Bản án số 104/2025/DS-ST ngày 04/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 9 - Đồng Tháp, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 104/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 104/2025/DS-ST ngày 04/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 9 - Đồng Tháp, tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 9 - Đồng Tháp, tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 104/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: chấp nhận yêu cầu nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CAO LÃNH
TỈNH ĐỒNG THÁP
Bản án số: 104/2025/DS-ST
Ngày 04 tháng 6 năm 2025
“V/v Tranh chấp quyền sử dụng
đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phan Thị Nhã Quyên
- Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Phan Quốc Tiến
2. Ông Đặng Văn Việt
- Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Bích Ngọc - Thư ký viên
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh tham gia phiên tòa:
Ông Lương Ngọc Tiến – Kiểm sát viên
Vào ngày 04 tháng 6 năm 2025, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao
Lãnh xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 961/2023/TLST-DS, ngày
01/11/2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử thẩm số: 572/2024/QĐXXST-DS ngày 01 tháng 11 năm 2024,
Thông báo mở lại phiên tòa số: 31/TB-TA ngày 15 tháng 4 năm 2025, Thông
báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 21/TB-TA ngày 07 tháng 5 năm 2025
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Võ Văn Đ, sinh năm1952 (có mặt)
Địa chỉ: ấp Đ, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
- Bị đơn:Trần Thị Bích H, sinh năm 1980 (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp T, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Võ Văn B, sinh năm 1949 (có đơn xin vắng mặt)
2. Ông Võ Văn Đ1, sinh năm 1973 (vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Tổ B, ấp C, xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
3. Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ nay là Sở Nông nghiệp Môi
trường tỉnh Đ, Địa chỉ: Quốc lộ C, xã M, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hoàng H1, chức vụ: Phó trưởng
Phòng Thẩm tra xác minh đơn, Văn phòng Đ2. Địa chỉ: số C, Quốc lộ C, xã
2
A, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Trong quá tnh giải quyết vụ án tại phiên tòa nguyên đơn
Văn Đ trình bày:
Phần đất tranh chấp diện tích đo đạc thực tế 256,1m
2
được xác định
trong phạm vi từ mốc M1-2-3-4-5-6-7-8-1 theo sơ đồ đo đạc ngày 29/11/2023
của Trung tâm Kthuật Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ, thuộc thửa 187, tờ
bản đồ số 7, tọa lạc tại M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp nguồn gốc ông Đ
nhận chuyển nhượng của ông Văn B vào khoảng năm 1976 với giá 02 chỉ
vàng 24kara. Phần đất vị trí: một cạnh giáp đất ông Đ, một cạnh giáp kênh
thủy lợi và một cạnh giáp phần đất còn lại của ông B, khi mua không có đo đạc,
diện tích khoảng trên 100m
2
, hiện trạng phần đất đầu bkênh này là đất
trũng. Ông Đ trả đủ vàng cho ông B nhận đất, tiến hành bồi đắp, sử dụng
cho đến ngày nay, trên đất ông Đ trồng cây xoài. Do phần đất diện tích
không lớn nên từ trước đến nay ông Đ không có đi đăng ký kê khai để được cấp
giấy chứng nhận QSDĐ.
Sau khi ông B chuyển nhượng phần đất đầu bờ kênh cho ông Đ thì vài
năm sau ông B lâm nnên chuyển nhượng hết phần đất còn lại cho ông Trần
Văn D cha của bà Trần Thị Bích H. Ông Đ không biết ông D được cấp giấy
chứng nhận QSDĐ khi nào nhưng khi ông Đ biết thì ông D đã được cấp giấy
chứng nhận QSDĐ, trong đó phần đất của ông Đ nhận chuyển nhượng của
ông B. Ông Đ nhiều lần yêu cầu ông D thực hiện sang tên QSDĐ thửa 187 cho
ông Đ nhưng ông D hứa hẹn mà không thực hiện cho đến khi ông D chết. Ông
Đ không biết H đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ thửa 187 khi nào cho đến
năm 2022, khi H chuyển nhượng đất thửa 169 cho ông Hoàng G, thì ông
Đ mới biết H được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đ cấp giấy chứng
nhận QSDĐ ngày 07/4/2020 đối với thửa 187, tờ bản đồ số 7, diện tích 315m
2
,
loại đất chuyên trồng a nước, toạ lạc tại ấp Đ, M, huyện C, tỉnh Đồng
Tháp do thừa kế QSDĐ của ông Trần Văn D. Khi H chuyển nhượng QSDĐ
cho ông G thì ông Đ không thống nhất dẫn đến phát sinh tranh chấp, H
hứa sẽ thực hiện sang tên QSDĐ thửa 187 cho ông Đ. Nhưng sau khi ông Đ
tên vai trò người thửa đất giáp ranh để H thực hiện xong việc chuyển
nhượng đất thì H không thực hiện sang tên QSDĐ thửa 187, do đó ông Đ
khởi kiện H. Tại phiên tòa, ông Đ yêu cầu:
- Đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ do Sở tài nguyên Môi
trường tỉnh Đ cấp cho Trần Thị Bích H ngày 07/4/2020 đối với thửa 187, tờ
bản đồ số 7, diện tích 315m
2
, loại đất chuyên trồng lúa nước, toạ lạc tại ấp Đ,
xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
- Ông Đ yêu cầu công nhận QSDĐ cho ông Văn Đ đối với diện tích
đo đạc thực tế 256,1m
2
, thuộc thửa 187, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại M, huyện
C, tỉnh Đồng Tháp.
3
Do ông Đ nhận chuyển nhượng đất diện tích không lớn, đồng thời ông Đ
với ông B có mối quan hệ anh em ruột nên thời điểm chuyển nhượng đất đôi
bên không lập giấy tmua bán đất. Ông Đ thừa nhận cho đến khi ông Đ
khởi kiện H đến Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh thì ông Đ mới yêu cầu
ông B ông Đ1 (là con ông B) lập Giấy giao kèo bán đất đề ngày 19 tháng 6
năm 1976 cho ông Đ. Tại phiên tòa, ông Đ xác nhận không tranh chấp đồng
chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Đ với ông B, ông Đ không nội dung yêu
cầu gì đối với ông B trong vụ kiện này.
Đối với chi phí bồi lắp và cây trồng trên đất ông Đ không có yêu cầu giải
quyết. Ông Đ thống nhất kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, thống nhất kết quả
định giá tài sản. Hiện trạng phần diện tích đất tranh chấp không thay đổi
so với thời điểm Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ. Ngoài ra, nguyên đơn
không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ và không trình bày yêu cầu gì thêm.
2. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Trần Thị Bích H trình bày:
Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì H không đồng ý. Phần
đất tranh chấp diện tích 256,1m
2
nguồn gốc của ông Trần Văn D, ông D
được đứng tên QSDĐ năm nào thì H không biết. H được Sở Tài nguyên
Môi tờng tỉnh Đ cấp giấy chứng nhận QSDĐ ngày 07/4/2020 đối với thửa
187, tờ bản đsố 7, diện tích 315m
2
, đất chuyên trồng lúa nước, toạ lạc tại ấp
Đ, M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp, nguồn gốc sử dụng đất nhận thừa kế
QSDĐ của ông Trần Văn D.
Phần đất tranh chấp do ông Đ quản sử dụng đến nay khoảng trên 30
năm, cây trên đất do ông Đ trồng thu hoạch. H xác nhận từ trước đến
nay cả ông D bà H đều không tranh chấp hay ngăn cản việc sử đụng đất
của ông Đ. Bà H thống nhất để phần đất cho ông Đ sử dụng canh tác trồng cây,
H cam kết không cản trở ông Đ sử dụng đất cho đến cuối đời. Do giữa ông
Đ bà H nhiều mâu thuẩn nên khi ông Đ yêu cầu H thực hiện chuyển
QSDĐ cho ông Đ thì bà H không đồng ý.
Giấy chứng nhận QSDĐ thửa 187 H đang giữ bản chính, không cầm
cố hay thế chấp cho quan, nhân nào, không thực hiện bất k giao dịch
nào. H thống nhất sơ đồ đo đạc biên bản định giá của Hội đồng định giá.
Hiện trạng diện tích đất tranh chấp không thay đổi so với thời điểm xem
xét thẩm định tại chỗ. Ngoài ra, H không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ,
không trình bày hay yêu cầu thêm. Trong trường hợp tòa án công nhận
QSDĐ cho ông Đ thì H cũng không tranh chấp hay yêu cầu đối với
ông Văn B trong vụ kiện này, H sẽ khởi kiện bằng vụ kiện khác nếu
yêu cầu.
Ngày 02 tháng 01 năm 2025, bà H đơn yêu cầu phản tố, nội dung đơn
H yêu cầu ông Đ đốn hạ di dời toàn bộ cây trồng của ông Đ để trả lại cho bà
H diện tích 256,1m
2
được xác định trong phạm vi từ mốc M1-2-3-4-5-6-7-8-1
theo sơ đồ đo đạc ngày 29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đ, thuộc thửa 187, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại M, huyện C, tỉnh
4
Đồng Tháp, do bà H hiện đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ.
3. Người có quyền và nghĩa vụ liên quan
- Ông Văn B văn bản trình bày ý kiến đơn xin hòa giải xét
xử vắng mặt đề ngày 25/4/2024 gửi Tòa án.
- Ông Văn Đ1 đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án
được triệu tập xét xử hợp lệ, nhưng không có văn bản ý kiến gửi Tòa án, không
nội dung yêu cầu, không tham gia hòa giải và không mặt tại phiên tòa
thẩm.
- Ông Nguyễn Hoàng H1 có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:
- Tài liệu chứng cứ do nguyên đơn Văn Đ cung cấp: căn cước công
dân của ông Văn Đ + Hộ khẩu nguyên đơn (bản photo), Đơn xin miễn,
giảm tạm ứng án phí ngày 02/10/2023 (bản chính), Biên bản hoà giải ngày
27/5/2022 ngày 08/4/2022 (bản photo), Giấy giao kèo bán đất ngày
19/3/1976 (chữ viết tay, bản photo bản chính), Giấy chứng nhận QSDĐ tên
Trần Thị Bích H thửa 187 (bản photo).
- Tài liệu, chứng cứ do bị đơn Trần Thị Bích H cung cấp: không
- Tài liệu, chứng cứ do ông Văn B: văn bản trình bày ý kiến đề ngày
25/4/2024, căn cước công dân của ông Võ Văn BVõ Văn Đ1 (bản photo)
- Tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập: đồ đo đạc ngày 29/11/2023
(bản chính); Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 29/11/2023 (bản chính);
Biên bản định giá tài sản ngày 20/5/2024; Công văn số: 2149/UBND-HC ngày
04/10/2024 của Ủy ban nhân dân huyện C.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kim sát nhân dân huyện Cao Lãnh phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng
xét xử, Thư ký phiên tòa và việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia
tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, ktừ khi thụ cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đầy đủ và đúng quy định pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: theo nội dung phát biểu ngày 04/6/2025 của đại
diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
Về tố tụng:
5
[1] Về quan hệ pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên
tòa các đương sđều xác định phần đất tranh chấp diện tích 256,1m
2
được
xác định trong phạm vi từ mốc M1-2-3-4-5-6-7-8-1 theo đồ đo đạc ngày
29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên môi trường tỉnh Đ, thuộc thửa
187, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, Hội
đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án “Tranh chấp
quyền sử dụng đất” theo quy định của pháp luật.
[2] Về thẩm quyền giải quyết, xét thấy: Tranh chấp QSDĐ giữa các
đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 9
Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; đồng thời tài sản đang tranh chấp tọa lạc tại
M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp n vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, theo quy định tại điểm c khoản 1
Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] H, ông Đ1 đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ 02 nhưng
vẫn vắng mặt tại phiên tòa không do. Ông Nguyễn Hoàng H1, ông B
đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử
vắng mặt các đương sự nêu trên theo quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật
tố tụng dân sự.
Đồng thời, các đương sự cũng xác định trong vụ án này chỉ liên quan đến
những đương sự có tên trên, không liên quan đến đương sự nào khác.
Các đương sự cũng đều thống nhất với biên bản xem xét thẩm định tại
chỗ ngày và sơ đồ đo đạc ngày 29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên
môi trường tỉnh Đ. Đồng thời, các đương sự cũng thống nhất giá trị tài sản đang
tranh chấp theo biên bản định giá ngày 20/5/2024. Các đương sự cũng không
ý kiến gì vkết quả xem xét, thẩm định, định giá này, không yêu cầu xem
xét, thẩm định, định giá lại, yêu cầu lấy kết quả này làm căn cứ giải quyết vụ
án. Từ thời điểm Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đến nay thì phần
đất đang tranh chấp không thay đổi về hiện trạng, kiến trúc cũng như cây
trồng. Giấy chứng nhận QSDĐ thửa 187, tờ bản đồ số 7 hiện H đang quản
lý, không thế chấp hay cầm cố cho ai, không thực hiện bất kỳ giao dịch nào.
Các đương sđều thống nhất diện tích đất tranh chấp là 256,1m
2
được
xác định trong phạm vi từ mốc M1-2-3-4-5-6-7-8-1 theo đồ đo đạc ngày
29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên Môi trường tỉnh Đ, thuộc
thửa 187, tbản đồ số 7, tọa lạc tại xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Ngoài ra,
trong vụ án các đương sđều thống nhất không tranh chấp diện tích đất nào
khác. Trường hợp, các đương stranh chấp thì giải quyết bằng vụ án khác
theo quy định pháp luật.
[4] Về thời hiệu khởi kiện, xét thấy: Việc tranh chấp quyền sử dụng đất
giữa các đương sự thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo
quy định tại Điều 155 của Bộ luật dân sự.
Về nội dung:
6
[5] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Đ về việc yêu cầu công nhận QSDĐ
diện tích 256,1m
2
được xác định trong phạm vi từ mốc M1-2-3-4-5-6-7-8-1
theo sơ đồ đo đạc ngày 29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Đ, thuộc thửa 187, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại M, huyện C, tỉnh
Đồng Tháp. Đề nghị thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ do Sở tài nguyên i
trường tỉnh Đ đã cấp cho Trần Thị Bích H ngày 07/4/2020 đối với thửa 187,
tờ bản đồ số 7, diện tích 315m
2
, loại đất chuyên trồng lúa nước, toạ lạc tại ấp Đ,
xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp là hoàn toàn có căn cứ, bởi lẽ:
- Về nguồn gốc đất: Tại phiên tòa ông Đ và bà H đều thừa nhận phần đất
tranh chấp có diện tích 256,1m
2
được xác định trong phạm vi từ mốc M1-2-3-4-
5-6-7-8-1 theo đồ đo đạc ngày 29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài
nguyên môi trường tỉnh Đ, thuộc thửa 187, tờ bản đồ số 7, tọa lạc tại xã M,
huyện C, tỉnh Đồng Tháp do ông Văn Đ nhận chuyển nhượng của ông
Văn B.
- Về quá trình sdụng đất: Quá trình giải quyết vụ án, H mặt tại
buổi xem xét thẩm định tại chổ trình bày cây trồng trên đất của ông Đ, do
ông Đ trồng. H thừa nhận phần đất tranh chấp do ông Đ quản sử dụng từ
năm 1977 cho đến ngày nay. Quá trình sử dụng đất ông Đ bồi lắp đất, trên
đất ông Đ trồng 09 cây xoài cát hòa lộc, 01 cây sao 01 cây sầu đâu. H
thống nhất ông Đ sử dụng đất từ trước đến nay, cây trồng trên đất là của ông Đ,
do ông Đ trồng H không tranh chấp hay ngăn cản việc sử dụng đất của
ông Đ. Như vậy nội dung trình bày của nguyên đơn thuộc trường hợp không
phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự về
những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.
- Về đăng ký quyền sử dụng đất:
Trần Thị Bích H đứng tên giấy chứng nhận QSDĐ thửa 187, tờ bản
đồ số 7, diện tích 315m
2
, loại đất chuyên trồng lúa nước, toạ lạc tại ấp Đ, xã M,
huyện C, tỉnh Đồng Tháp do thừa kế QSDĐ của ông Trần Văn D, khi được cấp
giấy chứng nhận QSDĐ không đo đạc thực tế cũng không giáp ranh.
Thời điểm khi cấp giấy chứng nhận QSDĐ lần đầu ngày 11/10/1992 cho hộ
ông Trần Văn D đứng tên (bản đồ 299) tại thửa 706, tờ bản đồ số 7, với hình
thức công nhận QSDĐ, khi được cấp giấy chứng nhận QSDĐ không đo đạc
thực tế và cũng không có ký giáp ranh.
H thừa nhận khi nhận thừa kế toàn bộ QSDĐ từ ông D được đứng
tên giấy chứng nhận QSDĐ bà H không biết thửa đất 187 ngoài thực địa, do đó
H không biết thửa đất 187 do ông Đ quản sử dụng đất. Tuy nhiên từ khi
biết phần đất ông Đ sử dụng thuộc thửa 187 do H đứng tên thì H ng
không có tranh chấp hay yêu cầu gì đối với ông Đ cho đến khi ông Đ khởi kiện
vụ án.
Theo biên bản hòa giải ngày 27/5/2022 thể hiện, tranh chấp đất giữa ông
Đ với H xuất phát vào năm 2022 khi H làm thủ tục chuyển nhượng
QSDĐ cho ông Hoàng G. H yêu cầu ông Đ xác định ranh để H
7
chuyển nhượng đất, vtranh được xác định tại trụ ranh giáp bờ xoài (thửa
187) ra phía đất ruộng (thửa 169). Bà H và ông Đ thống nhất xác định ranh giới
thửa đất 187 ông Đ đang quản sử dụng và thửa 169 phần trụ đá giáp ranh
về phía sau đất ruộng (thửa 169) cho H làm thủ tục chuyển nhượng thửa
169. Theo đồ đo đạc ngày 29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên
Môi trường tỉnh Đ, thì H và ông Đ thống nhất ranh giới thửa đất 187 ông
Đ sử dụng thửa 169 mốc M1-M2. Sau khi bà H chuyển nhượng đất cho
ông G thì H không còn phần đất nào khác, đồng thời H cũng thống nhất
tài sản có trên thửa đất 187 là của ông Đ.
Mặc dù H thừa nhận phần đất này từ trước đến nay ông Đ quản sử
dụng, H không ngăn cản việc ông Đ sử dụng đất, không tranh chấp
đối với ông Đ. Tuy nhiên do nay ông Đ khởi kiện H nên H không đồng ý
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Việc H cam kết thực hiện sang tên thửa đất 187 cho ông Đ để ông Đ
đứng giấy chứng nhận QSDĐ thì không được phía bị đơn thừa nhận ông Đ
không tài liệu chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình. Tuy nhiên,
ông Đ sử dụng ổn định diện tích đất tranh chấp, trồng cây trên đất bị đơn biết,
thừa nhận ông Đ sử dụng đất không tranh chấp, ngăn cản việc ông Đ sử
dụng đất. Do đó đcăn cứ xác định phần đất hiện đang tranh chấp của phía
nguyên đơn Văn Đ. Việc nguyên đơn yêu cầu công nhận QSDĐ hoàn
toàn có căn cứ, nên được chấp nhận.
Phần chi phí bồi lắp cây trồng trên đất ông Đ H đều thống nhất
của ông Đ, các đương sự không có tranh chấp hay yêu cầu gì đối với chi phí bồi
lắp và cây trồng trên đất thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết; việc
giải quyết giao đất cho ai thì người đó được tiếp tục quản lý, sử dụng. Do đó,
Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
H yêu cầu phản tố, tuy nhiên Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2
H vẫn vắng mặt không do, căn cứ Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội
đồng xét xử đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn, không xem xét giải quyết.
Ông Đ, bà H xác định không tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng
QSDĐ với ông Văn B, không yêu cầu ông Văn B trong vụ kiện này,
ông Đ và bà H sẽ khởi kiện bằng vụ án khác khi có yêu cầu.
[6] Tại phiên tòa, các đương sự đều xác định ngoài lời trình bày và các
chứng cứ đã nộp cho Tòa án ra, thì các đương sự không còn chứng cứ nào khác
để chứng minh cho yêu cầu của mình cũng không yêu cầu Tòa án thu thập
thêm chứng cứ nào khác.
[7] Xét lời trình bày của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao
Lãnh là có căn cứ để chấp nhận như đã phân tích ở trên.
[8] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xchấp nhận yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố của bị đơn.
8
[9] Về chi phí tố tụng: Bà H phải chịu chi phí xem xét thẩm định định
giá tài sản 3.271.000 đồng (ba triệu, hai trăm bảy mươi mốt nghìn đồng). Do
nguyên đơn đã nộp tạm ứng nên H phải nghĩa vụ nộp để trả lại cho
nguyên đơn.
[10] Về án phí dân sự thẩm: H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm
nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 26, 134, 135, 136, 152, 236 Luật Đất đai 2024;
Điều 105, Điều 158, Điều 166 Bộ luật Dân sự năm 2015;
Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 157, Điều 163, Điều
164, Điều 165, Điều 184, Điều 185, Điều 227, Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng, án phí, lệ phí
Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Đ.
- Công nhận quyền sử dụng diện tích 256,1m
2
được xác định trong phạm
vi từ mốc M1-2-3-4-5-6-7-8-1 theo đồ đo đạc ngày 29/11/2023 của Trung
tâm Kỹ thuật Tài nguyên môi trường tỉnh Đ, thuộc thửa 187, tờ bản đồ số 7, tọa
lạc tại xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp cho ông Võ Văn Đ.
- Ông Văn Đ có quyền, nghĩa vụ đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về quản lý đất đai để làm thủ tục kê khai, đăng ký, tách, chuyển, điều chỉnh đối
với diện tích đất đã được Tòa án công nhận quyền sử dụng theo bản án đã
tuyên.
- Đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền về quản lý đất đai thu hồi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp ngày 07/4/2020, số vào sổ cấp GCN:
CS07793 thửa 187, tờ bản đồ số 7, mục đích sử dụng đất chuyên trồng lúa nước
đã cấp cho bà Trần Thị Bích H để cấp lại cho ông Võ Văn Đ.
(Kèm theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ sơ đồ đo đạc ngày
29/11/2023 của Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên môi trường tỉnh Đ).
2. Đình chỉ xét xử yêu cầu của bà Trần Thị Bích H về việc yêu cầu ông
Văn Đ đốn hạ, di dời cây trồng trả lại đất diện tích 256,1m
2
được xác định trong
phạm vi từ mốc M1-2-3-4-5-6-7-8-1 theo sơ đồ đo đạc ngày 29/11/2023 của
Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên môi trường tỉnh Đ, thuộc thửa 187, tờ bản đồ
số 7, tọa lạc tại xã M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
9
3. Về chi phí tố tụng: H phải chịu chi phí xem xét thẩm định định
giá tài sản 3.271.000 đồng (ba triệu, hai trăm bảy mươi mốt nghìn đồng). Do
ông Đ đã nộp tạm ứng nên H phải nghĩa vụ nộp để trả lại cho nguyên
đơn.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự quyền kháng cáo Bản án này
trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; các đương sự vắng mặt
có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được
tống đạt hợp lệ.
Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
hành án dân sự người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quyền thỏa thuận
thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- Tòa án ND tỉnh Đồng Tháp;
- VKS ND HCL;
- Chi Cục THADS HCL;
- Lưu: HSVA (Q).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phan Thị Nhã Quyên
10
Tải về
Bản án số 104/2025/DS-ST Bản án số 104/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 104/2025/DS-ST Bản án số 104/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất