Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 18/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 07/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 18/04/2025 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu: 07/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NGÃI
Bản án số: 07/2025/DS-PT
Ngày: 18 - 4 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay
tài sản; tranh chấp chuyển giao
nghĩa vụ
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Thu Lan
Các Thẩm phán: Bà Trần Thị Túc
Bà Huỳnh Thị Hồng Hoa
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Như - Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Ngãi
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi tham gia phiên tòa:
Bà Bùi Thị Thanh Hiền - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 14 ngày 18 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số:
65/2024/TLPT-DS ngày 25 tháng 11 năm 2024,
về việc:“Tranh chấp hợp đồng
vay tài sản; tranh chấp chuyển giao nghĩa vụ”.
Do bản án dân sự thẩm số 94/2024/DS-ST ngày 30 tháng 9 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 10/2025/QĐ-PT ngày
14/01/2025 Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm s33/2025/QĐ-PT ngày
17/3/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc P - sinh năm 1985; trú tại tổ G,
phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
* Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Thiều
Quang V1 - Luật sư của Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Q; địa chỉ: Tổ E,
phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
- B đơn: Bùi Thị Nguyệt Á - sinh 1982; trú tại số A đường N,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ liên hệ: Đ, thôn K, N, thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi.
2
* Người đại diện theo uỷ quyền của bđơn: Ông Nguyễn Xuân V - sinh
năm 1976; địa chỉ ln hệ: Số H đường T, phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng
Ngãi (theo văn bản ủy quyền ngày 20/02/2025).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Phan Thị Mỹ H - sinh năm 1988; ttại tổ G, phường N, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
2. Bà Phan Thị Mỹ N - sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Thôn X, xã N,
huyện T, tỉnh Quảng Ngãi; trú tại tổ dân phố D, thị trấn L, huyện T, tỉnh
Quảng Ngãi.
3. Bà Ngô Thị Thùy Q - sinh năm 1982;
4. Bà Ngô Thị Thùy G - sinh năm 1979;
Cùng cư trú tại số B đường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
- Người kháng cáo: Bùi Thị Nguyệt Á là bị đơn.
(Ông Nguyễn Ngọc P, ông Thiều Quang V1, ông Nguyễn Xuân V,
Phan Thị Mỹ H Phan Thị Mỹ N mặt; bà Ngô Thị Thùy Q N
Thị Thùy G vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 02/02/2024; đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung
đề ngày 10/4/2024 ngày 22/4/2024; các tài liệu tại hồ vụ án tại
phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Ngọc P trình bày: Bùi Thị
Nguyệt Á là chị, con cô ruột với vợ của ông nên khi cần tiền m ăn kinh doanh,
Á nhờ ông vay mượn người thân vay tiền Ngân hàng để cho Á
mượn lại; Á hứa làm ăn được thì Á sẽ hỗ trợ tiền lãi vay. chỗ chị, em
tin tưởng nhau nên ông đồng ý đi vay mượn tiền của nhiều người khác Ngân
hàng để cho bà Á mượn. Thực tế, ông đã chuyển khoản cho bà Á mượn trước đó
nhưng đến ngày 10/10/2022, Á mới viết giấy mượn tiền của ông với tổng số
tiền 2.720.000.000 đồng, cụ thể:
- Ngày 12/9/2022, ông chuyển khoản nhiều lần cho Á với tổng số tiền
2.000.000.000 đồng (có chứng từ chuyển khoản số tiền 899.000.000 đồng,
16.000.000 đồng, 261.000.000 đồng, 499.000.000 đồng 325.000.000 đồng
vào tài khoản 0271000975931 của bà Á); hai bên thỏa thuận bằng lời nói lãi suất
2.000.000 đồng/ngày/02 t; Á đã trả tiền lãi cho ông từ ngày 12/9 đến ngày
10/10/2022 là 29 ngày, tổng cộng 58.000.000 đồng.
- Ngày 21/9/2022, ông chuyển khoản cho bà Á 120.000.000 đồng; hai bên
thỏa thuận bằng lời nói lãi suất 120.000 đồng/ngày/120.000.000 đồng gốc; Á
đã trả tiền lãi cho ông tngày 21/9 đến ngày 10/10/2022 20 ngày, tổng cộng
2.400.000 đồng.
3
- Ngày 07/10/2022, ông chuyển khoản cho Á tổng cộng 600.000.000
đồng (có chứng tchuyển khoản 579.000.000 đồng 21.000.000 đồng); hai
bên thỏa thuận bằng lời nói lãi suất 600.000 đồng/ngày/600.000.000 đồng; Á
đã trả tiền lãi cho ông từ ngày 07 đến ngày 10/10/2022 04 ngày, tổng cộng
2.400.000 đồng.
Bà Á đã trả tiền lãi cho ông đến ngày 10/10/2022 với tổng số tiền
62.800.000 đồng. Đến ngày 12/10/2022, Á điện thoại cho ông nói không còn
khả năng để trả tiền nợ gốc, lãi cho ông; Á cam kết trong vòng 03 tháng (từ
ngày 10/10/2022 đến ngày 10/01/2023) sẽ hoàn trả đủ số tiền trên cho ông
nhưng đến ngày 26/12/2022, bà Á giao cho ông 02 lô đất ở xã N, huyện T để cấn
trừ 900.000.000 đồng vào khoản nợ trên, ông đồng ý. Ngày 05/01/2023, Á
đưa 10.000.000 đồng cho ông để trả tiền lãi Ngân hàng; ngày 10/01/2023, Á
không trả stiền còn lại 1.820.000.000 đồng cho ông nên Á viết lại giấy
mượn tiền (bà Á thu hồi lại giấy mượn tiền ngày 10/10/2022), xin gia hạn 05
tháng đến ngày 10/6/2023 trả đủ số tiền 1.820.000.000 đồng cho ông mỗi
tháng Á hỗ trợ 10.000.000 đồng để trả tiền lãi Ngân hàng; bất khả kháng sau
05 tháng, bà Á sẽ trả ít nhất 50% số tiền 1.820.000.000 đồng và bà Á xin gia hạn
03 tháng từ ngày 10/6/2023 đến ngày 10/9/2023, Á sẽ trả hết số tiền còn lại
cho ông trả tiền lãi Ngân hàng nhưng từ ngày 12/02/2023 đến ngày
09/3/2023, Á chỉ đưa cho ông 10.000.000 đồng để trả tiền lãi đến ngày
10/9/2023, bà Á không trả tiền nợ gốc như đã hứa.
Ông không quen biết bà Ngô Thị Thùy Q. Việc Á cho rằng ông đề cập
với Á giới thiệu ông với Q để ông cho Q vay tiền là không đúng; ông
chỉ cho bà Á vay tiền chứ không cho bà Q vay tiền. Trong bản cam kết không có
nội dung chuyển giao nghĩa vụ trả 1.820.000.000 đồng từ Á sang Q,
chỉ cam kết giữa ông, Á bà Q về việc cấn trừ 02 đất cho ông, trị giá
900.000.000 đồng vì Q ntiền bà Á; Q không liên quan đến việc vay
tiền của ông.
Ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Á phải trả cho ông 1.820.000.000
đồng; về tiền lãi, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông không hành vi gây rối, gây sức ép để buộc Á phải viết giấy
mượn tiền, thực tế Á mượn tiền của ông, chứng từ ông chuyển
khoản cho Á; bà Á viết giấy mượn tiền của ông ngày 10/10/2022. Việc Á
yêu cầu Tòa án tuyên bố giấy mượn tiền ngày 10/01/2023 vô hiệu, buộc bà Q có
nghĩa vụ trả 1.820.000.000 đồng cho ông thì ông không đồng ý.
* Tại đơn khởi kiện yêu cầu phản tố đề ngày 13/5/2024; đơn yêu cầu phản
tố bổ sung đề ngày 17/9/2024; các tài liệu có tại hồ vụ án tại phiên tòa
thẩm, bị đơn là bà Bùi Thị Nguyệt Á do Bùi Thị V2 là người đại diện theo ủy
quyền trình bày: Bùi Thị Nguyệt Á Phan Thị Mỹ H (vợ của ông
Nguyễn Ngọc P) chị, em con nhà cô, cậu nên ông P đề cập với Á về
việc giới thiệu ông với Q để ông cho Q vay tiền; Q đồng ý với điều
kiện bà Á là người đưa tiền cho bà Q; ông P biết, không phản đối.
4
Để thực hiện yêu cầu của Q, Á đóng vai trò người trung gian giữa
ông P với Q; theo đó, Á nhận tiền từ ông P chuyển stiền đã nhận cho
Q theo số tài khoản Q cung cấp (số tài khoản mang tên Ngô Thị
Thùy G chị ruột của Q). Ngày 26/12/2022, bà Á, Q ông P đã cùng
thỏa thuận về việc chuyển giao nghĩa vụ trả nợ bằng giấy cam kết về việc trả nợ,
theo đó bà Q nghĩa vụ trả nợ cho ông P; thực tế, ngày 27/12/2022 vì khoản nợ
đã đến hạn nhưng chưa trả được nợ cho ông P nên Q đã xử tài sản, hợp
đồng ủy quyền toàn phần 02 thửa đất cho ông P để cấn trừ nợ; điều này khẳng
định bà Á chỉ là người cầm tiền từ ông P đưa cho bà Q; bà Q mới là người mượn
tiền của ông P.
Khi bà Q không tiếp tục trả nợ, ông P cùng bà Phan Thị Mỹ N, chị gái của
H đã liên tục những hành vi gây rối, gây sức ép như treo băng rôn, chụp
hình nhà của mÁ để đăng tải trên mạng, phát loa lan truyền thông tin sai sự
thật nhằm gây áp lực buộc bà Á phải viết giấy mượn tiền. Khi bà Á đã báo chính
quyền can thiệp thì ông P, bà N mới ngừng thực hiện các hành vi quấy rối.
Ông P cũng đã nhiều lần yêu cầu bà Á viết giấy mượn tiền theo ý của ông
P như gửi tin nhắn để yêu cầu Á viết theo, nhưng sự thật khách quan nên
Á không đồng ý viết. Ngày 10/01/2023, ông P cùng bà N đến nhà Á ép bà
Á viết giấy mượn số tiền 1.820.000.000 đồng; san toàn cho bản thân
người thân, bà Á buộc phải viết giấy mượn tiền theo ý của ông P, bà N.
Nay, Á yêu cầu Tòa án tuyên bố giấy mượn tiền đngày 10/01/2023
vô hiệu, buộc bà Ngô Thị Thùy Q nghĩa vụ trả nợ cho ông Nguyễn Ngọc P số
tiền 1.820.000.000 đồng.
* Tại bản tự khai ngày 10/5/2024, các tài liệu tại hồ vụ án tại
phiên tòa sơ thẩm, người có quyền li, nghĩa vụ liên quan Phan Thị Mỹ H
trình bày: vợ của ông Nguyễn Ngọc P. Việc ông P mượn tiền của người
khác cho Bùi Thị Nguyệt Á mượn, biết. Nay, ông P yêu cầu Á trả
tiền cho ông P thì đồng ý. Đơn phản tố của Á đề ngày 17/9/2024 hoàn
toàn không có căn cứ. Ông P đưa tiền cho bà Á ợn thì Á phải nghĩa vụ
trả cho ông P. Ngày 26/12/2022, trong bản cam kết 03 bên thỏa thuận ủy
quyền toàn phần 02 thửa đất, trị giá 900.000.000 đồng; số tiền này đã cấn trừ
vào số tiền mà ông P cho bà Á mượn.
* Tại bản tự khai ngày 23/5/2024, các tài liệu tại hồ vụ án tại
phiên tòa thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Phan Thị Mỹ N
trình bày: Ngày 18/01/2023, bà và ông Nguyễn Ngọc P được bà Bùi Thị Nguyệt
Á hẹn lên nhà để viết lại giấy nợ. Do giấy ntrước đó hẹn trả nợ của Á
ông P đã hết thời gian Á vẫn chưa trả. Lúc viết giấy, Á cố tình viết
không đúng nên bà ông P nhắc để Á viết cho đúng; bà và ông P hoàn toàn
không ép buộc bà Á.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ là Ngô Thị Thùy Q và bà Ngô Thị Thùy
G không văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn
Ngọc P và yêu cầu phản tố của bà Bùi Thị Nguyệt Á.
5
* Bản án số 94/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố Quảng Ngãi đã xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Ngọc P. Buộc Bùi Thị Nguyệt Á nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Ngọc P số
tiền nợ gốc 1.791.610.957 đồng. Ông Nguyễn Ngọc P không yêu cầu trả tiền lãi.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Bùi Thị Nguyệt Á về việc yêu
cầu tuyên bố vô hiệu giấy ợn tiền ngày 10/01/2023 và buộc Ngô Thị Thùy
Q có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Ngọc P 1.820.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, tiền lãi chậm thi hành án và
quyền kháng cáo của các đương sự.
* Ngày 09/10/2024, bà Bùi Thị Nguyệt Á đơn kháng cáo đề ngh a
án cp phúc thm, sa bn án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của
bà, tuyên bố giấy mượn tiền ngày 10/01/2023 hiệu do bị đe doạ, cưỡng ép;
buộc bà Ngô Thị Thùy Q phải trả cho ông Nguyễn Ngọc P 1.820.000.000 đồng.
* Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông Nguyễn
Ngọc P phát biểu ý kiến tranh luận đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp
nhận kháng cáo của bà Á, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng kể
từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét
xử nghị án đều chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; riêng Ngô Thị Thùy Q Ngô Thị Thùy G đã được Tòa án triệu tập
hợp lệ nhưng không mặt tại phiên tòa phúc thẩm không chấp hành đúng
nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Đơn kháng cáo của bị đơn đảm bảo về thời hạn, chủ thể và nội dung kháng
cáo theo quy định tại Điều 271, 272, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bluật tố tụng dân sự năm 2015,
đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên bản án thẩm số 94/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố Quảng Ngãi; về án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra xem t kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, sau khi đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Ngãi phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Ngày 30/9/2024, Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi xét xử vụ án
nêu trên. Ngày 09/10/2024, bị đơn Bùi Thị Nguyệt Á đơn kháng cáo
6
còn trong thời hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
[2] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngô Thị Thùy Q
Ngô Thị Thùy G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt
không có do. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án.
[3] Xét kháng cáo của bị đơn Bùi Thị Nguyệt Á, Hội đồng xét xử
nhận thấy:
[3.1] Theo sao tài khoản (bút lục 06 - 10, 21); biên bản ghi lời khai
ngày 04/6/2024 của Bùi Thị V2 người đại diện theo ủy quyền của Bùi
Thị Nguyệt Á tại cấp thẩm (bút lục 106, 107); văn bản trình bày ý kiến đ
ngày 21/02/2025 kèm theo bảng giải trình và tại phiên tòa phúc thẩm, bà Bùi Thị
Nguyệt Á (do ông Nguyễn Xuân V người đại diện theo ủy quyền tham gia tố
tụng) thừa nhận vào các ngày 12, 21/9 ngày 07/10/2022, Á nhận của
ông Nguyễn Ngọc P tổng số tiền 2.720.000.000 đồng, nhưng Á cho rằng
chỉ người trung gian, nhận tiền giúp sau đó chuyển khoản lại cho bà Ngô Thị
Thùy Q ông P cho Q vay tiền, nhưng Á không cung cấp được tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của bà là có căn cứ và không được ông P
thừa nhận. Tại biên bản ghi lời khai ngày 04/6/2024 (bút lục 106, 107), Bùi
Thị V2 người đại diện theo ủy quyền của Á cũng xác định không tài
liệu, chứng cứ chứng minh ông P cho bà Q ợn tiền.
[3.2] Tại phiên a phúc thẩm, bà Á cho rằng không biết không thừa
nhận Giấy mượn tiền đề ngày 10/10/2022 (bút lục 01), nhưng Á thừa nhận
chữ viết, chữ ký trong Giấy mượn tiền đề ngày 10/01/2023 (bút lục 15) của
bà. Theo Giấy mượn tiền đề ngày 10/01/2023 thể hiện nội dung: …Ngày
10/10/2022, bà Á có mượn ông Nguyễn Ngọc P 2.720.000.000 đồng…; bà Á cho
rằng do bị ông P ép buộc nên mới viết, Giấy mượn tiền đề ngày
10/01/2023 cung cấp 02 hình ảnh, đoạn ghi hình. Tuy nhiên, sau khi xem xét
tài liệu do Á cung cấp kết hợp với nội dung tin nhắn giữa ông P Á qua
ứng dụng messenger (bút lục 64 - 75) chỉ thể hiện giữa bà Á và ông P lời qua
tiếng lại vnội dung viết giấy mượn tiền, sau đó Á tự nguyện viết lại giấy
mượn tiền (bút lục 63); ngoài ra, bà Á không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
chứng minh bà bị cưỡng ép, đe dọa, buộc phải viết giấy mượn tiền đề ngày
10/01/2023. Do đó, việc Á yêu cầu Tòa án tuyên bố Giấy mượn tiền đề ngày
10/01/2023 vô hiệu là không có cơ sở chấp nhận.
[3.3] Giấy cam kết về việc trả nợ đề ngày 26/12/2022 (bút lục 159) có nội
dung: Á ông P thực hiện bảng cam kết này về việc đảm bảo nghĩa vụ
trả nợ của Á với ông P ông P sẽ lấy toàn bộ 2 thửa đất với giá
900.000.000 đồng trừ vào công nợ mà Á nợ ông P Giấy cam kết về việc
trả nợ đề ngày 26/12/2022 (bút lục 158) cũng có nội dung: ông P sẽ lấy toàn
bộ hai thửa đất với giá 900.000.000 đồng. Số tiền này sẽ cấn trừ vào công nợ
ông P cho Á mượn đưa cho Q …. Tại phiên tòa, Á thừa nhận 02
7
Giấy cam kết về việc trả nợ cùng đề ngày 26/12/2022 (bút lục 158, 159) là do
cung cấp cho Tòa án. Như vậy, theo nội dung của 02 Giấy cam kết về việc trả n
sự thừa nhận của Á nhận tổng cộng 2.720.000.000 đồng do ông P
chuyển khoản cho Á, sở xác định Á người ợn tiền của ông P.
Việc Á cho rằng theo 02 Giấy cam kết về việc trả nợ cùng đề ngày
26/12/2022, thì nghĩa vụ trả nợ đã chuyển giao cho Q không sở,
không được ông P thừa nhận không phù hợp với quy định tại Điều 370 Bộ
luật dân sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Á cũng không cung cấp được
tài liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho kháng cáo của bà là có căn cứ.
Từ những nhận định trên, không sở chấp nhận kháng cáo của Á.
Tuy nhiên, Tòa án cấp thẩm chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của ông P,
nhưng tại phần quyết định không tuyên không chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của ông P, trong khi lại buộc ông P phải chịu án phí dân sự thẩm tương
ứng với phần yêu cầu không được chấp nhận thiếu sót. Do đó, Hội đồng xét
xử cấp phúc thẩm sửa lại cách tuyên của bản án sơ thẩm cho chính xác.
[4] Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo, nên Á phải chịu
300.000 đồng (ba trăm ngàn) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số
tiền tạm ứng án pdân sự phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn)
theo biên lai số 0003680 ngày 24/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Quảng Ngãi. Bà Á đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Đề nghị của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông P phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015; Điều 105, 116, 117, 118, 119, 127, 274, 280, 351, 370, 463, 466, 469 Bộ
luật dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
Không chấp nhận kháng cáo của Bùi Thị Nguyệt Á; sửa bản án số
94/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân thành phố Quảng Ngãi về cách
tuyên.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Ngọc P. Buộc Bùi Thị Nguyệt Á nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Ngọc P số
tiền nợ gốc 1.791.610.957 đồng (một tỷ, bảy trăm chín mươi mốt triệu, sáu trăm
mười ngàn, chín trăm năm mươi bảy đồng).
8
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Nguyễn Ngọc P về việc buộc Bùi Thị Nguyệt Á nghĩa vụ trả cho ông
Nguyễn Ngọc P số tiền nợ gốc 28.389.043 đồng (hai mươi tám triệu, ba trăm
tám mươi chín ngàn, không trăm bốn mươi ba đồng). Ông Nguyễn Ngọc P
không yêu cầu trả tiền lãi.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Bùi Thị Nguyệt Á
về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố Giấy mượn tiền đề ngày 10/01/2023 vô hiệu và
buộc bà Ngô Thị Thùy Q có nghĩa vụ trả cho ông Nguyễn Ngọc P 1.820.000.000
đồng (một tỷ, tám trăm hai mươi triệu đồng).
3. Về án phí:
3.1. Về án phí dân sự sơ thẩm:
3.1.1. Ông Nguyễn Ngọc P phải chịu 1.419.452 đồng (một triệu, bốn trăm
mười chín ngàn, bốn trăm năm mươi hai đồng) án phí dân sthẩm, nhưng
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp 33.300.000 đồng
(ba mươi ba triệu, ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0002750 ngày 23/4/2024
của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi. Ông Nguyễn Ngọc P
được hoàn trả lại số tiền chênh lệch 31.880.548 đồng (ba mươi mốt triệu, tám
trăm tám mươi ngàn, năm trăm bốn mươi tám đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
3.1.2. Bùi Thị Nguyệt Á phải chịu 66.348.328 đồng (sáu mươi sáu
triệu, ba trăm bốn mươi tám ngàn, ba trăm hai mươi tám đồng) án phí dân sự sơ
thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp
600.000 đồng (sáu trăm ngàn) theo biên lai số 0002829 ngày 17/5/2024 số
0003583 ngày 19/9/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi.
Bùi Thị Nguyệt Á còn phải nộp 65.748.328 đồng (sáu mươi lăm triệu, bảy
trăm bốn mươi tám ngàn, ba trăm hai mươi tám đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
3.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Bùi Thị Nguyệt Á phải chịu 300.000
đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền
tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng)
theo Biên lai số 0003680 ngày 24/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Quảng Ngãi. Bà Bùi Thị Nguyệt Á đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
9
Nơi nhận:
- TAND thành phố Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Chi cục THADS thành phố Quảng Ngãi;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trịnh Thị Thu Lan
10
Tải về
Bản án số 07/2025/DS-PT Bản án số 07/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 07/2025/DS-PT Bản án số 07/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất