Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 10/02/2023 của TAND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên về tội hiếp dâm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 06/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 06/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 06/2023/HS-ST ngày 10/02/2023 của TAND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên về tội hiếp dâm |
---|---|
Tội danh: | 111.Tội hiếp dâm (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Sông Hinh (TAND tỉnh Phú Yên) |
Số hiệu: | 06/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 10/02/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG HINH, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 06/2023/HS-ST NGÀY 10/02/2023 VỀ TỘI HIẾP DÂM
Ngày 10 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở TAND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2022/HS- ST ngày 30 tháng 12 năm 2022; quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2023 của TAND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên đối với bị cáo:
Nay Y T1, sinh ngày 01-01-2004 tại: Phú Yên; Nơi cư trú: Buôn Chao, xã EaBá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Ê đê; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Y D (Ma T1), sinh năm 1978 và bà Nay Hờ BR, sinh năm 1984; vợ, con: Không; tiền án: Không.
Tiền sự: Có 3 tiền sự:
- Ngày 21-7-2020, bị Công an xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên xử lý vi phạm hành chính 375.000đ (ba trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) về hành vi Gây rối trật tự công cộng. Chưa nộp phạt.
- Ngày 05-02-2021, bị Công an xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên xử lý vi phạm hành chính 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi Gây rối trật tự công cộng. Chưa nộp phạt.
- Ngày 03-03-2021, bị Ủy ban nhân dân xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên xử lý vi phạm hành chính 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi Gây rối trật tự công cộng. Chưa nộp phạt.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 02-12-2022 đến nay.
Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ, tạm giam Công an huyện Sông Hinh.
* Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông Y D, sinh năm 1978, nơi cư trú: Buôn Chao, xã EaBá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên (cha bị cáo). Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Ngô Tấn H – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên. Có mặt.
* Bị hại: Chị Ksơr Hờ P, sinh ngày 10-9-2003, nơi cư trú: Buôn Chao, xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
* Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Trần Thị Như T2 – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Yên. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Y D (Ma T1), sinh năm 1978, bà Nay Hờ BR, sinh năm 1984; đều cư trú: Buôn Chao, xã EaBá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên (cha, mẹ bị cáo). Ông Y D - Có mặt, bà Nay Hờ BR - Vắng mặt.
* Người làm chứng:
1- Chị Ksơr Hờ V, sinh năm 1999, nơi cư trú: Buôn Chao, xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
2- Anh A Lê Y M, sinh năm 2007, nơi cư trú: Buôn Chao, xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
* Người đại diện hợp pháp cho Y M: Anh Nay Y T3, sinh năm 1999, nơi cư trú: Buôn Chao, xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên (anh Y M). Vắng mặt.
3- Anh Ksơr Y T4, sinh năm 1989, nơi cư trú: Buôn Chao, xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
4- Chị Ksơr Hờ Nh, sinh năm 1965, nơi cư trú: Buôn Chao, xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên. Có mặt.
5- Anh Nguyễn Văn T5, sinh năm 1992, nơi cư trú: Thôn 5, xã Ea Hu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đăk Lăk. Công tác tại: Công an xã Ea Bá, huyện Sông Hinh. Có mặt.
QUYẾT ĐỊNH:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa và nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tối ngày 25-12-2021, Nay Y T1 và Y M đang đi bộ về đến đoạn đường liên thôn thuộc Buôn Chao, xã EaBá thì gặp Hờ P và Ksơr Hờ V đi ngược chiều. Y T1 đến trêu ghẹo và ôm Ksơr Hờ P nhưng bị Hờ P đẩy ra và dùng tay tát vào mặt Y T1 hai cái rồi bỏ chạy. Y T1 chạy theo kéo lại, Hờ P gạt tay Y T1 ra làm áo khoác Hờ P bị rách và tiếp tục bỏ chạy. Lúc này, khoảng 19 giờ cùng ngày, Y T1 nảy sinh ý định quan hệ tình dục với Hờ P nên tiếp tục đuổi theo Hờ P và nắm tay Hờ P kéo vào bụi cây rậm ven đường đòi quan hệ tình dục, nhưng Hờ P không đồng ý, Y T1 liền ôm quật ngã Hờ P xuống đất tư thế nằm ngửa, Y T1 ngồi lên bụng và dùng hai tay đè lên hai tay Hờ P khống chế, dùng tay sờ vú và cởi cúc quần Hờ P nhưng bị Hờ P chống cự đẩy Y T1 ra và nói “tao có chồng rồi, tao báo Công an đó”, Y T1 nói “không sợ” và tiếp tục đòi quan hệ tình dục.
Cùng lúc này, Y T1 nghe tiếng Hờ V (chị ruột Hờ P) đi tìm Hờ P, sợ bị phát hiện Y T1 dùng tay bịt miệng Hờ P và đe dọa “em không được la, la là anh lấy đá đập em chết đó”, Hờ P hoảng sợ nên nằm im, Y T1 nằm nghiêng qua một bên và tiếp tục dùng tay cởi quần Hờ P, Hờ P vùng vẫy chống cự. Trong khi Y T1 và Hờ P giằng co thì Y T1 nghe tiếng còi xe Công an và người nhà Hờ P đi tìm, Y T1 sợ bị phát hiện nên nhảy sang hàng rào lưới B40 nhà anh Y Bói để thoát thân, để lại hiện trường một đôi dép xốp màu đen và 10.000đ.
Ngày 01-3-2022, Ksơr Hờ P có đơn yêu cầu khởi tố vụ án đề nghị xử lý Nay Y T1.
*Vật chứng vụ án: Đã thu giữ 01 đôi dép xốp màu đen; 10.000đ; 01 áo khoác màu đen, trắng.
Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKS-SH ngày 30-12-2022 của VKSND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên đã truy tố bị cáo Nay Y T1 về tội “Hiếp dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 141 Bộ luật Hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa:
Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã khai tại Cơ quan điều tra và theo nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, do chưa đủ tuổi thành niên, nhận thức hạn chế và trước đây giữa bị cáo và Hờ P được gia đình hứa hôn là vợ chồng, hôm đó đã uống rượu bia, để thỏa mãn dục vọng cá nhân, bị cáo đã có hành vi đòi quan hệ tình dục với Hờ P, đã biết sai. Nhờ Tòa xem xét.
*Bị hại Ksơr Hờ P trình bày: Y T1 lợi dụng đêm tối bắt cóc đưa vào bụi cây đòi quan hệ tình dục, sau khi chống cự, kêu cứu, Y T1 dọa nếu kêu la sẽ dùng đá đập vào đầu cho chết, sau đó được công an và gia đình đi tìm kịp thời phát hiện nên chưa thực hiện được hành vi giao cấu. Đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo theo quy định của pháp luật và buộc phải bồi thường danh dự, nhân phẩm số tiền 20.000.000đ.
*Những người làm chứng trình bày:
1- Chị Ksơr Hờ V: Đêm đó, hai chị em (Hờ V và Hờ P) đi chơi thì gặp và bị Y T1 có hành vi bắt cóc và đưa vào bụi cây rậm đòi quan hệ tình dục như bản Cáo trạng đã nêu, nhờ tòa xem xét.
2- Anh Nguyễn Văn T5: Anh T5 là công an xã, đêm đó được phân công tìm Y T1 và Hờ P (theo tin báo), sau khi phát hiện thì Y T1 nhảy sang hàng rào lưới B40 thoát thân, bỏ lại đôi dép và trốn luôn đêm đó, sự việc diễn ra đúng như bản Cáo trạng nêu.
3- Anh A Lê Y M: Theo lời khai thì đêm đó Y M đi bộ cùng bị cáo, sự việc xảy ra như bản Cáo trạng nêu.
4- Anh Ksơr Y T4: Y T4 là anh của bị hại, sự việc xảy ra nhanh, sau khi nghe Hờ V báo thì gia đình tổ chức đi tìm khắp nơi, nhờ có còi báo động xe của Công an xã đến thì mới phát hiện hành vi phạm tội của bị cáo T1.
5- Chị Ksơr Hờ Nh: Hờ Nh là mẹ bị hại, xác định bị hại sinh ngày 10-09- 2003, sự việc xảy ra như bản cáo trạng nêu.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích mức độ, hành vi phạm tội, hậu quả do bị cáo gây ra, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, độ tuổi phạm tội, mức hình phạt cao nhất được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội, giữ nguyên Cáo trạng đã truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Hiếp dâm”.
Áp dụng khoản 1 Điều 141, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101; khoản 2 Điều 102 BLHS. Xử phạt: Nay Y T1 từ 09 tháng đến 01 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 02-12-2022. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 592 Bộ luật dân sự: Đề nghị HĐXX ghi nhận sự tự nguyện giữa bị cáo và bị hại, theo đó bị cáo phải bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm cho bị hại số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng). Về vật chứng: Đề nghị tuyên trả cho bị cáo 01 đôi dép xốp màu đen và số tiền 10.000đ; tuyên trả cho bị hại 01 áo khoác màu đen, trắng. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
* Ông Ngô Tấn H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Yên bào chữa cho bị cáo tranh luận: Thống nhất về tội danh như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, mặc dù trước khi phạm tội lần này bị cáo đã có ba tiền sự, nhưng cần xem xét cho bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật hạn chế, trước đây bị hại Hờ P được gia đình hứa hôn là vợ chồng, lần này tuy có hành vi dùng vũ lực đòi giao cấu với bị hại nhưng chưa gây thiệt hại về thương tích cũng như chưa giao cấu được là phạm tội chưa đạt, thời điểm phạm tội bị cáo 17 tuổi 11 tháng 25 ngày (chưa đủ 18 tuổi) cần được áp dụng mức hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội. Nhờ HĐXX xem xét.
* Bà Trần Thị Như T2 - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Phú Yên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại tranh luận: Thống nhất về tội danh như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố, mặc dù thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nhưng hành vi của bị cáo đã dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực để khống chế, bắt ép bị hại phải quan hệ tình dục với bị cáo tại bụi cây rậm ven đường, việc không giao cấu được với bị hại là ngoài ý muốn của bị cáo trong khi bị hại là trẻ em (chưa đủ mười tám tuổi). Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe bị cáo và giáo dục chung.
Kiểm sát viên tranh luận, giữ nguyên quan điểm đã truy tố và mức hình phạt đề nghị HĐXX xem xét đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Hinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Hinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, tuân thủ đầy đủ theo quy định của thủ tục tố tụng về thu thập tài liệu, chứng cứ của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo, bị hại không ai có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở kết luận:
Tối ngày 25-12-2021, tại bụi cây rậm ven đường thuộc buôn Chao, xã Ea Bá, huyện Sông Hinh, sau khi nảy sinh ý định giao cấu với Hờ P, Nay Y T1 đã có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để khống chế đưa bị hại Hờ P vào bụi rậm, dùng tay sờ vú, cởi cúc quần để thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn người khác, Hờ P chống cự quyết liệt và kêu la thì Công an xã truy tìm và người nhà phát hiện, bị cáo đã chạy trốn, bỏ lại hiện trường một đôi dép nhựa và 10.000đ.
Như vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm” theo quy định tại khoản 1 Điều 141 BLHS. Do đó, Cáo trạng của VKSND huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người khác được pháp luật bảo vệ cần phải xử lý tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.
[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Không có.
Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo không có tiền án, bị cáo là dân tộc thiểu số nhận thức có hạn chế, sau khi phạm tội bị cáo thật thà khai báo, trước đây bị hại Hờ P được gia đình hứa hôn với bị cáo, bị cáo và bị hại là vợ chồng, tại thời điểm xảy ra hành vi phạm tội thì bị hại đã có chồng, hiện tại chồng bị hại đã đi nghĩa vụ quân sự, nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 BLHS.
[5] Về hình phạt:
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực nhận thức, năng lực điều khiển hành vi, đã có ba tiền sự về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, không nộp tiền phạt, không chịu sửa chữa, chỉ vì ham muốn dục vọng tầm thường, bị cáo đã dùng vũ lực, quật ngã, đè lên người, sờ vú, mở cúc quần Hờ P, đe dọa đập đá vào đầu cho chết nếu Hờ P kêu la, để thực hiện hành vi hiếp dâm.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, gây mất an ninh trật tự xã hội tại địa P.
Tuy nhiên, thời điểm phạm tội bị cáo chưa thành niên (17 tuổi 11 tháng 25 ngày) mức hình phạt cao nhất áp dụng không quá ¾ mức hình phạt đối với người thành niên; bị cáo phạm tội chưa đạt mức hình phạt cao nhất không quá ½ mức hình phạt nêu trên và chấp nhận lời bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối với bị cáo, nhưng không thể chấp nhận lời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại (vì lúc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với bị hại thì bị hại đã 18 tuổi 03 tháng 15 ngày) không phải là trẻ em. Chấp nhận mức án mà kiểm sát viên đề nghị tại tòa, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng chống tội phạm nói chung.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 592 Bộ luật dân sự; Điều 48 BLHS: Ghi nhận sự tự nguyện giữa bị cáo và bị hại, theo đó bị cáo phải bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm cho bị hại số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
[7] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Chấp nhận đề nghị xử lý vật chứng của trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại: Tuyên tiếp tục tạm giữ số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng) của bị cáo để bảo đảm cho việc thi hành án.
Chấp nhận đề nghị xử lý vật chứng mà kiểm sát viên đề nghị tại tòa: Tuyên trả cho bị cáo 01 đôi dép xốp màu đen; tuyên trả cho bị hại 01 áo khoác màu đen trắng.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Nay Y T1 phạm tội “Hiếp dâm”.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 141; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91;
khoản 1 Điều 101; khoản 2 Điều 102 BLHS:
1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nay Y T1 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02-12-2022.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 BLHS và Điều 592 Bộ luật dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện bồi thường giữa bị cáo và bị hại, theo đó bị cáo Nay Y T1 phải bồi thường danh dự, nhân phẩm bị xâm phạm cho bị hại Ksơr Hờ P số tiền 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 BLDS.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tuyên trả 01 đôi dép xốp màu đen cho bị cáo; tuyên trả 01 áo khoác màu đen trắng cho bị hại và tuyên tiếp tục tạm giữ số tiền 10.000đ (mười nghìn đồng) của bị cáo để bảo đảm việc thi hành án.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nay Y T1 phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.000.000đ (một triệu đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng buộc bị cáo phải nộp 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!