Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 07/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 07/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 07/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 07/2025/DS-PT ngày 15/01/2025 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Hải Dương |
Số hiệu: | 07/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/01/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Lê Thị V khởi kiện ông Hoàng Văn Q đòi quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 07/2025/DS-PT
Ngày: 15 - 01 - 2025
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - hạnh phúc
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Đăng Huy
Các Thẩm phán: Ông Trần Hữu Hiệu
Bà Phạm Thúy Hằng
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Mai Trang – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương: Bà Bùi Thị Hậu -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 15 tháng 01 năm 2025 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 78/2024/TLPT-DS ngày 15 tháng 10
năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số
06/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Thanh
Hà, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc
thẩm số 137/2024/QĐ-PT ngày 15 tháng 12 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị V, sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện
T, tỉnh Hải Dương; có mặt
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Văn L, sinh năm
1985; địa chỉ: Tổ E, khu B, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt
- Bị đơn: Ông Hoàng Văn Q, sinh năm 1954; địa chỉ: Thôn L, xã T,
huyện T, tỉnh Hải Dương; có mặt
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1952; vắng mặt
2. Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1989; vắng mặt
3. Anh Hoàng Văn Q1, sinh năm 1985; có mặt
4. Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1993; vắng mặt
5. Chị Mai Thị Hồng N, sinh năm 1988; vắng mặt
6. Bà Hoàng Thị V1, sinh năm 1966; vắng mặt
7. Bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1953; có mặt
8. Anh Hoàng Văn L1, sinh năm 1982; vắng mặt
Đều có địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương
2
9. Ông Hoàng Văn N1, sinh năm 1959; địa chỉ: T sân bay N, xã P, huyện
S, thành phố Hà Nội; có mặt
10. Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1982; vắng mặt
11. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1954; vắng mặt
Đều có địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương;
12. Chị Hoàng Thị Q2, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn N, xã T, huyện T,
tỉnh Hải Dương; có mặt
13. Anh Nguyễn Văn V2, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện
K, tỉnh Hải Dương; vắng mặt
14. Anh Nguyễn Văn L2, sinh năm 1980; địa chỉ: H, phường T, thành phố
T, tỉnh Bình Dương; vắng mặt
15. Anh Hoàng Văn M, sinh năm 1989; vắng mặt
16. Chị Hoàng Thị H1, sinh năm 1984; vắng mặt
Đều có địa chỉ: Phường H, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T, anh H, anh Q1, chị T, chị N, ông
N1, bà V1, chị P, ông D, anh V2, anh L2: Ông Hoàng Văn Q, sinh năm 1954; địa
chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương; có mặt
Người đại diện theo ủy quyền của chị Q2, anh M, chị H1, bà T1, anh L1:
Bà Lê Thị V, sinh năm 1958; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương. Có
mặt
- Người kháng cáo: Nguyên đơn – bà Lê Thị V
Bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Nguyên đơn – bà Lê Thị V đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của
chị Q2, anh M, chị H1, bà T1, anh L1 trình bày:
Gia đình bà V sử dụng thửa đất số 110, tờ bản đồ số 25 (chưa được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền công nhận quyền sử dụng đất) và thửa đất trồng cây lâu
năm (đã được công nhận quyền sử dụng đất cho ông Hoàng Văn C- chồng của bà
V, đã chết năm 2012) tại thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương. Thửa đất số 110
được gia đình nguyên đơn sử dụng từ nhiều năm nay, đăng ký 299 mang tên ông
Hoàng Văn C. Thửa đất gia đình nguyên đơn sử dụng có cạnh giáp ranh phía Bắc,
phía Đông giáp với thửa số 101, tờ bản đồ số 25 do gia đình ông Q sử dụng (số
thửa, tờ bản đồ theo bản đồ 1997). Trong quá trình sử dụng từ nhiều năm trước
không có tranh chấp xảy ra. Cạnh giáp ranh giữa hai thửa đất từ khi cụ N2 (bố của
ông Q) và ông C sử dụng có hàng dâm bụt, sau đó ông Q phá đi xây dựng tường
bao, làm nhà đều không có tranh chấp xảy ra do gia đình nguyên đơn lúc đó không
biết đất nhà mình đến đâu, không xem bản đồ 299 nên không biết gia đình ông Q
xây lấn đất. Cho đến thời điểm năm 2023, khi gia đình nguyên đơn đề nghị làm
thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, xem bản đồ qua các thời kỳ, phát
hiện đất theo bản đồ 299 có phần diện tích khoảng 250m2 đang nằm trong đất gia
3
đình ông Q đang sử dụng. Đề nghị Toà án căn cứ vào bản đồ này xác định diện
tích lấn chiếm cạnh giáp ranh nêu trên. Trên phần diện tích tranh chấp này đang
có tài sản của bị đơn gồm tường bao, một phần nhà, sân, cây cối là tài sản của gia
đình ông Q. Hai bên không thống nhất được phương án giải quyết vụ án nên làm
đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại diện tích lấn chiếm, phá dỡ công trình xây
dựng, di dời cây cối nằm trên vị trí tranh chấp. Căn cứ chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện là bản đồ 299.
2. Bị đơn - ông Hoàng Văn Q đồng thời là người đại diện theo ủy quyền
của bà T, chị T, chị N, anh Q1, anh H, ông N1, ông D, chị P, anh V2, anh L2 trình
bày:
Gia đình bị đơn đang sử dụng thửa đất số 101, tờ bản đồ số 25 tại thôn L,
xã T, huyện T. Thửa đất này chưa được công nhận quyền sử dụng đất, gia đình bị
đơn sử dụng ổn định nhiều năm nay. Thửa đất có cạnh giáp ranh phía Tây, phía
Nam giáp thửa đất gia đình nguyên đơn sử dụng. Hai thửa đất từ xa xưa đều có
nguồn gốc là đất ông cha. Theo bị đơn thửa đất có nguồn gốc của gia đình bị đơn
từ thời các cụ cho ông C. Tuy nhiên việc tặng cho này phía bị đơn không đưa ra
căn cứ chứng minh. Cạnh giáp ranh giữa hai thửa đất từ thời cụ N2 (bố của ông
Q) sử dụng, ông C sử dụng đất có hàng dâm bụt. Đến năm 1993- 1994, khi cụ N2
còn sống gia đình ông đã xây dựng nhà có đoạn tường nhà giáp đất ông S và xây
đoạn tường bao kéo từ tường nhà thằng xuống dài khoảng hơn 10m. Khi xây dựng
tường bao đều thụt vào bên trong hàng dâm bụt. Đến năm 2009- 2010, gia đình bị
đơn tiếp tục xây dựng tường bao cạnh phía Tây, cạnh phía Nam còn lại giáp ranh
giữa hai thửa đất. Lúc này, ông C (chồng bà V là nguyên đơn) còn sống, giúp xách
vữa gia đình bị đơn để xây tường. Trong quá trình sử dụng đất cũng như xây dựng
tường bao không xảy ra tranh chấp, không nhận ý kiến khiếu nại của gia đình
nguyên đơn. Ngoài ra, sau thời điểm xây dựng toàn bộ tường bao, năm 2010 khi
đo đạc hiện trạng thửa đất, hai bên ký giáp ranh chủ sử dụng đất, xác định ranh
giới, mốc giới đất (bị đơn giao nộp cho Toà án tài liệu nêu trên). Nay nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất, phá dỡ, di dời công trình xây dựng,
cây cối trên vị trí đất tranh chấp căn cứ vào bản đồ 299 quan điểm phía bị đơn
không đồng ý. Tại vị trí tranh chấp bị đơn xây dựng tường bao, một phần nhà,
công trình phụ, sân, cây cối.. là tài sản của ông Q, bà T không liên quan đến ai
khác. Đề nghị Toà án xem xét hiện trạng sử dụng đất nhiều năm nay, biên bản ký
giáp ranh năm 2010 giữa hai bên làm căn cứ giải quyết vụ án.
3. Lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Bà Hoàng Thị V1: Bà V1 có quan hệ là em của ông Q, quan hệ họ hàng
với ông C (chồng bà V). Nguồn gốc thửa đất của ông Q, ông C từ xa xưa đều là
của cụ N2. Cụ N2 cắt chia cho ông C từ lâu đời. Thửa đất ông Q sử dụng xác định
cụ N2 cho ông Q không liên quan đến ai khác. Khi ông C còn sống, ông C trực
tiếp ở trên đất còn bà V (vợ ông C) không thường xuyên ở nhà mà đi làm ăn ở
4
Quảng Ninh. Cạnh giáp ranh giữa hai thửa đất hai bên sử dụng trước có hàng dâm
bụt. Khi cụ N2 còn sống, ông Q xây dựng nhà, tường nhà cũng như tường bao
đoạn từ tường nhà kéo xuống, năm 2010 ông Q tiếp tục xây đoạn tường bao còn
lại giáp nhà ông C. Thời điểm xây tường bao, ông Q sử dụng xây nhà, sân, trồng
cây hai bên không có tranh chấp gì, không có ý kiến của gia đình ông C. Ông C
lúc còn sống còn ra xác định mốc giữa hai bên. Bà không có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan trong vụ án, từ chối tham gia tố tụng.
- Bà Hoàng Thị T1: Bà T1 là chị gái ông C, họ hàng với ông Q. Bà xác định
nguồn gốc đất là của cụ C1, thửa đất hai bên sử dụng đều là đất ông cha. Ông C
là người trực tiếp sử dụng đất, toàn bộ đất và tài sản trên đất là của vợ chồng ông
C không liên quan đến ai khác. Cạnh giáp ranh hai thửa đất từ thời các cụ thì có
hàng dâm bụt, sau đó gia đình ông Q xây dựng tường bao lúc đó cụ N2, ông C
còn sống. Từ trước đến nay khi sử dụng đất cũng như xây dựng tường bao bà
không thấy có tranh chấp. Bà không biết theo bản đồ 299 đất của hai bên đến đâu,
bà chỉ biết là từ lâu đời và nhiều năm nay hai bên vẫn sử dụng đất như vậy. Bà
không có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án, từ chối tham gia tố tụng.
4. Lời khai của người làm chứng – ông Nguyễn Văn S: Ông S là hộ giáp
ranh với gia đình ông Q, bà V. Nguồn gốc của 02 thửa đất là từ thời ông cha và
được ông C, ông Q sử dụng từ lâu đời. Đối với thửa 110, ông C trực tiếp sử dụng
đất cho đến khi chết bà V không ở trên thửa đất. Cạnh giáp ranh giữa hai thửa đất
được xây dựng tường bao từ lâu. Ông không biết ranh giới, mốc giới hai bên như
thế nào nhưng quá trình sử dụng đất cũng như xây dựng tường bao hai bên không
xảy ra việc khiếu nại, tranh chấp.
5. Kết quả xác minh tại UBND xã T: Quá trình đăng ký, sử dụng đất thể
hiện hai thửa đất nguyên đơn, bị đơn có nguồn gốc đất ông cha. Thửa đất 110 gia
đình nguyên đơn sử dụng từ 299 ghi tên ông C và một thửa đất nông nghiệp đã
được công nhận quyền sử dụng đất cho ông Hoàng Văn C; thửa đất bị đơn sử
dụng thì có hai thửa: 01 thửa ghi tên người sử dụng là cụ N2 vì lúc này cụ N2 ở
cùng ông Q, 01 thửa ghi tên người sử dụng là ông Q. Từ bản đồ, tài liệu đo đạc
1997 thể hiện thửa đất ông Q đang sử dụng ghi tên người sử dụng ông Q. Trong
quá trình sử dụng đất cho đến năm 2023 hai bên sử dụng ổn định nhiều năm nay
không có tranh chấp, không có ý kiến khiếu nại. Chính quyền địa phương cung
cấp biên bản xác định ranh giới mốc giới thửa đất năm 1997, 2010 của hai thửa
đất nguyên đơn, bị đơn đang sử dụng.
6. Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
- Tại vị trí có tranh chấp :
1. Công trình xây dựng: Tường nhà, một phần nhà (nằm trong nhà G diện
tích 73,7m2 trị giá 162.669.175đ; sân bê tông xi măng diện tích 16,2m2 và 5,3m2
trị giá 0 đồng; 01 mái tôn diện tích 16,2m2 + 5,3m2 trị giá 4.506.641đ; nền gạch
ceramic trên sân bê tông 5,3m2 trị giá 690.015đ; nhà tạm, nhà bếp, nền gạch hoa,
5
mái tôn lạnh trị giá 90.867.487đ; nhà vệ sinh diện tích 7,8m2 trị giá 21.367.271đ;
bể phốt trị giá 3.519.899đ; tường bao đoạn A5-A41 trị giá 0 đồng; tường bao đoạn
A41-A42- A43- A44 trị giá 0 đ; tường bao đoạn A44- A45- A46- A47 trị giá
270.218đ.
2. Cây cối: Vải 1 trị giá 600.000đ; vải 2 trị giá 270.000đ; ổi từ 04 đến 18 trị
giá 120.000đ/cây = 1.800.000đ; cây sung trị giá 500.000đ; cây khế trị giá
600.000đ; cây mít trị giá 380.000đ; cây móc mật trị giá 129.000đ.
- Trị giá đất: 1.100.000đ/m2.
7. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 28 tháng 6 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương đã quyết định: Không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn trả lại diện tích
đất lấn chiếm và xác định ranh giới cạnh giáp ranh của 2 thửa đất theo hiện trạng
được giới hạn bởi các điểm điểm A28, A47, A46, A45, A44, A43, A42, A41, A5
trên sơ đồ kèm theo bản án.
Ngoài ra bản án còn áp dụng điều luật, tuyên về án phí, chi phí thẩm định
định giá, quyền yêu cầu thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/7/2024 nguyên đơn bà Lê Thị V kháng
cáo toàn bộ bản án.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, kháng cáo và xuất trình thêm tài liệu photo là bản khai thân nhân người có
công với cách mạng (bản photo) có chữ ký của ông Hoàng Văn C và trình bày
chữ ký của ông C trong tài liệu này với chữ ký trong biên bản xác định ranh giới,
mốc giới năm 2010 không giống nhau. Đề nghị Hội đồng xét xử triệu tập Ủy ban
nhân dân xã T tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
để xác định nguyên nhân có sự tăng giảm diện tích đất qua từng thời kỳ và căn
cứ vào bản đồ 299 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V.
- Bị đơn không đồng ý với kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên trình
bày như tại giai đoạn sơ thẩm và xác định chữ ký trong biên bản xác định ranh
giới, mốc giới năm 2010 đúng là chữ ký của ông Q.
Hai bên đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Nguyên đơn là người cao tuổi nên được
miễn án phí dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
6
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của đương sự trong thời hạn quy định tại Điều
273 Bộ luật tố tụng dân sự là kháng cáo hợp lệ được xem xét theo trình tự phúc
thẩm. Tại phiên tòa một số người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng
đã có mặt người đại diện theo ủy quyền nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo
thủ tục chung.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyển của nguyên đơn cung cấp bản khai
thân nhân người có công với cách mạng có chữ ký của ông Hoàng Văn C nhưng
là bản photo, không đảm bảo theo quy định tại khoản 1 Điều 95 Bộ luật Tố tụng
dân sự nên không được chấp nhận xem xét.
[2] Xét kháng cáo của bà Lê Thị V:
Về kích thước và hình thể của 02 thửa đất mặc dù có sự thay đổi qua từng
thời kỳ nhưng căn cứ lời khai của các đương sự trong vụ án đều thống nhất cạnh
giáp ranh hai thửa đất có tường nhà, tường bao gồm hai đoạn (đoạn xây dựng
khoảng năm 1993, 1994; 01 đoạn xây dựng năm 2009-2010) được xây dựng khi
cụ N2 (bố ông Q) và ông C (chồng bà V) còn sống. Trong quá trình sử dụng đất
cũng như xây dựng tường bao giữa hai bên (đặc biệt là phía nguyên đơn) biết
nhưng không xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất, không có ý kiến khiếu nại gửi
đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Mặt khác, tại biên bản xác định ranh giới, cạnh giáp ranh năm 2010 đều
có chữ ký của hai bên chủ sử dụng đất (ông C, ông Q) ký giáp ranh giữa hai thửa
đất. Cạnh giáp ranh, hình thể hai thửa đất theo bản đồ đo đạc năm 2010 phù hợp
hình thể cạnh giáp ranh hiện trạng hai bên sử dụng nhiều năm qua, được các bên
thừa nhận không có tranh chấp. Như vậy, biên bản xác định ranh giới, cạnh giáp
ranh năm 2010 là sự thoả thuận, thống nhất xác định ranh giới cạnh giáp ranh giữa
hai bên. Phía nguyên đơn chỉ dựa trên bản đồ 299 để chứng minh cho việc bị đơn
sử dụng phần đất của nguyên đơn, ngoài ra không đưa ra được căn cứ chứng minh
nào khác là không phù hợp. Do đó cấp sơ thẩm xác định ranh giới của 02 thửa đất
theo hiện trạng tại các điểm A28, A47, A46, A45, A44, A43, A42, A41, A5 trên
sơ đồ kèm theo bản án là có căn cứ.
Đối với đề nghị triệu tập UBND xã T vào tham gia tố tụng với tư cách
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Tại biên bản xác minh với Ủy ban nhân
dân xã T thể hiện nguồn gốc thửa đất là đất ông cha, quá trình sử dụng đất lúc ông
C còn sống đến năm 2022 gữa các bên không trranh chấp về quyền sử dụng đất
và các cạnh thửa đất. Đồng thời tranh chấp trong vụ án này không liên quan đến
UBND xã T nên đề nghị của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không được
chấp nhận.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xác định kháng cáo của bà V
không có cơ sở chấp nhận nên cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
7
[3] Về án phí phúc thẩm: Bà V kháng cáo không được chấp nhận nhưng
là người cao tuổi nên được miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm.
[4] Những quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, Hội
đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án.
1. Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Lê Thị V. Giữ nguyên bản
án dân sự sơ thẩm số 06/2024/DS-ST ngày 28/6/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Miễn toàn bộ án phí dân sự phúc thẩm cho
bà Lê Thị V.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hải Dương;
- TAND huyện Thanh Hà;
- Chi cục THADS huyện Thanh Hà;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Bùi Đăng Huy
Tải về
Bản án số 07/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 07/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm