Bản án số 07/2025/HC-PT ngày 27/06/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2025/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 07/2025/HC-PT ngày 27/06/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long
Quan hệ pháp luật:
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 07/2025/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/06/2025
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Ông T khởi kiện UBND huyên Vũng L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 07/2025/HC-ST
Ngày : 27 - 5 - 2025
V/v: Khiếu kiện quyết định
xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực tài nguyên nước
và khoáng sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Nguyễn Thị Kim Chi
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Nhật Tiến
Ông Nguyễn Văn Kiên
- Thư phiên tòa: Nguyễn Thị Ngọc Vệ Thư Toà án nhân dân
tỉnh Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Nguyễn Thị Huệ
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 27 tháng 5 năm 2025, tại Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử
thẩm vụ án hành chính thụ số: 01/2025/TLST-HC ngày 11 tháng 3 năm 2025
về việc Khiếu kiện Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên nước và khoáng sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xthẩm số:
09/2025/QĐXXST-HC ngày 13 tháng 5 năm 2025 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Anh Nguyễn Quốc T, địa chỉ: Ấp G, N, huyện M,
tỉnh Bến Tre (có mặt).
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Anh Đinh Văn N, địa chỉ:
Số C, ấp L, xã L, huyện C, tỉnh Bến Tre, theo văn bản ủy quyền ngày
07/10/2024 (có mặt).
2. Người bị kiện: Chủ tịch UBND huyện V - Ông Bùi Tấn Đ.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Văn T1 - Chức vụ Phó chủ tịch
UBND huyện V, theo văn bản y quyền số: 1404/QĐ-UBND ngày 31/3/2025
của Chủ tịch UBND huyện V (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị kiện: Ông Phạm Chí
C - Phó phòng Tư pháp huyện Vũng Liêm (có mặt).
3. Người quyền, nghĩa vụ liên quan: Anh Mộc Văn L, địa chỉ: Số B, ấp
P, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện ngày 19/12/2024 của anh Nguyễn Quốc T, đơn khởi
kiện sửa đổi, bsung ngày 13/01/2025 và 28/02/2025 anh T trình bày:
2
Anh chủ sử dụng ghe cát trọng tải khoảng 20 tấn chuyên vận chuyển
cát sang lấp mặt bằng trên địa bàn các tỉnh miền tây. Khoảng 2 giờ 15 phút ngày
22/06/2024, tn địa bàn ấp R, xã Q, huyện V, tỉnh Vĩnh Long, anh T đang thực
hiện giao dịch mua cát của một ghe khác thì một nhóm Công an khoảng 7
người ập xuống dùng súng bắn chỉ thiên, ng tay anh và anh Mộc Văn L gây
thương tích trên khuỷu tay trái của anh L dùng hung khí tấn công mục đích
để uy hiếp tinh thần của anh và anh L, ép buộc anh L phải viết biên bản là có hút
lấy cát (khai thác cát) trên địa bàn Q, huyện V, tỉnh Vĩnh Long vào đêm
22/06/2024, lúc đó anh không hề động thái chống đối ghe của anh đang
neo đậu không hề nổ máy.
Anh T không đồng ý việc Công an lập biên bản vi phạm hành chính, anh
gửi đơn khiếu nại đến Công an huyện V nhưng không được giải quyết đến
ngày 04/7/2024 Ủy ban nhân dân huyện V ra Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 3496/QĐ-XPHC, phạt anh số tiền 25.000.000 đồng tịch thu toàn bộ
tang vật là khối lượng cát và chiếc ghe gỗ cùng máy móc thiết bị trên ghe.
Không đồng ý Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 3496/QĐ-XPHC,
anh T tiếp tục khiếu nại, đến ngày 10/12/2024 anh nhận được Quyết định giải
quyết khiếu nại (lần đầu) số 5947/QĐ-UBND ngày 25/11/2024 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân huyện V bác toàn bộ khiếu nại của anh.
Anh T cho rằng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ra Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính số 3496/QĐ-XPHC ngày 02/07/2024 xử phạt anh hành vi
khai thác cát sông trái phép là không hợp pháp, lý do:
- Tại thời điểm Công an ập tới lập biên bản sự việc thì anh chỉ giao dịch
mua cát của một ghe khác chứ anh và anh L không có hành vi khai thác cát (hút
cát trực tiếp từ dưới sông lên ghe).
- Anh nhiều lần yêu cầu Công an Q cung cấp chứng cứ chứng minh anh
có thực hiện hành vi khai thác cát nhưng Công an không cung cấp được, các tấm
ảnh Công an cung cấp khi ghe anh đã neo đậu vào bờ, Công an cũng không
đoạn phim ghi li cảnh anh T đang hút cát. Do đó, không có căn cứ chứng minh
anh T có hành vi khai thác cát trái phép.
- Về mức xử phạt: Trong trường hợp này xử phạt anh T số tiền
25.000.000đồng quá cao so với quy định, theo anh T thì anh chỉ thực hiện
hành vi mua bán cát trái phép nên mức xử phạt chỉ khoảng 8.000.000đồng đến
9.000.000đồng là phù hợp.
Từ những căn cứ trên, nhận thấy việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ra
Quyết định số 3496/QĐ-XPHC ngày 02/07/2024 trái pháp luật anh không
thực hiện hành vi khai thác cát trái phép, gây ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi
ích hợp pháp của anh, bởi hiện tại chiếc ghe gỗ tài sản duy nhất để mưu sinh
đã bị Công an huyện V thu giữ.
Do đó, anh T khi kiện yêu cầu: hủy toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính số: 3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện V.
3
Tại phiên đối thoại ngày 13/5/2025 anh T trình bày: tại thời điểm Công an
lập biên bản sự vic, biên bản kiểm tra phương tiện vào khoảng 02 giờ ngày
22/6/2024 thì trong ghe của anh chứa 8,505m3 cát nhưng khối lượng cát này
do anh mua của người khác không phải do anh hút lấy trực tiếp từ dưới sông
lên ghe, tuy nhiên anh không cung cấp được giấy tờ, hóa đơn mua cát số cát
này cát lậu anh mua giá rẽ nên không hóa đơn, anh cũng không được
quan có thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh mua bán mặt hàng cát sông, cũng
không được cấp giấy phép khai thác khoáng sn cát sông, chiếc ghe gỗ y
mốc thiết bị tn ghe là tang vật hiện do Công an đang tạm giữ tài sản của
nhân anh nhưng anh không còn giữ chng từ, giấy tờ việc anh mua các tài sản
này, ghe gỗ cũng không giấy chứng nhận quyền sở hữu. Về các tấm ảnh do
người bị kiện cung cấp, anh xác nhận người trong bức ảnh trên ghe là anh và anh
L, chiếc ghe các máy móc, thiết bị trên ghe đúng tài sản của anh, nhưng
hình ảnh này được Công an chụp lúc chiếc ghe đã được kéo vào neo đậu trong
bờ không có nổ máy chứ không phải đang hút cát từ dưới sông.
Tại phiên đối, thoại anh T khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy luôn Quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu số: 5947/QĐ-UBND ngày 25/11/2024 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện V về việc không chấp nhận khiếu nại của anh T thu hồi
quyết định số: 3496/QĐ.
* Tại văn bản số: 718/UBND-TP ngày 31/3/2025 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện V tại phiên tòa thẩm, Người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V trình bày:
Người bị kiện kng thống nhất với yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn
Quốc T. do: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V Ban hành Quyết định số
3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024 xử phạt vi phạm hành chính đối với anh
Nguyễn Quốc T về hành vi khai thác cát sông không giấy phép đúng quy
định pháp luật, bởi vì: hành vi khai thác cát trái phép của anh T được Công an
lập biên bản sự việc lập Biên bản vi phạm hành chính đúng quy định chữ
của anh T anh Mộc Văn L, mặc anh T ghi trong biên bản không
đồng ý nhưng đó việc của anh T người bị kiện còn cung cấp chứng cứ
các tấm ảnh chụp chiếc ghe máy móc thiết bcủa anh T anh L đang khai
thác cát vào lúc 02 giờ 30 phút ngày 22/6/2024. Trong trường hợp này, không
bắt buộc lập biên bản vi phạm hành chính bằng hình ảnh mà chỉ cần lập biên bản
giấy là đủ, tuy nhiên người bị kiện vẫn cung cấp thêm các tấm ảnh chụp tại hiện
trường lúc anh T anh L khai thác cát để làm thêm hành vi vi phạm hành
chính.
Việc Ủy ban nhân dân huyện V ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024 đảm bảo đúng quy định pháp luật
hiện hành về hình thức, nội dung, thẩm quyền, thời hạn, thời hiệu, việc lập, giao
biên bản. Cụ thể:
1. Về hình thức:
- Hình thức xphạt chính: Áp dụng điểm b, Khoản 1, Điu 21 Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật xử vi phạm hành chính năm 2020; điểm a,
Khoản 1, Điều 48, Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ
4
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước
khoán sản phạt số tiền 25.000.000 ₫ (Hai mươi lăm triệu đồng).
- Hình thức xử phạt bổ sung: Áp dụng điểm d, Khoản 1, Điều 21 Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật xử vi phạm hành chính năm 2020; Khoản
2, Điều 48, Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước khoáng
sản, được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 23, Điều 2 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP
ngày 05/01/2022 của Chính phủ.
2. Về nội dung căn cứ ra Quyết định xử phạt:
- Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày 20/6/2012;
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử vi phạm hành chính
ngày 13/11/2020;
- Nghị định số: 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoán sản;
- Nghđịnh số: 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính
- Biên bản vi phạm hành chính số 0050155/BB-VPHC (theo quy định Mẫu
01 Phần II, Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày
23/12/2021 của Chính phủ)
3. Về thẩm quyền xử phạt: Thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định điểm
b, d, Khoản 2, Điều 38, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử vi
phạm hành chính năm 2020; Khoản 2, Điều 64, Nghị định số 36/2020/NĐ-CP
ngày 24/3/2020 của Chính phủ
4. Về thời hạn ra quyết định xử phạt: Đảm bảo đúng quy định Điều 66,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020
( điểm a, Khoản 1, Điều 66: vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến
người thẩm quyền xử phạt 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi
phạm hành chính,..)
5. Về thời hiệu xử phạt: Đảm bảo đúng quy định điểm a, Điều 6, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Xlý vi phạm hành chính năm 2020 (hoạt
động khoáng sản (cát sông) thời hiệu xử phạt là 02 năm.
6. Về việc lập biên bản vi phạm hành chính: Đảm bảo đúng quy Điều 58,
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật X vi phạm hành chính năm
2020.
7. Về việc giao biên bản vi phạm hành chính: Đảm bảo đúng quy định
Khoản Điều 5, Điều 58, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi
phạm hành chính năm 2020
Qua nội dung trên Chủ tịch UBND huyện V không chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của anh T về việc hủy toàn bộ Quyết định số: 3496/QĐ-XPHC ngày
02/7/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V xử phạt vi phạm hành chính
đối với anh Nguyễn Quốc T hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đu số:
5
5947/QĐ-UBND ngày 25/11/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V. Đề
nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của anh T.
Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V không đồng ý hủy Quyết định
xử phạt vi phạm hành chính số: 3496/-XPHC ngày 02/7/2024 Quyết định
giải quyết khiếu nại lần đầu số: 5947/QĐ-UBND ngày 25/11/2024 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân huyện V, đề nghị bác yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Quốc
T.
* Tại phiên đối thoại ngày 13/5/2025, Người quyền, nghĩa vụ liên quan
Mộc Văn L trình bày: anh và anh T không có hành vi khai thác cát trái phép, mà
khoảng 02 giờ ngày 22/6/2024 anh T mua cát của một người khác, khi Công
an ập đến thì ghe bán cát cho anh T bỏ chạy (do mới được anh T thuê nên không
biết chủ ghe đó ai), Công an đàn áp, ép anh tên vào biên bản sự việc, anh
bị Công an bắn vào chân trầy sướt nộp tấm ảnh kèm theo để chứng minh.
Công an lập biên bản ép anh tên. Do đó, anh L thống nhất yêu cầu khởi kiện
của anh T.
Riêng anh L cũng bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng anh chưa đóng tiền
phạt do không tiền, anh L không khiếu nại quyết định xử phạt vi phạm
hành chính và cũng không khởi kiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối
với anh.
* Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán thực hiện đúng trình tự, thủ
tục trong thời gian chuẩn bị xét xử; tại phiên tòa Hội đồng xét xử Thư đã
thực hiện đúng trình tự, thủ tục; các đương sự trong vụ án chấp hành nội quy
phiên tòa, thực hiện quyền nghĩa vụ theo đúng quy định của Luật Tố tụng
hành chính.
Về việc giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 2
Điều 193 Luật tố tụng hành chính bác yêu cầu khởi kiện anh Nguyễn Quốc T,
buộc anh T chịu 300.000 đồng tiền án psơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa kết quả
tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Anh Nguyễn Quốc T khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định xử phạt vi
phạm hành chính số: 3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024 Quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu số: 5947/QĐ-UBND ngày 25/11/2024 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện V. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính, xác định
các quyết định trên là quyết định hành chính, thuộc đối tượng khởi kiện trong vụ
án hành chính, từ đó xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là khiếu kiện quyết
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tài nguyên nước Khoáng
6
sản, các quyết định hành chính này liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ
của anh T nên anh T có quyền khởi kiện.
[1.2] Về thời hiệu khởi kiện.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban hành ngày 02/7/20024, quyết
định giải quyết khiếu nại ban hành ngày 25/11/2024 đến ngày 19/12/2024 anh T
nộp đơn khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy quyết định là còn trong thời
hiệu khởi kiện, theo quy định tại Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
[1.3] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Đối tượng khởi kiện quyết định
hành chính do Chủ tịch UBND huyện V ban hành n vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại Điều 30 và
khoản 3, khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.
[2] Vnội dụng, xét tính hợp pháp căn cứ của các quyết định hành
chính bị kiện .
[2.1] Về nội dung, căn cứ ban hành quyết định.
[2.1.1] Tại Biên bản sự việc (bút lục 55) thể hiện: lúc 02 giờ 30 phút ngày
22/6/2024, ng an Q kết hợp với Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế
tuần tra trên tuyến sông C đến khu vực thủy phận ấp R, Q, huyện V, tỉnh
Vĩnh Long thì phát hiện anh Nguyễn Quốc T cùng anh Mộc Văn L đang điều
khiển ghe gỗ không biển kiềm soát thực hiện hành vi bơm hút các từ lòng sông
lên ghe gỗ không giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan thẩm
quyền cấp, khối lượng cát khai thác được là 8,505m3. Biên bản sự việc được
anh L ký tên và ghi nội dung “Tôi đồng ý với nội dung biên bản sự việc và tôi có
thực hiện hành vi khai thác cát sông trái phép”, anh T cũng tên vào biên
bản nhưng ghi “không đồng ý nội dung biên bản”.
Mặc anh T không thừa nhận thực hiện hành vi khai thác cát trái phép,
anh cho rằng 8,505m3 cát trong ghe do anh mua của một ghe khác. Song anh
T không xuất trình được tài liệu chứng cứ để chứng minh khối lượng cát trong
ghe do anh mua có, anh T không giấy phép kinh doanh mặt hàng cát
sông cũng không được quan thẩm quyền cấp phép khai thác khoáng sản
(cát sông).
Tại tờ tường trình của anh L (bút lục 38) và Biên bản làm việc của Công an
huyện V cùng ngày 22/6/2024 (bút lục 39 - 41) anh L đều thừa nhận lúc 02 giờ
15 Phút ngày 22/6/2024 anh phía sau điều khiển ghe gỗ để cho anh T trước
mũi ghe điều khiển máy hút ống hút, hút cát từ lòng sông lên khoang chứa
của ghe được khoảng 15 đến 20 phút thì bị lực lượng Công an phát hiện. Ti
phiên đối thoại, qua công khai tài liệu, chứng cứ những tấm ảnh trong hồ sơ
xử phạt vi phạm hành chính thì anh T anh L đều thừa nhận hai người trên
chiếc ghe gỗ có máy c, dụng cụ khai thác cát chính là anh T và anh L
Trong quá trình giải quyết vụ án, anh T anh L cho rằng anh L bị lực
lượng Công an đàn áp, ép buộc phải tên vào biên bản sự việc thừa nhận
thực hiện hành vi hút cát từ lòng sông lên ghe. Xét lời trình bày của anh T
anh L không căn cứ chp nhận, bi lẽ: sau khi lập biên bản sự việc tại hiện
trường vào lúc 02 giờ 55 phút ngày 22/6/2024 xong thì đến 05 giờ cùng ngày
7
Công an huyện V tiếp tục lập Biên bản (bút lục 39 - 41) s chứng kiến của
người dân tại địa phương ông Nguyễn Thanh C1 thì anh L vẫn thừa nhận
cùng anh T thực hiện hành vi khai thác cát trái phép, ngoài ra anh L còn tự viết
tờ tường trình (bút lục 38) thừa nhận có thực hiện hành vi khai thác cát trái phép
và nhận thức được hành vi đó là trái quy định pháp luật. Bản thân anh L cũng bị
xử phạt vi phạm hành chính nhưng anh không khiếu nại không khởi kiện
cùng anh T.
Từ các căn cứ trên, đủ cơ sở xác định vào lúc 02 giờ 30 phút ngày
22/6/2024 anh T anh L đã thực hiện nh vi khai thác cát lòng sông (hút cát
từ lòng sông lên ghe) với tổng khối lượng 8,505m3 không giấy phép
khai thác khoáng sản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
[2.1.2] Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 48 Nghị định số
36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy định về xphạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản được sửa đổi, bổ sung
tại Khoản 23, Điều 2 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày 05/01/2022 của Chính
phủ thì:
1. Phạt tiền đối với hành vi khai thác cát, sỏi lòng sông, suối, hồ cửa sông;
cát sỏi, vùng nước nội thủy ven biển không giấy phép của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền từ 20.000.000đ đến 30.000.000đ khi tổng khối lượng
khoáng sản đã khai thác tại thời điểm phát hiện vi phạm dưới 10m3.
2. Hình thức xử phạt bổ sung: tịch thu toàn bộ tang vật là khoáng sản trong
trường hợp chưa bị tiêu thụ, tẩu tán, tiêu hủy; tịch thu phương tiện sử dụng (k
cả phương tiện khai thác trực tiếp phương tiện tham gia gián tiếp) đthực
hiện hành vi vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm tại khoản 1 điều này.
Như vậy, trong trường hợp này Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V xử phạt
anh T số tiền 25.000.000đ, tịch thu toàn bộ tang vật khoáng sản (8,505m3 cát
sông) tịch thu phương tiện khai thác (ghe gỗ cùng với dụng cụ, máy móc,
thiết bị bơm hút cát trên ghe) là có căn cứ và hợp pháp về mặt nội dung.
[2.2] Việc lập biên bản vi phạm hành chính: Biên bản vi phạm hành chính
(bút lục 54) được lập lúc 11 giờ 25 ngày 22/6/2024 cùng ngày với ngày lập biên
bản sự việc có chữ ký của anh L, anh T cũng có ký tên và ghi anh không có khai
thác chỉ dẩn (vận) chuyển. Nội dung biên bản ghi đúng và đầy đủ theo quy
định tại Điu 58 Luật xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, trong hồ sơ xử phạt
vi phạm hành chính kng thể hiện việc giao biên bản cho người vi phạm theo
quy định tại Khoản 5 Điều 58 Luật xử lý vi phạm hành chính thiếu sót. Thiếu
sót này không phải căn cứ để hủy quyết định xử phạt tuy nhiên cũng cần nêu
để cán bộ thực hiện nhiệm vụ rút kinh nghiệm.
[2.3] Về thẩm quyền xử phạt: Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ban hành
quyết định xử pht vi phạm hành chính đúng thẩm quyền theo quy định tại
Khoản 2 Điều 64 nghị định 36/2020/NĐ-CP ngày 24/3/2020 của Chính phủ quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước khoáng
sản. Anh T cũng thống nhất Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ban hành quyết
định xử phạt là đúng thẩm quyền.
8
[2.4] Thời hạn ra quyết định xử phạt.
Anh T cho rằng, ngày lập biên bản vi phạm hành chính 22/6/2024 nhưng
đến ngày 02/7/2024 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V mới ra quyết định xử
phạt vi phạm hành chính đã quá 07 ngày, vi phạm về thời hạn ra quyết định.
Xét lời trình bày của anh T không có căn cứ chấp nhận, bởi lẽ:
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 66 Luật X vi phạm hành
chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 07 ngày làm việc
kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, vụ việc thuộc trường hợp phải
chuyển hồ sơ đến người thẩm quyền xử phạt tthời hạn ra quyết định xử
phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính.
Trong trường hp này, do không thuộc thẩm quyền xử phạt nên Công an
huyện V chuyển hồ sơ đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ra quyết định xử
phạt, nên thời gian kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính 22/6/2024 đến
ngày 02/7/2024 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ra quyết định xử phạt
chưa quá 10 ngày làm việc, vẫn bảo đảm còn trong thời hạn ra quyết định xử
phạt.
[2.4] Thời hiệu xử phạt.
Hành vi vi phạm hành chính được phát hiện vào ngày 22/6/2024 đến ngày
02/7/2024 Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính còn trong thời hiệu theo quy định tại Điều 6 Luật xử vi phạm
hành chính
[2.5] Từ những phân tích trên, n cứ chấp nhận Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện V ban hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 3496/QĐ-
XPHC ngày 02/7/2024 hợp pháp về mặt hình thức, thủ tục, thẩm quyền, thời
hạn, thời hiệu và nội dung, căn cứ ban hành quyết định. Do đó, không có căn cứ
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T về việc hủy Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính số: 3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024.
[2.6] Anh T không đồng ý quyết định xử phạt vi phạm hành chính số:
3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024 nên khiếu nại yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện V hủy bỏ quyết định này. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ban
hành Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số: 5947/QĐ-UBND ngày
25/11/2024 bác khiếu nại của anh T.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật khiếu nại thì “Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính của mình”. Như vậy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V giải
quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính số:
3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024 đúng thẩm quyền. Về mặt nội dung, như đã
phân tích trên tại mục [2.5] việc Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V ban hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 3496/QĐ-XPHC ngày 02/7/2024
hợp pháp.
9
Do đó, không căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T về việc
hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số: 5947/QĐ-UBND ngày
25/11/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V.
[3] Án phí hành chính sơ thẩm: do bị bác yêu cầu khởi kiện nên anh T phải
chịu 300.000đ tiền án phí sơ thẩm
Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long căn cứ chấp
nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng: các điều: 6, 38, 58, 66 Luật xử vi phạm hành chính năm 2012
(sửa đổi bổ sung năm 2022); các điều 48, 64 nghị định 36/2020/NĐ-CP ngày
24/3/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài nguyên nước khoáng sản; Điều 2 Nghị định số 04/2022/NĐ-CP ngày
05/01/2022 của Chính phủ; Điều 18 Luật khiếu nại năm 2011; Điều 32 Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Quốc T về việc:
Hủy Quyết định x phạt vi phạm hành chính số: 3496/QĐ-XPHC ngày
02/7/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V.
Hủy Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số: 5947/QĐ-UBND ngày
25/11/2024 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V
2. Về án phí sơ thẩm: buộc anh Nguyễn Quốc T chịu 300.000 đồng (ba
trăm ngàn) tiền án phí hành chính sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng
án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0015275 ngày 11/3/2025 của
Cục thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Long. Anh T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
3. Quyền kháng cáo: đương sự có mặt tại phiên a được quyền kháng cáo
trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương svắng mặt tại phiên tòa
được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc
bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Nơi nhận:
- TAND Cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- VPTAND tỉnh VL;
- Cục THADS tỉnh Vĩnh Long;
- Đương sự: Lưu hồ sơ vụ án.
Nguyễn Thị Kim Chi
Tải về
Bản án số 07/2025/HC-PT Bản án số 07/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2025/HC-PT Bản án số 07/2025/HC-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất