ngày 16/11/2021 của
UBND huyện C v/v phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Phùng T - thường trú khu dân cư số G,
huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định
11
cư trung tâm huyện C. Cụ thể, hủy bỏ phần tại Điều 1, Mục 1.2 Diện tích đất
không bồi thường.
- Tuyên hủy một phần Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 781/QĐ-
UBND ngày 26-5-2022 của Chủ tịch UBND huyện C về việc giải quyết khiếu nại
của ông Nguyễn Phùng T về việc thu hồi đất mà không bồi thường 71,5m
2
thuộc
một phần thửa số 255 tờ bản đồ 42.
- Tuyên buộc UBND huyện C công nhận 2.375m
2
thuộc một phần thửa đất
số 255, tờ bản đồ số 42 và 71,5m
2
đất thuộc một phần thửa số 9, tờ bản đồ số 13
của hộ ông Nguyễn Phùng T đủ điều kiện bồi thường theo quy định pháp luật.
- Tuyên buộc UBND huyện C bồi thường giá trị quyền sử dụng đất 2.375m
2
thuộc một phần thửa đất số 255, tờ bản đồ số 42 và 71,5m
2
đất thuộc một phần
thửa số 9, tờ bản đồ số 13 cho gia đình ông Nguyễn Phùng T theo đúng quy định
pháp luật.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định pháp luật.
Ngày 27/9/2023 Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nhận đơn kháng
cáo của ông Nguyễn Đăng K và bà Trịnh Thị H là đại diện theo ủy quyền của
người khởi kiện kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo
hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phùng T.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Phùng T là người khởi kiện vẫn giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người khởi kiện ông Nguyễn Phùng T và bà Nguyễn Thị T1 trình bày: Phần
đất thu hồi 2.327,5m
2
không thuộc trong 3 loại đất rừng do tôi phóng trên tọa độ
nên không có văn bản cung cấp, hiện trạng cây trên phần đất này gồm dừa, mít,
nhãn do gia đình tôi trồng, trong đó có cây tràm, cây dương, cây dầu cũng không
phải do Nhà nước trồng. Gia đình tôi quản lý, sử dụng từ năm 1990 không phải
từ năm 2007. Đối với phần đất 71,5 m
2
Ủy ban nhân dân huyện C không bồi
thường cho rằng đã thu hồi nhưng không trích dẫn được sơ đồ hợp pháp. Gia đình
tôi đủ điều kiện được bồi thường 2 phần đất trên đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày: Phần
đất 2.327,5m
2
trong năm 2007 khi Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho gia đình bà T1 2 thửa đất có diện tích 4.178m
2
thì phần
giáp ranh ghi rõ là đất Nhà nước, có văn bản mô tả ranh giới tiếp giáp đất Nhà
nước gia đình bà T1 ký ngày 07/10/2010. Về hồ sơ pháp lý: Nhà nước căn cứ sổ
mục kê năm 1997, 1998 thì phần đất rừng này đã giao cho Ủy ban nhân dân huyện
C quản lý, ghi rõ là đất rừng tự nhiên, gia đình bà T1 nhiều lần xin cấp giấy, khiếu
nại, Nhà nước cũng nhiều lần trả lời bằng văn bản giải quyết khiếu nại; gia đình
bà T1 sử dụng phần đất này từ sau năm 2007 đến năm 2010, có lấy ý kiến của khu
dân cư và có niêm yết danh sách các hộ không đủ điều kiện cấp giấy nên gia đình
bà T1, ông T không đủ điều kiện bồi thường. Đối với phần đất 71,5m
2
năm 2003
Nhà nước đã thu hồi theo Quyết định 10919 và bồi thường công sức để thực hiện
12
dự án làm trục chính ven hồ Quang Trung, Ủy ban nhân dân huyện C đã đối thoại
với ông T, hồ sơ còn lưu trữ kèm theo Công văn số 304 trình bày rõ.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo
quy định của pháp luật; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và
nghĩa vụ theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Phần đất 2.327,5m
2
ông T yêu cầu bồi thường thuộc đất rừng
phòng hộ, gia đình ông T quản lý sử dụng đất từ sau năm 2007 không đủ điều kiện
bồi thường. Đối với phần đất 71,5m
2
năm 2003 Nhà nước đã thu hồi theo Quyết
định 10919 và đã bồi thường công sức để thực hiện dự án làm trục chính ven hồ
Quang Trung đất do Nhà nước quản lý ông T cũng không đủ điều kiện bồi thường.
Án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T là có căn cứ, đề nghị
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét
đầy đủ ý kiến của các bên đương sự và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Phùng T đảm bảo hình
thức, thời hạn, đủ điều kiện để xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Phiên tòa được triệu
tập hợp lệ, người bị kiện có yêu cầu xét xử vắng mặt nhưng có mặt người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện, theo quy định tại Điều 225 Luật Tố
tụng hành chính thì việc xét xử phúc thẩm vẫn được tiến hành.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ pháp luật và thời hiệu khởi kiện: Ngày 02/8/2022, ông
Nguyễn Phùng T khởi kiện Quyết định số 1193/QĐ-UBND ngày 16/11/2021 của
Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về việc phê duyệt kinh phí bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Phùng
T; Quyết định số 781/QĐ-UBND ngày 26/5/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện C về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Phùng T và ngày 17/8/2023
khởi kiện bổ sung Quyết định số 760/QĐ-UBND ngày 18/5/2022 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện C về việc cưỡng chế thu hồi đất là trong thời hạn chưa
quá một năm kể từ ngày ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện; Tòa án cấp
sơ thẩm đã xác định về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết, thời hiệu khởi
kiện là đúng quy định tại các Điều 30, 32, 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
[2.2] Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục: Ủy ban nhân dân huyện C ban hành
Quyếtđịnh số 1186/QĐ-UBND ngày 16/11/2021 về việc thu hồi đất của hộ ông
Nguyễn Phùng T để thực hiện Dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định cư trung tâm
huyện C và ban hành các Quyếtnh 1192/QĐ-UBND, 1193/QĐ-UBND ngày
13
16/11/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C về việc phê duyệt kinh phí bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Phùng T;
Quyếtnh 1917/QĐ-UBND và 1918/QĐ-UBND ngày 16/11/2021 của Ủy ban nhân
dân huyện C về việc phê duyệt Phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Phùng T. Không đồng ý với các quyết
định trên, ông T làm đơn khiếu nại lần đầu và được Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện C giải quyết khiếu nại bằng Quyếtđịnh 781/QĐ -UBND ngày 26/5/2022,
quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật. Do ông T không tự
nguyện bàn giao đất, Ủy ban nhân dân huyện C tiến hành vận động ông T bàn
giao đất nhưng không chấp hành, nên Ủy ban nhân dân huyện C ban hành quyết
định cưỡng chế thu hồi đất số 760/QĐ-UBND ngày 18/5/2022 đối với ông T là
đúng quy định tại Điều 62, Điều 69, Điều 71 Luật Đất đai 2013 và Điều 17 Nghị
định 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ; Điều 18, 27, 28, 29, 31 Luật khiếu
nại, Nghị định 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật khiếu nại.
[2.3] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Phùng T nhận thấy:
[2.3.1] Đối với yêu cầu bồi thường diện tích đất 2.327,5 m
2
thuộc một phần
thửa 255 - tờ bản đồ số 42: Căn cứ Sổ mục kê và Bản đồ địa chính năm 1995 phần
diện tích 2.375m
2
đất này thuộc một phần thửa 01 - tờ 03, diện tích 52.287 m
2
đất
chưa sử dụng, cột ghi tên sử dụng đất để “Đồi cát”. Căn cứ Bộ hồ sơ địa chính
huyện C được thành lập năm 1998 và được cấp có thẩm quyền phê duyệt ngày
20/01/1999 thì diện tích 2.375m
2
nêu trên là thuộc một phần của thửa đất số 253
- tờ bản đồ số 15, diện tích 244.346 m
2
, loại đất lâm nghiệp (LN) - ghi chú: “đất
rừng tự nhiên phòng hộ (RTnP)”, do UBND huyện đăng ký quản lý. Ngày
16/4/2005, bà T1 (vợ ông T) làm Đơn xin cấp GCNQSD đất, xin công nhận 4.800
m
2
đất thuộc thửa đất số 27 và 53 - tờ bản đồ số 25 tại khu cơ giới cũ (kèm theo
đơn viết tay đề ngày 15/4/2005 có kê khai: “Từ đó đến nay gia đình tôi luôn canh
tác trên hai mảnh đất nói trên không có tranh chấp, hàng năm đóng thuế đầy đủ”.
Ngày 12/9/2007, UBND huyện C cấp GCNQSD đất số AH 648249 cho gia đình
bà T1 đối với 02 thửa đất (thửa số 27 diện tích 2.918,7m
2
và thửa số 53, diện tích
1.260,12m
2
) tờ bản đồ số 25. Tổng diện tích là 4.178,82 m
2
đất nông nghiệp, phần
diện tích 2.327,5m
2
ông T cho rằng đã khai phá từ những năm 1987 đến năm 1990
liền kề diện tích 4.178,82 m
2
nhưng không được bà T1, ông T kê khai, đăng ký sử
dụng và yêu cầu cấp GCNQSD đất. Theo Biên bản xác định ranh giới, mốc giới
thửa đất ngày 07/10/2010 của Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất xác định
hiện trạng kiểm tra thực địa ghi nhận: “Trên đất có cây dương, cầu dầu cát Côn
Sơn, tràm bông vàng của nhà nước trồng; dưới tán cây có trồng dừa, mít, 01
chuồng heo, 01 chuồng gà”. Đồng thời, quá trình đề nghị cấp quyền sử dụng phần
đất này từ năm 2010 các cơ quan của huyện đã trả lời bằng văn bản trường hợp
của gia đình bà Nguyễn Thị T1 không đủ điều kiện cấp quyền sử dụng đất. Với
cơ sở nêu trên, UBND huyện C xác định thửa đất số 119, tờ bản đồ số 13, diện
tích 2.327,5 m
2
, tại khu vực đường N, Khu dân cư S là do gia đình bà Nguyễn Thị
T1 lấn chiếm sử dụng từ sau tháng 9/2007 cho đến tháng 10/2010, thực tế đất rừng
do UBND huyện quản lý, không đủ điều kiện công nhận quyền sử dụng đất theo
14
quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai 2013, các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 22
Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đất đai (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số
01/2017/NĐ-CP ngày 06/01/2017 và Nghị định số 148/2020/NĐ-CP ngày
18/12/2020 của Chính phủ), do đó, không đủ điều kiện bồi thường về đất theo quy
định tại khoản 1 Điều 75 và khoản 4 Điều 82 Luật Đất đai 2013, cấp sơ thẩm
không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T là hoàn toàn có cơ sở.
[2.3.2] Đối với yêu cầu bồi thường đối với diện tích đất 71,5 m
2
: Căn cứ
Quyết định số 781/QĐ-UBND ngày 26/5/2022 của Ủy ban nhân dân huyện C về
việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Phùng T xác định: 71,5 m
2
đất nằm
trong ranh thu hồi đất dự án Đường trục chính ven hồ Q1 (nay là đường N) đã
được thu hồi theo Quyết định số 10919/QĐ-UB ngày 14/11/2003 của UBND tỉnh
B; khi thu hồi đất, ông Nguyễn Phùng T được bồi thường, hỗ trợ về tài sản trên
đất. Còn lại 204,5 m
2
đất nằm ngoài ranh giới thu hồi đất của dự án Đường trục
chính ven hồ Q1 (nay là đường N) đủ điều kiện bồi thường. Ông T cho rằng diện
tích 71,5 m² không nằm trong phần đất thu hồi nhưng không có cơ sở nào để
chứng minh, căn cứ hồ sơ đối thoại của Ủy ban nhân dân huyện C cung cấp kèm
theo Công văn số 304 ngày 25/9/2024 có cơ sở xác định 71,5m
2
nằm trong ranh
thu hồi dự án theo 2 hồ sơ bản vẽ do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai lập,
Biên bản họp xác minh số 686 ngày 21/12/2021 của Thanh tra huyện, Biên bản
đối thoại số 22 ngày 18/5/2022 của Ủy ban nhân dân huyện C, bản vẽ vị trí phần
đất trên đã bị thu hồi. Như vậy, có đủ cơ sở xác định 71,5m
2
đất nằm trong ranh
đã thu hồi đất để thực hiện dự án Đường trục chính ven hồ Q1 (nay là đường N)
theo Quyết định số 10919/QĐ-UB ngày 14/11/2003 của UBND tỉnh B nên không
đủ điều kiện bồi thường. Quyết định thu hồi đất số 10919 được thực hiện từ năm
2003, đến nay đã 20 năm và ông T, bà T1 không có khiếu nại hay khởi kiện, nên
không có căn cứ để xem xét quyết định 10919 theo yêu cầu khởi kiện trong vụ án
này.
[2.4] Xét Quyết định số 781 giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện C chấp nhận một phần khiếu nại của ông T, sửa một phần Quyết định
số 1193/QĐ-UBND ngày 16/11/2021 của Ủy ban nhân dân huyện C được ban
hành đúng trình tự thẩm quyền và có căn cứ, phù hợp nội dung vụ án, đúng quy
định của pháp luật nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T về việc hủy
quyết định giải quyết khiếu nại.
[3] Từ các phân tích trên, ông Nguyễn Phùng T kháng cáo nhưng không có
chứng cứ gì mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn
Phùng T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.
[4] Ông Nguyễn Phúng T4 là người cao tuổi nên được miễn án phí hành
chính phúc thẩm theo luật định.
[5] Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
15
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: khoản 1 Điều 241; Điều 349 của Luật Tố tụng hành chính năm
2015; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 34 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
1. Bác kháng cáo của ông Nguyễn Phùng T. Giữ nguyên quyết định của
Bản án hành chính sơ thẩm số 143/2023/HC-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cụ thể tuyên:
Căn cứ: khoản 1 Điều 75, khoản 2 Điều 77, khoản 4 Điều 82, khoản 2 Điều
101 Luật Đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 173, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật tố
tụng hành chính; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện hủy Quyết định Cưỡng chế số
760/QĐ-UBND ngày 18/5/2022 của Chủ tịch UBND huyện C.
2. Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Phùng T đối với các nội dung sau:
- Tuyên hủy một phần quyết định số 1193/QĐ-UBND ngày 16/11/2021 của
UBND huyện C v/v phê duyệt kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất đối với hộ ông Nguyễn Phùng T - thường trú khu dân cư số G,
huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để thực hiện dự án Hạ tầng kỹ thuật khu tái định
cư trung tâm huyện C. Cụ thể, hủy bỏ phần tại Điều 1, Mục 1.2 Diện tích đất
không bồi thường.
- Tuyên hủy một phần Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 781/QĐ-
UBND ngày 26-5-2022 của Chủ tịch UBND huyện C về việc giải quyết khiếu
nại của ông Nguyễn Phùng T về việc thu hồi đất mà không bồi thường 71,5m
2
thuộc một phần thửa số 255 tờ bản đồ 42.
- Tuyên buộc UBND huyện C công nhận 2.375m
2
thuộc một phần thửa đất
số 255, tờ bản đồ số 42 và 71,5m
2
đất thuộc một phần thửa số 9, tờ bản đồ số 13
của hộ ông Nguyễn Phùng T đủ điều kiện bồi thường theo quy định pháp luật.
- Tuyên buộc UBND huyện C bồi thường giá trị quyền sử dụng đất 2.375m
2
thuộc một phần thửa đất số 255, tờ bản đồ số 42 và 71,5m
2
đất thuộc một phần
thửa số 9, tờ bản đồ số 13 cho gia đình ông Nguyễn Phùng T theo đúng quy định
pháp luật.
2. Về án phí hành chính phúc thẩm:
Ông Nguyễn Phùng T được miễn án phí hành chính phúc thẩm theo quy
định. Số tiền tạm ứng án phí kháng cáo 300.000đồng theo Biên lai thu số 0000090
16
ngày 28/11/2023 của Cục Thi hành án tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (do bà Trịnh Thị
H nộp thay) được hoàn trả lại cho ông T.
3. Các phần quyết định khác của Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tối cao;
- VKSNDCC tại TP.HCM;
- TAND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
- VKSND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
- Cục THADS tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
- Các Đương sự;
- Lưu HSVA, VTLT, (15b-TVN).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Văn Minh
Tải về
Bản án số 1123/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 1123/2024/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm