Bản án số 09/2025/DS-ST ngày 25/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2025/DS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 09/2025/DS-ST ngày 25/09/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 3 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 3 - Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình |
| Số hiệu: | 09/2025/DS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 25/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | bản án 09 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
KHU VỰC 3 - NINH BÌNH
Bản án số: 09/2025/DS-ST
Ngày: 25-9-2025
V/v: Tranh chấp Hợp đồng tín dụng
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 3 - NINH BÌNH
Thành phần Hội đồng xứt xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Hương Quỳnh
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Lương Mạnh Tường
2. Ông Bùi Khắc Thái.
- Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Văn Bình – Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân Khu vực 3 - Ninh Bình.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 3 - Ninh Bình tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thu Hòa - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 9 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Khu vực 3- Ninh
Bình mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án Dân sự sơ thẩm thụ lý số
26/2024/TLST-DS ngày 01 tháng 7 năm 2024 về việc: “Tranh chấp Hợp đồng tín
dụng”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2025/QĐXXST - DS ngày 09
tháng 9 năm 2025; Thông báo về thay đổi thời gian xét xử số 02/2025/TB- TA
ngày 19 tháng 9 năm 2025; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty Cổ phần M; Địa chỉ: Tầng A, tòa nhà V, số I D,
Phường C, TP .. Do ông Bùi Công T – Giám đốc là đại diện theo pháp luật. Người
đại diện theo ủy quyền là ông Cao Duy T1 – Trưởng phòng xử lý nợ miền B (Theo
văn bản ủy quyền số 02/2024/UQ-GĐ ngày 19/4/2024). Địa chỉ: Tầng A, tòa nhà
V, số I D, Phường C, TP .. Người được đại diện theo ủy quyền lại: Bà Vũ Thị Thu
H, ông Phạm Tất T2 – chuyên viên xử lý nợ.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1981; Chị Nguyễn Thị H2, sinh
năm 1985; Địa chỉ: Thôn G, xã P, tỉnh Ninh Bình.
(Bà H2 ủy quyền cho ông H1 theo văn bản ủy quyền ngày 07/8/2024).
- Ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Bùi Thị T3 sinh năm 1956; anh
Nguyễn Văn C, sinh năm 1987, chị Nguyễn Thị H3, sinh năm 1988; chị Nguyễn
Thị T4, sinh năm 1991; Cùng địa chỉ: Thôn G, xã P, tỉnh Ninh Bình.
Tại phiên tòa: Có mặt nguyên đơn, bị đơn, bà T3, chị T4. Anh C, chị H3 vắng mặt
có đơn xin vắng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn trình bày:
Ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2 vay của Ngân hàng TMCP V1
(sau đây gọi tắt là V2) tổng số tiền là: 1,733,000,000 đồng (Bằng chữ: Một tỷ, bẩy
trăm ba mươi ba triệu đồng chẵn) theo các Hợp đồng tín dụng cụ thể như sau: Hợp
đồng cho vay hạn mức số LN2111014616906 ký ngày 17/11/2021 và các khế ước
nhận nợ kèm theo, Hợp đồng cho vay số LN2205245834594 ngày 06/6/2022, Giấy
đăng ký kiêm hợp đồng cho vay không tài sản bảo đảm mở và sử dụng tài khoản
thanh toán và dịch vụ ngân hàng điện tử ngày 07/6/2022. Cụ thể:
* Hợp đồng cho vay hạn mức số LN2111014616906 ký ngày 17/11/2021
và các khế ƣớc nhận nợ kèm theo:
- Khế ƣớc nhận nợ ngày 23/11/2022: Hạn mức vay: 940,000,000 đồng
(Bằng chữ: Chín trăm bốn mươi triệu đồng); Số tiền nhận nợ: 606,000,000 đồng
(Bằng chữ: Sáu trăm linh sáu triệu đồng); Thời hạn vay: 12 tháng; Mục đích sử
dụng vốn: bổ sung vốn kinh doanh phụ kiện điện thoại. Lãi suất cho vay: 12%/năm
(lãi suất được tính theo năm với một năm là 365 ngày). Lãi suất cho vay trong hạn
được cố định 03 tháng kể từ ngày giải ngân, (“Thời gian cố định”). Hết thời gian
cố định, lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh. Ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là
ngày đầu tiên sau thời gian cố định, sau đó lãi suất cho vay trong hạn được điều
chỉnh định kỳ 01 tháng/01 lần tính từ ngày điều chỉnh lãi xuất lần đầu tiên với biên
độ 3%/năm. Lãi suất quá hạn: bằng 150% mức lãi suất trong hạn, kể từ thời điểm
phát sinh nợ quá hạn. Lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng
150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa
không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Quá trình thực hiện Hợp đồng: Ông H1 và bà H2 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ
đối với V2 kể từ ngày 15/08/2023 và phải chịu mức lãi suất nợ quá hạn theo thỏa
thuận trong Hợp đồng tín dụng. Tạm tính đến ngày 08/9/2025, ông H1 và bà H2 đã
trả cho V2 số tiền là 37.935.245 đồng (trong đó: trả nợ gốc là 0 đồng; trả nợ lãi là
37.935.245 đồng).
- Khế ƣớc nhận nợ ngày 21/02/2023: Hạn mức vay: 940,000,000 đồng
(Bằng chữ: Chín trăm bốn mươi triệu đồng); Số tiền nhận nợ: 334,000,000 đồng
(Bằng chữ: Ba trăm ba mươi bốn đồng); Thời hạn vay: 12 tháng; Mục đích sử dụng
vốn: bổ sung vốn kinh doanh phụ kiện điện thoại. Lãi suất cho vay: 12.5%/năm (lãi
suất được tính theo năm với một năm là 365 ngày). Lãi suất cho vay trong hạn
được cố định 03 tháng kể từ ngày giải ngân, (“Thời gian cố định”). Hết Thời gian
cố định, lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh. Ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là
ngày đầu tiên sau thời gian cố định, sau đó lãi suất cho vay trong hạn được điều
chỉnh định kỳ 01 tháng/01 lần tính từ ngày điều chỉnh lãi xuất lần đầu tiên với biên
độ 3%/năm. Lãi suất quá hạn: bằng 150% mức lãi suất trong hạn, kể từ thời điểm
phát sinh nợ quá hạn. Lãi suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng
150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa
không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Quá trình thực hiện Hợp đồng: Ông H1 và bà H2 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ
đối với V2 kể từ ngày 05/08/2023 và phải chịu mức lãi suất nợ quá hạn theo thỏa
thuận trong Hợp đồng tín dụng. Tạm tính đến ngày 08/09/2025, ông H1 và bà H2
đã trả cho V2 số tiền là 12.637.998 đồng (trong đó: trả nợ gốc là 0 đồng; trả nợ lãi
là 12.637.998 đồng).
* Hợp đồng cho vay số LN22205245834594 ngày 06/06/2022: Số tiền
vay: 700,000,000 đồng (Bằng chữ: Bẩy trăm triệu đồng); Thời hạn vay: 240 tháng.
Mục đích sử dụng vốn: thanh toán tiền vay mua BĐS là thửa đất số 3; tờ bản đồ số
15; địa chỉ; thôn G, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Bình. Lãi suất cho vay: 10.9%/năm
(lãi suất được tính theo năm với một năm là 365 ngày). Lãi suất cho vay trong hạn
được cố định 12 tháng kể từ ngày giải ngân, (“Thời gian cố định”). Hết Thời gian
cố định, lãi suất cho vay sẽ được điều chỉnh. Ngày điều chỉnh lãi suất đầu tiên là
ngày đầu tiên sau thời gian cố định, sau đó lãi suất cho vay trong hạn được điều
chỉnh định kỳ 03 tháng/01 lần vào các ngày đầu quý tiếp theo (Ngày đầu quý là các
ngày 01/01; 01/04; 01/07 và 01/10 hàng năm) với biên độ 3%/năm. Lãi suất quá
hạn: bằng 150% mức lãi suất trong hạn, kể từ thời điểm phát sinh nợ quá hạn. Lãi
suất chậm trả áp dụng đối với tiền lãi chậm trả bằng 150% lãi suất cho vay trong
hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối đa không quá 10%/năm tính trên
số dư lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.
Quá trình thực hiện Hợp đồng: Ông H1 và bà H2 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ
đối với V2 kể từ ngày 15/08/2023 và phải chịu mức lãi suất nợ quá hạn theo thỏa
thuận trong Hợp đồng tín dụng. Tạm tính đến ngày 08/9/2025, ông H1 và bà H2 đã
trả cho V2 số tiền là 71.717.302 đồng (trong đó: trả nợ gốc là 0 đồng; trả nợ lãi là
71.717.302 đồng).
* Giấy đăng ký kiêm hợp đồng cho vay không TSBD mở và sử dụng tài
khoản thanh toán và dịch vụ ngân hàng điện tử ngày 07/6/2022: Số tiền vay:
93,000,000 đồng (Bằng chữ: Chín mươi ba triệu đồng).Mục đích vay: vay tiêu
dùng. Thời hạn vay: 24 tháng. Lãi suất: 22%/năm. Lãi suất quá hạn: bằng 150%
mức lãi suất trong hạn, kể từ thời điểm phát sinh nợ quá hạn.Lãi suất chậm trả:
bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn áp dụng tại thời điểm chậm trả lãi nhưng tối
đa không quá 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả, tương ứng với thời gian chậm
trả.
Quá trình thực hiện Hợp đồng: Ông H1 và bà H2 đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ
đối với V2 kể từ ngày 15/08/2023 và phải chịu mức lãi suất nợ quá hạn theo thỏa
thuận trong Hợp đồng tín dụng. Tạm tính đến ngày 8/9/2025, ông H1 và bà H2 đã
trả cho V2 số tiền là 44.145.481 đồng (trong đó: trả nợ gốc là 25.425.328 đồng; trả
nợ lãi là 18.720.153 đồng)
Để đảm bảo cho các khoản vay trên ông H1, bà H2 đã ký các hợp đồng
thế chấp tài sản. Cụ thể:
Hợp đồng thế chấp số 3376500 ngày 08/02/2021 được ký giữa V2 và ông
Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2: Tài sản thế chấp là toàn bộ quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số: 392 tờ bản đồ
số 02 bản đồ địa chính xã P; Địa chỉ thửa đất: thôn G, xã P, tỉnh Ninh Bình; được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 515752, số vào sổ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số: CH 00081 do UBND huyện N, tỉnh Ninh Bình cấp
ngày 01/04/2011 mang tên ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2.( Chi tiết
theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 503 quyển số: 01/TP/CC-SCC/HĐGD ngày
08/02/2021 tại Văn phòng C1).
Hợp đồng thế chấp số 5834594 ngày 02/6/2022 được ký giữa V2 và ông
Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2: Tài sản thế chấp là toàn bộ quyền sử dụng đất
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất tại thửa đất số 23, tờ bản đồ số
15, bản đồ địa chính xã P; Địa chỉ thửa đất: thôn G, xã P, , tỉnh Ninh Bình; được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DĐ 333448, số vào sổ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số: CS 00076/CN/PS do Sở tài nguyên môi trường tỉnh N
cấp ngày 31/03/2022 mang tên ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2. (Chi
tiết theo Hợp đồng thế chấp số công chứng 626 quyển số: 01/2022/TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 02/06/2022 tại Văn phòng C1).
Quá trình thực hiện các Hợp đồng: Ông H1 và bà H2 đã vi phạm nghĩa vụ
trả nợ đối với V2 kể từ ngày 15/08/2023 và phải chịu mức lãi suất nợ quá hạn theo
thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng. Tạm tính đến ngày 8/9/2025, ông H1 và bà
H2 mới trả cho V2 số tiền là 166.436.026 đồng (trong đó: trả nợ gốc là
25.425.328 đồng; trả nợ lãi là 141.010.698 đồng).
Ngày 30/12/2023, Ngân hàng TMCP V1 đã ký hợp đồng mua bán nợ số
03/2023/VPB-MARS với Công ty TNHH một thành viên M(nay là Công ty Cổ
phần M, gọi tắt là Công ty M) kèm theo là Phụ lục hợp đồng 01 ký hiệu 87/HĐ03.
Theo hợp đồng V3 đã bán toàn bộ khoản nợ của vợ chồng ông H1 và bà H2 cho
công ty M phát sinh theo hợp đồng cho vay hạn mức LN2111014616906 ký ngày
17/11/2021 và các khế ước nhận nợ kèm theo, hợp đồng cho vay số
LN220525834594 ngày 06/6/2022, Giấy đăng ký kiêm hợp đồng cho vay không tài
sản bảo đảm và sử dụng tài khoản thanh toán và dịch vụ điện tử ngày 07/6/2022.
Đồng thời V2 chuyển giao quyền chủ nợ và Công ty M kế thừa đầy đủ quyền và
nghĩa vụ của V2 đối với các khoản nợ đã mua và quyền đối với tài sản đảm bảo
liên quan đến khoản nợ của ông H1 và bà H2.
Vì các lẽ trên, Công ty Cổ phần M đề nghị Tòa án giải quyết các nội dung
sau: Buộc ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2 phải thanh toán cho Công ty
Cổ phần M tổng số tiền tạm tính đến ngày 25/9/2025 là: 2.490.809.023 đồng, trong
đó nợ gốc là 1.707.574.672 đồng, nợ lãi là 771.597.483 đồng, nợ lãi chậm trả là
11.636.868 đồng.
Đề nghị Tòa án tiếp tục cho tính lãi theo đúng thỏa thuận trong các Hợp đồng tín
dụng, khế ước nhận nợ và văn bản tín dụng của khoản vay cho đến ngày ông
Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2 thực tế thanh toán hết nợ cho Công ty Cổ
phần M.
Kể từ ngày Bản án/Quyết định có hiệu lực pháp luật mà ông Nguyễn Văn H1 và bà
Nguyễn Thị H2 không trả nợ đầy đủ cho Công Ty Cổ phần M thì Công Ty Cổ
phần M có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản bảo đảm
để thu hồi khoản nợ cho Công Ty Cổ phần M, cụ thể các tài sản như hợp đồng thế
chấp đã nêu ở trên.
Trong trường hợp tài sản bảo đảm sau khi kê biên, phát mại không đủ trả nợ, Công
ty Cổ phần M có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án xác minh, kê biên, phát mại
các tài sản khác của ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2 để thực hiện nghĩa
vụ trả nợ cho Công ty Cổ phần M cho đến khi thực tế trả hết (các) khoản nợ.
Ý kiến của bị đơn: ông H1 thừa nhận có vay của Ngân hàng TMCP V1 –
Thịnh Vượng số tiền gốc là 1.707.574.672 đồng và lãi như ngân hàng đã tính, thừa
nhận có ký Hợp đồng tín dụng và các hợp đồng thế chấp như ngân hàng đã trình
bày. Ông H1 xin phương án thanh toán dần để thu xếp nghĩa vụ với ngân hàng.
Về tài sản thế chấp: Mặc dù hai thửa đất đều đứng tên vợ chồng ông, tuy
nhiên tại thửa đất số 23, tờ bản đồ 15 là nhà của vợ chồng ông. Còn thửa đất số 392
tờ bản đồ số 2 nay là thửa số 4 tờ bản đồ 15 mặc dù tên vợ chồng ông nhưng thực
tế ông đã bán cho chị Nguyễn Thị T4, em gái ông. Hai bên thỏa thuận miệng chưa
làm thủ tục giấy tờ sang tên. Vì vậy chị T4 đã làm nhà ở trên đó. Hiện nay căn nhà
chị T4 và con chị T4 đang sinh sống trên thửa đất là của chị T4. Hiện trạng chị T4
có làm nhà lấn sang phần đất của anh C và bà T3 vì trước đó bà T3 và anh C có
thỏa thuận cho anh đất chiều ngang để anh nhập vào thửa số 392. Phần đất này ông
cũng đã bán luôn cho chị T4 vì vậy chị T4 mới làm nhà và các công trình khác trên
đó.
Ý kiến ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Chị Nguyễn Thị T4: Chị xác nhận thửa đất mà chị đã làm nhà và đang sinh
sống có nguồn gốc của anh H1, chị và anh H1 đã thỏa thuận đổi đất cho nhau tuy
nhiên chưa làm thủ tục sang tên cho chị, vì vậy chị mới làm nhà trên đó. Kể cả
phần đất 6m ngang mà chị làm lấn sang phần đất của nhà bà T3 và anh C cũng do
anh H1 được và bà T3 và anh C cho, nên anh H1 đã bán cho chị thêm phần đó để
chị nhập vào thửa đất chị đang ở. Do đó hiện trạng căn nhà của chị mới làm lấn
sang phần đất của bà T3 mẹ chị và anh C. Phần đất mà chị làm nhà sang phần của
anh C 6m ngang và sang của bà T3 gần 6m ngang chiều sâu hết đất giáp đất nhà
ông D bà V, chị đã thanh toán đầy đủ số tiền mua thêm đất này cho anh H1. Nay
chị đồng ý nếu anh H1 không thanh toán được nợ cho công ty M thì phát mại tài
sản của chị bao gồm: Quyền sử dụng đất tại thửa số 392 tờ bản đồ 02 nay thửa số 4
tờ 15, và phần đất mà chị đã mua thêm của anh H1 (phần đất mà anh H1 được bà
T3 và anh C cho thêm nhưng cho chưa nhập vào thửa số 04), 01 căn nhà mái bằng
xây năm 2020, riêng đối với phần đất mà chị mua thêm của anh H1 có chiều ngang
6m, hiện trạng pháp lý vẫn đứng tên anh C và bà T3 thì chị đề nghị Công ty M
phối hợp bán cùng thửa đất để chị lấy khoản tiền đó.
Ý kiến bà Bùi Thị T3: Bà xác định lời khai của anh H1 và chị T4 là đúng,
trước đó bà đã đồng ý cắt cho anh H1 thêm 6m chiều ngang để anh H1 nhập vào
thửa đất của anh H1 là thửa hiện nay chị T4 đang ở. Nếu anh H1 không thanh toán
được nợ cho Công ty M thì quyền quyết định của anh H1 và chị T4 vì bà đã cho
anh H1 phần đất đó, anh H1 bán cho chị T4 như nào bà không biết.
Ý kiến của anh Nguyễn Văn C, chị Nguyễn Thị H3: Nhà anh chị có thửa đất
số 05 tờ bản đồ 15 bản đồ địa chính xã P, thửa đất nhà anh chị nằm giữa thửa đất
nhà anh H1 và chị T4 hiện đang ở. Năm 2018 anh chị em nhà anh có thỏa thuận
anh đồng ý cắt cho anh H1 6m chiều ngang đất để anh H1 nhập vào thửa số 392
mà hiện nay chị T4 đang ở. Anh chị đã thỏa thuận cho anh H1 vì vậy sau này có
phát mại hay chị T4 có bán 6m này thì anh chị không có ý kiến gì.
Theo yêu cầu của đương sự và xét thấy cần thiết Toà án nhân dân huyện
Nho Quan (nay là Tòa án Khu vực 3- Ninh Bình) đã tiến hành xem xét thẩm định
tại chỗ đối với các tài sản thế chấp được ngân hàng thẩm định khi cho vay.
Kết quả xem xét thẩm định như sau:
1. Đối với thửa đất số 392 tờ bản đồ số 02 bản đồ địa chính xã P nay là thửa
số 04 tờ bản đồ 15, bản đồ địa chính xã P; Địa chỉ thửa đất: thôn G, xã P, tỉnh Ninh
Bình; được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 515752, số vào sổ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CH 00081 do UBND huyện N, tỉnh Ninh
Bình cấp ngày 01/04/2011 mang tên ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2.
Tổng diện tích theo giấy chứng nhận được cấp là 372m
2
trong đó đất ở là 100m
2
,
đất vườn là 272m
2
. Năm 2020 đã được chỉnh lý diện tích tăng lên là 379.4m
2
(tăng
ở diện tích đất vườn). Diện tích đo đạc thực tế là 967.3m
2
. Hình thể cụ thể như sơ
họa kèm theo. Xác định diện tích tăng là lấn sang thửa đất số 05 của anh C và thửa
số 03 của bà T3.
Trên thửa đất có các công trình nhà cửa của chị T4 xây dựng, cụ thể:
01 căn nhà mái bằng hai tầng xây năm 2019, móng cốt thép bê tông, hai tầng xây
gạch đỏ đổ cột bê tông, nền lát gạch men liên doanh, công trình vệ sinh khép kín.
2. Đối với thửa đất số 23, tờ bản đồ số 15, bản đồ địa chính xã P; Địa chỉ thửa
đất: thôn G, xã P, , tỉnh Ninh Bình; được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số DĐ 333448, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS
00076/CN/PS do Sở tài nguyên môi trường tỉnh N cấp ngày 31/03/2022 mang tên
ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2. Tổng diện tích theo giấy chứng nhận
được cấp là 431.1m
2
, trong đó 80m
2
đất ở và 351.1m
2
đất vườn. Diện tích đo đạc
thực tế là 436.3m
2
. Hình thể cụ thể như sơ họa kèm theo. Xác định diện tích tăng là
lấn sang thửa đất số 03 của bà T3.
Trên thửa đất có các công trình nhà cửa của vợ chồng ông H1, cụ thế: 01 nhà
mái bằng 1 tầng diện tích 94.7m
2
, móng bê tông cốt thép, tường xây bằng gạch đỏ,
cửa thép giả gỗ, phía trên mái tôn giả ngói. Công trình vệ sinh khép kín, phía trước
là sân cổng, phía sau có 01 bếp đun củi.
Do quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không
đến Tòa án tham gia phiên hòa giải, vì vậy vụ án được đưa ra xét xử theo thủ tục
chung.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xuất trình thêm chứng
cứ là xác nhận dư nợ gốc và lãi của ông H1 và bà H2 tính đến ngày 25/9/2025. Đại
diện theo ủy quyền của nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm khởi kiện và đề
nghị Tòa án giải quyết buộc ông H1 và bà H2 phải có nghĩa vụ thanh toán cho
công ty cổ phần M số tiền gốc và lãi như đã trình bày ở trên.
Ông Nguyễn Văn H1 không có ý kiến gì về hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế
chấp, phần tính gốc và lãi như nguyên đơn đã trình bày. Ông H1 đề nghị ngân hàng
xem xét giảm bớt tiền lãi, hỗ trợ cho ông án phí.
Bà T3, chị T4 không có ý kiến gì, chị T4 vẫn đề nghị nhờ Công ty M phối
hợp trong trường hợp phát mại tài sản là thửa đất chị đang ở thì bán kèm cả 6m đất
chiều ngang, sâu hết đất cho chị.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nho Quan phát biểu
ý kiến:
Căn cứ Điều 5, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Các Điều 117, 119, 292, 298, 299, 318, 319, 320, 321, 322, 323, 385, 386,
398, 401 Bộ luật dân sự năm 2015;
Khoản 16 Điều 4, Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa
đổi bổ sung năm 2017; Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11 tháng 01
năm 2019 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao về Hướng dân áp dụng một số
quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm; Điều 26 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Đề nghị:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về tranh chấp hợp đồng tín dụng của
Ngân hàng TMCP V1 với ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2.
2. Buộc ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2 phải thanh toán cho Công ty cổ
phần M tổng số tiền tạm tính đến ngày 25/9/2025 là 2.490.809.023 đồng (trong đó,
nợ gốc là 1.707.574.672 đồng; nợ lãi là 771.597.483 đồng; nợ lãi chậm trả là
11.636.868 đồng), cụ thể:
+ Dư nợ theo Hợp đồng cho vay hạn mức số LN2111014616906 ký ngày
17/11/2021 số tiền vay 940.000.000 đồng: nợ gốc là 940.000.000 đồng; nợ lãi là
406.906.229 đồng; nợ lãi chậm trả là 6.437.959 đồng.
+ Dư nợ theo Hợp đồng cho vay số LN2205245834594 ngày 06/06/2022 số
tiền cho vay 700.000.000 đồng: nợ gốc là 700.000.000 đồng, nợ lãi là 319.593.246
đồng; nợ lãi chậm trả là 4.774.133 đồng.
+ Dư nợ theo Giấy đăng ký kiêm hợp đồng cho vay không TSBĐ mở và sử
dụng tài khoản thanh toán và dịch vụ ngân hàng điện tử ngày 05/04/2023, số tiền
vay 93.000.000 đồng: nợ gốc là 67.574.672 đồng; nợ lãi là 45.098.008 đồng; nợ lãi
chậm trả là 424.776 đồng.
Kể từ ngày 26/9/2025, ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2 còn phải tiếp tục
chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho
đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Nếu ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2 không thực hiện nghĩa vụ thanh toán
khoản nợ nêu trên thì Công ty cổ phần M có quyền đề nghị cơ quan Thi hành án
phát mại tài sản bảo đảm để thu nợ.
3.Về chi phí tố tụng: Nguyên đơn tự chịu chi phí thẩm định nên không xem
xét giải quyết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên
ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2 phải chịu tiền án phí dân sự theo quy
định. Trả lại cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật cho vay
giữa một bên chủ thể là tổ chức tín dụng và một bên chủ thế là cá nhân không có
đăng ký kinh doanh, vì vậy xác định đây là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo
quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2].Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có nơi cư trú tại xã P,
huyện N, tỉnh Ninh Bình nay là xã P, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện
Nho Quan, tỉnh Ninh Bình (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 3-Ninh Bình) thụ lý
vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa HĐXX nhận thấy:
[2.1].Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
Xét các hợp đồng cho vay hạn mức số LN2111014616906 ký ngày
17/11/2021 và các khế ước nhận nợ kèm theo, hợp đồng cho vay số
LN22205245834594 ngày 06/06/2022, Giấy đăng ký kiêm hợp đồng cho vay
không TSBD mở và sử dụng tài khoản thanh toán và dịch vụ ngân hàng điện tử
ngày 07/6/2022, được ký kết giữa V3 và ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2:
Các hợp đồng này đã được hai bên thống nhất thoả thuận, ký kết bởi những người
có đủ thẩm quyền, năng lực dân sự, trên tinh thần tự nguyện, hình thức, nội dung
hợp đồng không vi phạm các điều cấm, không trái đạo đức xã hội và tuân thủ quy
định của pháp luật. Do vậy hợp đồng cho vay trên được coi là hợp pháp, là căn cứ
pháp lý để các bên thực hiện, căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Quá trình thực hiện hợp đồng: V2 đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giải ngân
cho ông H1 và bà H2 được thể hiện bằng các khế ước nhận nợ và các lệnh chuyển
khoản tiền vay có chữ ký và chữ viết họ tên của ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn
Thị H2. Tuy nhiên khi ông H1 và bà H2 đã nhận đủ số tiền vay nhưng không thực
hiện đúng nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết. Do bị đơn vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên
nguyên đơn đã khởi kiện ra Tòa án theo các thỏa thuận đã được ký kết tại hợp đồng
tín dụng là có căn cứ.
Đối với các khoản nợ gốc, nợ lãi được nguyên đơn tính dựa trên cơ sở số
tiền mà V2 đã giải ngân, mức lãi suất theo thỏa thuận trong hợp đồng và trong
phạm vi pháp luật quy định, vì vậy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ
theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 nên Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận.
Đối với 02 hợp đồng thế chấp tài sản được ký kết giữa ông Nguyễn Văn H1,
bà Nguyễn Thị H2 với V2: Hội đồng xét xử thấy đây là thỏa thuận tự nguyện thể
hiện ý chí của các bên đã được chứng thực tại Văn phòng C1, trong quá trình giải
quyết vụ án các đương sự không có ý kiến, Tòa án nhân dân Khu vực 3- Ninh Bình
đã phối hợp cùng chính quyền địa phương đã xem xét thẩm định tại chỗ đối với các
tài sản thế chấp. Đây là những tình tiết sự kiện làm căn cứ giải quyết vụ án theo
quy định tại Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với ý kiến của các đương sự cho rằng: Thửa đất thế chấp số 392 tờ bản
đồ số 02 bản đồ địa chính xã P nay là thửa số 04 tờ bản đồ 15, bản đồ địa chính xã
P; Địa chỉ thửa đất: thôn G, xã P, tỉnh Ninh Bình. Trên thực tế hiện nay có 01 căn
nhà mái bằng hai tầng là của chị Nguyễn Thị T4 (em gái anh H1), hiện nay chị T4
đang sinh sống trên đó. Theo lời khai của anh H1 và chị T4 lý do chị T4 sinh sống
trên đó là do chị T4 và anh H1 đã đổi đất cho nhau nhưng chưa làm các thủ tục
pháp lý để sang tên cho chị T4. Chị T4 cũng nhất trí nếu anh H1 không thanh toán
được các khoản nợ cho Công ty M thì Công ty M được phát mại cả tài sản của chị.
Xét việc mua bán trao đổi của anh H1 và chỉ T4 chỉ là thỏa thuận miệng, trên giấy
tờ pháp lý vẫn là quyền sử dụng mang tên anh H1, vì khi ký hợp đồng thế chấp thì
thửa đất vẫn thuộc quyền sử dụng của anh H1, chị T4 cũng không có ý kiến phản
đối, vì vậy hợp đồng thế chấp vẫn có hiệu lực, nếu phải phát mại thửa đất để thu
hồi nợ cho công ty M thì sẽ ưu tiên quyền cho chị T4 trong phát mại theo quy định
của quá trình phát mại và thỏa thuận thi hành án dân sự.
Đối với hiện trạng thửa đất hiện nay đo đạc thực tế đang lớn hơn nhiều so
với quyền sử dụng được cấp trong giấy chứng nhận, các đương sự đều thừa nhận lý
do diện tích của thửa đất tăng là do trước đây bà T3, anh C đồng ý cắt cho anh H1
6m chiều ngang sâu hết đất để anh H1 nhập vào thửa đất số 392 tờ bản đồ số 02
bản đồ địa chính xã P nay là thửa số 04 tờ bản đồ 15, bản đồ địa chính xã P, tuy
nhiên chưa làm thủ tục tách nhập thửa. Diện tích này anh H1 cũng đã bán cho chị
T4. Vì vậy mới có hiện trạng như biên bản thẩm định. Về diện tích tăng thêm này
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và chị T4, anh H1 đều thỏa thuận sau này
sang giai đoạn thi hành án sẽ phối hợp để bán cả phần đất này giúp chị T4 cùng với
phần đất đã thế chấp. Xét đây là sự thỏa thuận tự nguyện của các đương sự, tuy
nhiên nằm ngoài phạm vi khởi kiện, hội đồng xét xử chỉ xem xét nếu phải phát mại
thửa đất thì tính diện tích phát mại đúng như trong Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và theo thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp.
[2.2].Về chi phí thẩm định: Trong quá trình Tòa án tiến hành xem xét thẩm
định các tài sản thế chấp, Công ty M đã tự đứng lên chi trả và không yêu cầu bị
đơn phải chịu cùng nên không đặt ra vấn đề xem xét giải quyết.
[2.3]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2 phải chịu
án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật tính trên cơ sở số tiền phải trả cho công
ty cổ phần M tính đến ngày 25/9/2025.
- Công ty cổ phần M không phải chịu án phí nên được nhận lại toàn bộ số
tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 145 và Điều
147; Điều 158; Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố
tụng dân sự; Các Điều 117, 119, 292, 298,318, 319, 320, 321, 322, 323, 385, 386,
398,463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015; Khoản 16 Điều 4, khoản 2 Điều 91,
khoản 2 Điều 95, Điều 98 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi bổ sung
năm 2017; Các Điều 167, 168 Luật Đất đai năm 2013; Khoản 2 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội
về án phí, lệ phí Tòa án .
Căn cứ Điều 26 Luật thi hành án dân sự.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần M.
Buộc ông Nguyễn Văn H1, bà Nguyễn Thị H2 phải thanh toán cho Công ty cổ
phần M tổng số tiền tạm tính đến ngày 25/9/2025 là 2.490.809.023 đồng (trong đó,
nợ gốc là 1.707.574.672 đồng; nợ lãi là 771.597.483 đồng; nợ lãi chậm trả là
11.636.868 đồng), cụ thể:
+ Dư nợ theo Hợp đồng cho vay hạn mức số LN2111014616906 ký ngày
17/11/2021 số tiền vay 940.000.000 đồng: nợ gốc là 940.000.000 đồng; nợ lãi là
406.906.229 đồng; nợ lãi chậm trả là 6.437.959 đồng.
+ Dư nợ theo Hợp đồng cho vay số LN2205245834594 ngày 06/06/2022 số
tiền cho vay 700.000.000 đồng: nợ gốc là 700.000.000 đồng, nợ lãi là 319.593.246
đồng; nợ lãi chậm trả là 4.774.133 đồng.
+ Dư nợ theo Giấy đăng ký kiêm hợp đồng cho vay không TSBĐ mở và sử
dụng tài khoản thanh toán và dịch vụ ngân hàng điện tử ngày 05/04/2023, số tiền
vay 93.000.000 đồng: nợ gốc là 67.574.672 đồng; nợ lãi là 45.098.008 đồng; nợ lãi
chậm trả là 424.776 đồng.
Ông H1 và bà H2 tiếp tục phải chịu khoản lãi tính từ sau ngày 25/9/2025
trên số nợ gốc theo mức lãi như thỏa thuận trong các Hợp đồng tín dụng, khế ước
nhận nợ và văn bản tín dụng của khoản vay cho đến ngày ông Nguyễn Văn H1 và
bà Nguyễn Thị H2 thực tế thanh toán hết nợ cho Công ty Cổ phần M.
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật mà ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn
Thị H2 không trả nợ đầy đủ cho Công Ty Cổ phần M thì Công Ty Cổ phần M có
quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi
khoản nợ cho Công Ty Cổ phần M. Cụ thể:
Quyền sử dụng đất tại thửa số 392 tờ bản đồ số 02 bản đồ địa chính xã P
nay là thửa số 04 tờ bản đồ 15, bản đồ địa chính xã P; Địa chỉ thửa đất: thôn G, xã
P, tỉnh Ninh Bình; được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 515752, số
vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CH 00081 do UBND huyện N,
tỉnh Ninh Bình cấp ngày 01/04/2011 mang tên ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn
Thị H2. Tổng diện tích theo giấy chứng nhận được cấp là 372m
2
trong đó đất ở là
100m
2
, đất vườn là 272m
2
. Năm 2020 đã được chỉnh lý diện tích tăng lên là
379.4m
2
(tăng ở diện tích đất vườn). Hình thể cụ thể như sơ họa kèm theo. Trên
thửa đất có các công trình nhà cửa của chị T4 xây dựng, cụ thể: 01 căn nhà mái
bằng hai tầng xây năm 2019, móng cốt thép bê tông, hai tầng xây gạch đỏ đổ cột
bê tông, nền lát gạch men liên doanh, công trình vệ sinh khép kín.
Quyền sử dụng đất tại thửa số 23, tờ bản đồ số 15, bản đồ địa chính xã P; Địa
chỉ thửa đất: thôn G, xã P, , tỉnh Ninh Bình; được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số DĐ 333448, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CS
00076/CN/PS do Sở tài nguyên môi trường tỉnh N cấp ngày 31/03/2022 mang tên
ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2. Tổng diện tích theo giấy chứng nhận
được cấp là 431.1m
2
, trong đó 80m
2
đất ở và 351.1m
2
đất vườn. Hình thể cụ thể
như sơ họa kèm theo. Trên thửa đất có các công trình nhà cửa của vợ chồng ông
H1, cụ thế: 01 nhà mái bằng 1 tầng diện tích 94.7m
2
, móng bê tông cốt thép, tường
xây bằng gạch đỏ, cửa thép giả gỗ, phía trên mái tôn giả ngói. Công trình vệ sinh
khép kín, phía trước là sân cổng, phía sau có 01 bếp đun củi.
Trong trường hợp tài sản bảo đảm sau khi kê biên, phát mại không đủ trả nợ, ông
Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2 vẫn phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ
cho Công ty Cổ phần M cho đến khi thực tế trả hết (các) khoản nợ.
3.Về án phí:
- Ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị H2 phải liên đới chịu án phí dân
sự sơ thẩm là: 81.816.180 đồng.

- Trả lại cho cho Công ty cổ phần M số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên
lai số 0001308 ngày 28/6/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nho Quan tỉnh
Ninh Bình (nay phòng Thi hành án Dân sự khu vực 3- Ninh Bình) số tiền là
36.966.000 đồng.
4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt tại
phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự, có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND tỉnh Ninh Bình;
- VKSND Khu vực 3 – Ninh Bình;
- Thi hành án DS tỉnh Ninh Bình;
- Lưu hồ sơ vụ án.
T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Thị Hƣơng Quỳnh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 26/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 23/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 22/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 22/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 17/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 17/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 08/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 07/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm