Bản án số 09/2025/HS-ST ngày 07/02/2025 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/HS-ST ngày 07/02/2025 của TAND huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Kiến Xương (TAND tỉnh Thái Bình) |
Số hiệu: | 09/2025/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 07/02/2025 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | HS Đoàn Văn Nhật |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KIẾN XƯƠNG
TỈNH THÁI B
Án số: 09/2025/HS-ST
Ngày: 07- 02 - 2025
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI B
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Lê Thị Thanh Xuân
- Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Đỗ Thị Hiên
2. Bà Bùi Thị Ngoan
Thư ký phiên toà: Bà Vũ Thị Khánh Ly - Thư ký Toà án nhân dân huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái B.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B tham
gia phiên tòa: Ông Lê Văn Duy - Kiểm sát viên.
Ngày 07 tháng 02 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 103/2024/HSST
ngày 28/11/2024 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 109/2024/QĐXXST
ngày 26/12/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2025/QĐ- HSST ngày
09/01/2025 đối với:
1. Bị cáo Đoàn Văn N, sinh ngày 04/7/1984 tại tỉnh Thái B; Nơi cư trú:
thôn D, xã M, huyện K, tỉnh Thái B.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới
tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Văn L (đã chết),
con bà Nguyễn Thị V; Vợ: chị Trần Thị D, có 03 con, con lớn nhất sinh năm
2009, con nhỏ nhất sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị áp dụng biện pháp nhăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
2. Bị hại: Ông Đoàn Thanh B, sinh năm 1965, có mặt
Nơi cư trú: thôn thôn D, xã M, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Luật sư Phạm Văn Thảo -
Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, có mặt.

2
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
3.1. Ông Lương Ngọc H, sinh năm 1962, địa chỉ: thôn D, xã M, huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái B, vắng mặt
3.2. Ông Hoàng Văn H1, sinh năm 1958, địa chỉ: thôn D, xã M, huyện
Kiến Xương, tỉnh Thái B, vắng mặt.
4. Người làm chứng:
- Ông Phạm Quốc T, sinh năm 1964, vắng mặt
- Ông Lương Ngọc H, sinh năm 1962, vắng mặt
Nơi cư trú: thôn D, xã M, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B.
- Anh Vũ Thanh T, sinh năm 1982, vắng mặt
Nơi cư trú: thôn T, xã T, huyện K, tỉnh Thái B
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo N và ông B có mối quan hệ họ hàng với nhau. Giữa gia đình bị cáo
N và gia đình ông B có mâu thuẫn, tranh chấp về quyền sử dụng đất 5% tại thửa
đất số 258 xứ đồng Ninh Giang thuộc thôn D, xã M, huyện Kiến Xương, tỉnh
Thái B từ năm 2012 cho đến nay. Khoảng 14 giờ ngày 12/7/2024, ông B ra phần
đất đang tranh chấp, đối diện với cổng nhà bị cáo N để dịch chuyển hàng rào
dây thép B40. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, ông B thấy anh Tú (anh T là công
nhân đang thi công đường liên xã M - Quang B) lái máy xúc đi qua nên ông B
nhờ anh T đóng hộ cọc bê tông hàng rào để tiến hành chăng lưới thép. Lúc này,
bị cáo N đang ở trong nhà mình nhìn thấy anh T điều khiển máy xúc đóng cọc
bê tông trên phần đất đang tranh chấp giữa ông B và bị cáo N nên đi ra yêu cầu
anh T dừng việc đóng cọc. Anh T dừng lại và điều khiển máy xúc rời đi về nơi
tập kết. Sau đó, ông B và bị cáo N có xảy ra tranh cãi nhau, bị cáo N chửi ông B,
nhưng ông B không nói gì nên bị cáo N đi về nhà. Ông B tiếp tục dùng xẻng đào
đất lên để chôn cọc bê tông. Khi bị cáo N về đến cổng nhà mình, quay lại nhìn
thấy ông B vẫn đang tiếp tục đào đất ở phần đất đang tranh chấp, bị cáo N quay
lại để ngăn cản. Khi bị cáo N đi bộ đến vị trí của ông B thì nhìn thấy một chiếc
búa bằng sắt (kích thước 14,5 x 14,5 x 5cm), cán búa bằng tre (dài 73cm, đường
kính 03cm) do anh Sóng sử dụng để đập cột bê tông lấy sắt đang để ở đường. Bị
cáo N nhặt chiếc búa lên, cầm bằng hai tay đi đến phía trước, cách vị trí của ông
B khoảng 01m (lúc này ông B đang trong tư thế khom lưng để đào đất, trên đầu
đang đội mũ, loại mũ cối). Bị cáo N dùng hai tay giơ búa lên đánh 01 cái hướng
từ trên xuống dưới trúng vào mũ cối vùng bên phải làm chiếc mũ cối ông B
đang đội trên đầu văng ra, rơi xuống đất, đồng thời cán búa trượt xuống vai ông
B. Sau đó, ông B sử dụng chiếc xẻng đang đào đất, giơ lên để tự vệ. Thấy vậy,
bị cáo N không đánh ông B nữa, cầm búa đi về. Khi đến cổng nhà mình, bị cáo
N vứt chiếc búa ở khu vực trước cổng rồi đứng lại xem tình trạng của ông B.
3
Lúc này, ông H thấy ông B bị thương ở vùng đầu, ông H đến cởi áo của ông B
ra bịt vào vết thương cho ông B. Ông B một tay giữ áo để bịt vết thương còn
một tay cầm xẻng vào nhà ông H1 để trả. Lúc này, ông H điều khiển xe mô tô
đến thấy ông B đang đứng trong sân nhà ông H1 nên gọi ông B ra và chở ông B
đến Trạm y tế xã Quang Minh, Kiến Xương để sơ cứu vết thương. Sau khi khâu
vết thương, ông H dùng xe mô tô chở ông B về nhà. Khoảng hơn 18 giờ cùng
ngày, Công an xã M làm việc và yêu cầu ông B đi chữa trị thương tích. Khoảng
19 giờ 30 phút cùng ngày, ông B đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái B để nhập
viện điều trị thương tích từ ngày 12/7/2024 đến ngày 22/7/2024 được xuất viện.
Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với ông B là 09%.
* Bản kết luận giám định số 443/KLTTCT-TTP, ngày 16/8/2024 của
Trung tâm pháp y tỉnh Thái B. Phần kết luận ghi:
Các kết quả chính:
Vùng thái dương phải có sẹo nhỏ.
Chảy máu dưới nhện thái dương phải không còn trên chẩn đoán hình ảnh.
Kết luận:
- Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT của Bộ Y tế quy định tỷ lệ phần
trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm
thần, xác định: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối
với ông Đoàn Thanh B tại thời điểm giám định là 9% (chín phần trăm).
- Thương tích nghe kém hai tai chưa cho điểm tỷ lệ vì chưa xác định được
nguyên nhân.
- Đề nghị giám định bổ sung.
Ngày 25/9/2024, Cơ quan CSĐT Công an huyện Kiến Xương ra Quyết
định trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định bổ sung đối với
ông Đoàn Thanh B.
* Bản kết luận giám định bổ sung số 7409/KL-KTHS ngày 04/10/2024
của Viện khoa học hình sự Bộ Công an kết luận:
Các kết quả chính: Căn cứ kết quả nghiên cứu hồ sơ, khám giám định và
khám chuyên khoa, xác định ông Đoàn Thanhh B có nghe kém tiếp nhận mức
độ nhẹ cả hai tai là bệnh lý không phải do chấn thương gây nên.
Kết luận: Không xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể và cơ chế hình
thành thương tích đối với nghe kém tiếp nhận mức độ nhẹ cả hai tai của ông
Đoàn Thanh B vì không phải do chấn thương gây nên.
Về trách nhiệm dân sự: tại giai đoàn điều tra, truy tố ông B và bị cáo N thỏa
thuận bồi thường các khoản chi phí, chữa trị thương tích, tổn thất tinh thần và
các khoản chi phí khác với số tiền 100.000.000 đồng. Bị cáo N đồng ý bồi
thường số tiền trên cho bị hại nhưng chưa thực hiện việc bồi thường. Ngày
08/01/2025 và ngày 05/02/2025 bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 50.000.000
đồng bồi thường sức khỏe cho ông B tại Cơ quan thi hành án huyện Kiến
Xương. Tại phiên tòa, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 100.000.000đồng,
đã bồi thường 50.000.000đồng tại Cơ quan thi hành án do đó bị cáo tiếp tục bồi
4
thường số tiền 50.000.000đồng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết trách
nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Vật chứng của vụ án:
- 01 búa bằng sắt, nặng 3,5kg, kích thước (14,5 x 14,5 x 5,5)cm, phần cán
bằng tre, hình trụ tròn, dài 73cm, đường kính 3,5cm và 01 chiếc xẻng dài
110cm, lưỡi bằng sắt, kích thước (30 x18)cm, phần cán bằng tre, hình trụ tròn,
đường kính 4,5cm chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương quản
lý theo thẩm quyền.
Tại Bản Cáo trạng số 106/CT-VKSKX ngày 27/11/2024, Viện kiểm sát
nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B đã truy tố bị cáo Đoàn Văn N về tội
“Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình
sự.
Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như đã
truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn N phạm tội: “Cố ý gây thương tích”
- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38;
Điều 50 và Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đoàn Văn N mức án từ 09
tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 01 năm 06
tháng đến 02 năm.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều
584, 585 và 591 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số
tiền 72.778.566đồng, chấp nhận việc bị cáo đã tự nguyện bồi thường tổng số
tiền 50.000.000 đồng tại Chi cục thi hành án huyện Kiến Xương, bị cáo còn
phải bồi thường tiếp số tiền là 22.778.566 đồng.
Về xử lý vật chứng: Trả lại ông H 01 búa bằng sắt, nặng 3,5kg, kích
thước (14,5 x 14,5 x 5,5)cm, phần cán bằng tre, hình trụ tròn, dài 73cm,
đường kính 3,5cm
Trả lại ông B 01 chiếc xẻng dài 110cm, lưỡi bằng sắt, kích thước (30
x18)cm, phần cán bằng tre, hình trụ tròn, đường kính 4,5cm.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ
thẩm theo quy định pháp luật
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không
có tranh luận gì và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại không đồng ý với tội
danh cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 mà Viện
kiểm sát truy tố đối với bị cáo N mà cho rằng hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu của

5
tội giết người và căn cứ điểm c khoản 6 Điều 326, Điều 85, điểm đ khoản 1 Điều
280 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 5 Thông tư số 05/2017, đề nghị Hội đồng
xét xử trả hồ sơ để điều tra về tội giết người.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện
Kiến Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, Kiểm
sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên
tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi,
Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi
phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo
trạng, phù hợp với lời khai của người làm chứng (ông Phạm Quốc T, sinh năm
1964, trú tại thôn D, xã M, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B ông Lương Ngọc H,
sinh năm 1962, trú tại thôn D, xã M, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái B; anh Vũ
Thanh T, sinh năm 1982, trú tại thôn T, xã T, huyện Kđơn tố giác, lời khai của bị
hại là ông Đoàn Thanh B, sinh năm 1965, trú tại thôn D, xã M, huyện Kiến;
Biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường do cơ quan Cảnh sát điều tra
Công an huyện Kiến Xương lập hồi 08 giờ 00 phút ngày 24/9/2024; Hành vi
phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các chứng cứ sau đây: Bản kết
luận giám định số 443/KLTTCT-TTP, ngày 16/8/2024 của Trung tâm pháp y
tỉnh Thái B; Bản kết luận giám định bổ sung số 7409/KL-KTHS ngày
04/10/2024 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an; Lời khai của những người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cùng các tài liệu, chứng cứ khác có
trong hồ sơ vụ án.
[3] Từ những căn cứ nêu trên có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 17 giờ
ngày 12/7/2024, tại khu vực ngã ba thuộc thôn D, M, Kiến Xương, Thái B, do phát
sinh mâu thuẫn về việc tranh chấp đất đai giữa ông B với bị cáo N dẫn đến bị cáo N
dùng búa bằng sắt đánh 01 cái vào vùng mũ cối bên phải ông B đang đội trên đầu.
Hậu quả ông B bị thương tích vùng đầu phải điều trị tại bệnh viện, tỷ lệ tổn thương
cơ thể do thương tích gây nên là 09%.
Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Đoàn Văn N phạm tội "Cố ý
gây thương tích" theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

6
Điều 134: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác - Bộ luật Hình sự quy định:
"1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng
thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a, Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người;
….
[4] Xét tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội thấy: Hành vi bị cáo
N dùng búa gây thương tích cho ông B là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm
phạm đến sức khoẻ của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội đồng thời thể hiện
ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm minh, mới đủ
tác dụng cải tạo giáo dục đối với bị cáo và răn đe tội phạm nói chung.
[5] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị
cáo thì thấy:
Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, trong
quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo về
hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng,
bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại tổng số tiền 50.000.000đồng - đây là các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng quy định tại điểm b, i, s
khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự. Mặt khác bị cáo là người có nhân thân tốt chưa
có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, ngoài hành vi phạm tội lần này thì
bị cáo không có vi phạm pháp luật nào khác. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có
khả năng tự cải tạo và việc để bị cáo cải tạo ngoài xã hội không ảnh hưởng xấu đến
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần
hình phạt cho bị cáo, không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, cần áp dụng
Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo tự cải tạo ngoài xã hội, tạo điều kiện để bị cáo
cải tạo và sửa chữa sai lầm, sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội là phù
hợp với quy định của pháp luật, chính sách kH1 hồng của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay.
[6] Phần tranh luận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại
không đồng ý với tội danh cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 134 mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo N mà cho rằng hành vi của
bị cáo đủ dấu hiệu của tội giết người và đề nghị trả hồ sơ để điều tra về tội giết
người. Đại diện Việm kiểm sát cho rằng mặc dù bị cáo dùng búa đập 01 vào
vùng đầu bên phải của bị hại khi đó trên đầu bị hại đang đội mũ cối, sau đó bị
7
cáo không tiếp tục tấn công bị hại nữa, bị cáo không có ý định tước đoạt tính
mạng của bị hại do đó không có căn cứ truy tố bị cáo về tội giết người và không
có căn cứ trả hồ sơ điều tra bổ sung. Căn cứ kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử
thấy không có căn cứ xét xử bị cáo về tội giết người do đó không có căn cứ trả
hồ sơ điều tra bổ sung.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị hại và người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường các khoản chi phí
gồm: chi phí khám và chữa bệnh, bồi thường sức khỏe, phục hồi sức khỏe,
thu nhập thực tế bị mất của bị hại và người chăm sóc, bồi dưỡng tổn thất về
tinh thần của bị hại với tổng số tiền là 100.000.000đồng gồm tiền viện phí, tiền
thuốc, ngày công không lao động, bồi dưỡng và phục hổi sức khỏe, ngày công
chăm sóc. Ngày 08/01/2025 bị cáo tự nguyện nộp số tiền 30.000.000 đồng và
ngày 05/02/2025 nộp số tiền 20.000.000đồng bồi thường sức khỏe tại Cơ quan thi
hành án huyện Kiến Xương theo biên lai thu tiền số 0001340 ngày 08/01/2025 số
0001343 ngày 05/02/2025. Về các thiệt hại của người bị hại, HĐXX xét thấy, chỉ
chấp nhận các chi phí gồm:
- Chi phí khám bệnh, chữa bệnh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thái B từ ngày
12/7/2024 đến ngày 22/7/2024 và tiền thuốc, tổng là 11.778.566 đồng.
- Tiền bồi dưỡng sức khỏe: qua xác minh tại địa phương thì thu nhập trung
B của người lao động tự do là 300.000 đồng/ngày. Ông B điều trị tại Bệnh viện đa
khoa tỉnh Thái B từ 12/7/2024 đến 22/7/2024 do đó tiền bồi sưỡng sức khỏe là
300.000đồng/ngày x 10 ngày = 3.000.000.đồng.
- Tiền phục hồi sức khỏe và chức năng bị giảm sút: 300.000đồng/ngày x 10
ngày = 3.000.000 đồng.
- Thu nhập thực tế bị mất, giảm sút: 300.000đồng/ngày x 10 ngày =
3.000.000đồng
- Tiền bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần: căn cứ vào nội dung sự
việc, tỉ lệ tổn thương cơ thể (9%) cũng như mất mát về tinh thần mà ông B bị
thiệt hại thì Tòa án chỉ chấp nhận buộc bị cáo phải bồi thường khoản tiền bù đắp
tổn thất về tinh thần cho bị hại với mức bằng 15 lần mức lương cơ sở =
36.000.000 đồng.
- Tiền chi phí đối với người chăm sóc trong thời gian điều trị ở Bệnh viện
đa khoa tỉnh Thái B là 3.000.000đồng.
- Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc: Ông B điều trị tại Bệnh viện
đa khoa tỉnh Thái B từ 12/7/2024 đến 22/7/2024, tổng là 10 ngày có người chăm
sóc trong thời gian điều trị. Căn cứ vào bảng lương, xác nhận thu nhập của Công

8
ty cổ phần công nghệ C+, địa chỉ: số 1, ngõ 31, đường 18M, phường mộ lao, quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội, mức thu nhập của người chăm sóc là
40.000.000đồng/tháng. Vì vậy Tòa án chỉ chấp nhận bị cáo phải bồi thường cho
ông B thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc trong 10 ngày là 13.000.000
đồng.
Hội đồng xét xử căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, các Điều 584, 585 và 590
của Bộ luật dân sự, buộc bị cáo N phải bồi thường cho bị hại số tiền
72.778.566đồng đồng. Bị cáo N đã bồi thường số tiền 50.000.000 đồng, còn phải
bồi thường tiếp số tiền 22.778.566đồng
[8] Về xử lý vật chứng:
- 01 búa bằng sắt, nặng 3,5kg, kích thước (14,5 x 14,5 x 5,5)cm, phần
cán bằng tre, hình trụ tròn, dài 73cm, đường kính 3,5cm là tài sản của ông
Lương Ngọc H cho anh Sóng mượn để đập cột bê tông lấy sắt rồi để ở mặt
đường sau đó bị cáo N sử dụng chiếc búa trên đánh gây thương tích cho ông
B, ông H đề nghị trả lại chiếc búa trên cho gia đình ông vì vậy trả lại cho ông
H chiếc búa trên cho ông H theo quy định tại khoản 3 Điều 48 Bộ luật Hình
sự và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- 01 chiếc xẻng dài 110cm, lưỡi bằng sắt, kích thước (30 x18)cm, phần
cán bằng tre, hình trụ tròn, đường kính 4,5cm là tài sản của ông H1, ông H1
cho ông B mượn, sau đó ông B đã trả tiền giá trị chiếc xẻng cho ông H1, ông
B đề nghị trả lại chiếc xẻng trên vì vậy trả lại chiếc xẻng trên cho ông B theo
quy định tại khoản 3 Điều 48 Bộ luật Hình sự và khoản 3 Điều 106 Bộ luật
Tố tụng hình sự.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ
thẩm theo quy định tại các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38,
Điều 48, Điều 50 và Điều 65 Bộ luật Hình sự, Điều 584; Điều 585; Điều 590 Bộ
luật Dân sự, Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều
23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án:
Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn N phạm tội " Cố ý gây thương tích”.
Xử phạt bị cáo Đoàn Văn N 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời
gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 07/02/2025.
9
Giao bị cáo Đoàn Văn N cho Uỷ ban nhân dân xã M, huyện Kiến Xương,
tỉnh Thái B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được
hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật
thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa
vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo
phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về trách nhiệm dân sự:
Buộc bị cáo Đoàn Văn N phải bồi thường cho ông Đoàn Thanh B số tiền
72.778.566 đồng. Chấp nhận việc bị cáo N đã tự nguyện nộp tổng số tiền
50.000.000đồng theo biên lai thu tiền số số 0001340 ngày 08/01/2025 và số
0001343 ngày 05/02/2025 tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, bị
cáo Đoàn Văn N còn phải tiếp tục bồi thường sức khỏe cho ông Đoàn Thanh B số
tiền 22.778.566 (Hai mươi hai triệu bảy trăm bảy mươi tám nghìn năm trăm sáu
mươi sáu) đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong tất
cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi
của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành
án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm
2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014.”
4. Về xử lý vật chứng:
4.1. Trả lại ông Lương Ngọc H 01 búa bằng sắt, nặng 3,5kg, kích thước
(14,5 x14 x 5,5)cm, phần cán bằng tre, hình trụ tròn, dài 73cm, đường kính 3,5cm
(búa đã qua sử dụng)
4.2. Trả lại ông Đoàn Thanh B 01 chiếc xẻng dài 110cm, lưỡi bằng sắt kích
thước ( 30 x18)cm, phần cán bằng tre hình trụ tròn, đường kính 4,5cm (xẻng đã qua
sử dụng).
( theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/11/2024 của Chi cục thi hành
án dân sự huyện Kiến Xương
5. Bị cáo Đoàn Văn N phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí
hình sự sơ thẩm và 1.138.928 (Một triệu một trăm ba mươi tám nghìn chín
trăm hai mươi tám) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
6. Bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có
quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

10
Nơi nhận:
- VKSND huyện KX;
- VKSND tỉnh Thái B;
- Công an huyện KX;
- Chi cục THADS huyện KX;
- Bị cáo;
- Bị hại;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan dến vụ án;
- Lưu hồ sơ, Vp.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Lê Thị Thanh Xuân
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
11
Các Hội thẩm nhân dân
Thẩm phán- Chủ toạ phiên toà
Lê Thị Thanh Xuân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Bản án số 103/2025/DS-PT ngày 25/03/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm