Bản án số 05/2024/DS-PT ngày 28/06/2024 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 05/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 05/2024/DS-PT ngày 28/06/2024 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Lai Châu
Số hiệu: 05/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: .
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 05/2024/DS-PT
Ngày: 28/6/2024
V/v: “Yêu cầu tuyên Hợp đồng
CNQSDĐ vô hiệu và giải quyết
hậu quả của hợp đồng vô hiệu”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Bùi Ngọc Bính.
Các Thẩm phán: Bà Giang Thị Vượng;
Bà Phan Thị Phương.
Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Lân - Thẩm tra viên, TAND tỉnh Lai
Châu;
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Lai Châu tham gia phiên tòa:
Hồ Mỹ Anh - Kiểm sát viên
Ngày 28 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu
xét xử công khai ván dân sự phúc thẩm thụ số: 07/2024/TLPT-DS ngày
11/4/2024 về Yêu cầu tuyên Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ hiệu
giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 04/2024/DS-ST ngày 05/3/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2024/QĐ-PT ngày 13/6 /2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hoàng Văn H, sinh năm 1979. Địa chỉ: Tổ B,
phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Văn
H1. Địa chỉ: B khu Đ, xã T, T, Hà Nội (Vắng mặt).
- Bị đơn: ông Tấn N, sinh năm 1958. Địa chỉ: Khu phố G, thị trấn
M, huyện M, tỉnh Lai Châu (có mặt).
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Vàng Thị T, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tổ B, phường Đ, thành phố
L, tỉnh Lai Châu (có mặt).
2
+ Ủy ban nhân dân phường T, thành phố L, tỉnh Lai Châu. Địa chỉ: Tổ
D, phường T, thành phố L, tỉnh Lai Châu. Người đại diện theo pháp luật:
Hoàng Thị Kim Q - Chức vụ: Chủ tịch (Vắng mặt có lý do).
Người kháng cáo: Vàng Thị T, sinh năm 1983. Địa chỉ: Tổ B,
phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu. người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản án dân sthẩm số 04/2024/DS-ST ngày 05/3/2024 của
TAND thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thì vụ án có nội dung như sau:
Người khởi kiện ông Hoàng Văn H trình bày:
Ngày 05/7/2010 ông Hoàng Văn H cùng vợ bà Vàng Thị T nhận
chuyển nhượng thửa đất số 70, diện tích 140,5m2, B, khu dân 2C
phường T, thị L của gia đình ông Đoàn Trọng C Nguyễn Thị T1
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN276060 do Ủy ban nhân dân
thị L cấp ngày 21/4/2009 đứng tên hộ ông Đoàn Trọng C Nguyễn
Thị Tuyết . Tiền mua đất tiền chung của hai vợ chồng. Thửa đất trên do
một mình T đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tất cả thủ
tục mua, nhận chuyển nhượng, đăng ký biến động sang tên quyền sdụng
đất do bà T thực hiện. Đến giữa tháng 7/2010 sau khi đăng ký biến động sang
tên quyền sử dụng đất xong thì T đưa cho ông H xem giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã đăng ký biến động sang tên bà T và bà T cất và quản
giấy chứng nhận quyền sdụng đất đó, thỉnh thoảng 2 vợ chồng ra kiểm
tra thực địa thửa đất và vẫn quản lý thửa đất đó.
Đến 10/8/2021, ông H mới biết việc T đã tý chuyển nhượng thửa
đất trên cho ông Tấn N tnăm 2010 với stiền 800.000.000 đồng
ông N đã thanh toán 70.000.000 đồng theo hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất schứng thực 316 quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy
ban nhân dân phường T chứng thực ngày 26/7/2010. Tại trang 4 của giấy
chứng nhận Phòng Tài nguyên & Môi trường thị L đã xác nhận đăng
biến động sang tên ông Vũ Tấn N ngày 28/7/2010. Ông T cho rằng việc bà T
ông N chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Ủy ban nhân dân phường T
chứng thực hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm các quy
định pháp luật dân sự, Luật đất đai, Luật hôn nhân gia đình trong giao kết
và chứng thực hợp đồng.
Vì vậy, ông Hoàng Văn H yêu cầu Tòa án tuyên Hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, số chứng thực: 316 quyển số 01/2010/TP/CC-
SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân phường T, thị L (nay là thành phố L),
tỉnh Lai Châu chứng thực ngày 26/7/2010 giữa bên chuyển nhượng Vàng
Thị T bên nhận chuyển nhượng ông Tấn N. Tại phiên a thẩm,
nguyên đơn ông Hoàng Văn H thay đổi yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án
tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số chứng thực: 316
3
quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân phường T, thị
L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chứng thực ngày 26/7/2010 giữa bên
chuyển nhượng Vàng Thị T và bên nhận chuyển nhượng ông Tấn N
vô hiệu.
Bị đơn ông Vũ Tấn N trình bày:
Ngày 21/7/2010, ông nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
Vàng Thị T thửa đất số 70, diện tích 140,5m2, B, khu dân S,
phường T, thị xã L (nay là thành phố L), tỉnh Lai Châu theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AN 276060 do Ủy ban nhân dân thị L cấp ngày
21/4/2009 nhưng không qua công chứng, khi đó ông có giao cho bà T
10.000.000 đồng để đặt cọc làm thtục trước, đồng thời ông sẵn vào
một số bản hợp đồng mẫu chưa ghi nội dung, để cho T đi làm thủ tục
chuyển nhượng với quan Nhà nước thẩm quyền. Đến ngày 30/7/2010
ông đã giao cho T số tiền 350.000.000 đồng để lấy sổ đỏ giấy giao
nhận tiền viết tay giữa ông và T. Thửa đất Vàng Thị T chuyển nhượng
cho ông là tài sản riêng của T, do đó thủ tục chuyển nhượng ông chỉ làm
việc với T ông đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với T. Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ông đã được nhận sau đó ông làm mất từ năm
2015 ông đã làm thủ tục xin cấp lại. Tổng số tiền ông đã giao cho T
360.000.000 đồng, ông không ký hợp đồng nào với T với giá trị chuyển
nhượng 800.000.000 đồng cũng chưa lần nào giao số tiền 70.000.000
đồng cho bà T.
vậy, ông Hoàng Văn H yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, số chứng thực: 316 quyển số 01/2010/TP/CC-
SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân phường T, thị L (nay là thành phố L),
tỉnh Lai Châu chứng thực ngày 26/7/2010 giữa ông và bà ng Thị T vô hiệu
và ông đề nghị Tòa án xem xét giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo
quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Vàng Thị T trình bày:
Ngày 05/7/2010 vợ chồng nhận chuyển nhượng quyền sdụng
đất của ông Đoàn Trọng C Nguyễn Thị Tuyết t đất số 70, diện tích
140,5m2, B, khu dân S, phường T, thị L (nay thành phố L), tỉnh
Lai Châu theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN 276060 do Ủy ban
nhân dân thị L cấp ngày 21/4/2009. Thửa đất trên do một mình đại
diện và đi làm thủ tục, do trong gia đình mọi việc đều do quyết định và tự
thực hiện, mọi thu nhập, lương hàng tháng của ông H đều đưa cho bà. Đến
tháng 7/2010 bà đăng ký biến động sang tên quyền sử dụng đất và có đưa cho
ông H chồng xem giấy chứng nhận quyền sdụng đất rồi bà cất giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đó đi và cũng không thấy ông H hỏi gì.
Do quen biết với ông N và biết ông N nhu cầu mua đất tại thành phố
L, đã giới thiệu ông N mua thửa đất trên, hai bên thỏa thuận bằng miệng
giá chuyển nhượng 800.000.000 đồng, ông N đặt cọc cho 70.000.000
đồng hẹn số tiền còn lại sẽ trả sau. Ngày 26/7/2010 bà ông N đến Ủy
4
ban nhân dân phường T để làm thủ tục ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất đối với thửa đất trên, ông N thống nhất với nhau ghi giá
chuyển nhượng 60.000.000 đồng để giảm bớt tiền thuế, thực tế giá chuyển
nhượng thửa đất trên 800.000.000 đồng, do ông N bận nên T tự đi làm
hợp đồng nhờ người khác thay ông N do ông N xa. Ngày 28/7/2010
sau khi đăng xong T đã thông báo cho ông N ra lấy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trả nốt 730.000.000 đồng cho nhưng ông N không
ra, đến nay ông N chưa trả nốt tiền cho bà và giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất do bà quản lý hiện đã bị kẻ gian đột nhập lấy mất. Đến ngày 10/8/2021 bà
T mới nói cho chồng ông H biết việc đã chuyển nhượng thửa đất trên
cho ông Tấn N. Đến tháng 11/2021 ông H chồng khởi kiện ra Tòa án
nhân dân thành phố Lai Châu do tự ý định đoạt tài sản chung của vợ
chồng, khi chuyển nhượng không hỏi ý kiến của ông H chồng bà, mặt khác
đến nay bà cũng chưa nhận đủ tiền của ông N.
Do đó, đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, số chứng thực: 316 quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy
ban nhân dân phường T, thị xã L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chứng
thực ngày 26/7/2010 giữa và ông Tấn N hiệu và giải quyết hậu quả
của hợp đồng hiệu, đnghị ông N trả lại thửa đất tiền phí chuyển
nhượng 10.000.000 đồng, sẽ trả lại cho ông N 70.000.000 đồng, trừ đi
10.000.000 đồng tiền phí, còn lại sẽ trả ông cho N 60.000.000 đồng.
Còn đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà và ông
Tấn N ông N cung cấp cho Tòa án với giá chuyển nhượng trong hợp
đồng 350.000.000 đồng là hình thức vay tiền của ông N chứ không phải
thỏa thuận giá chuyển nhượng đất 350.000.000 đồng. Ông N bảocứ
vào hợp đồng rồi ông lấy tiền đưa cho nhưng thực tế chưa nhận được tiền
của ông N, chỉ nhận được 70.000.000 đồng do ông N chuyển khoản cho bà.
Đại din theo pháp lut của người có quyn lợi, nghĩa vụ liên quan y
ban nhân dân phường T trình bày:
Theo hồ sơ lưu trữ tại Ủy ban nhân dân phường T thể hiện: ngày
26/7/2010 Ủy ban nhân dân phường T chng thực hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tấn N và Vàng Thị T, hồ lưu
bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bản sao chng minh tcủa
ông N, T. Theo hồ các bên tự nguyện thỏa thuận giao kết, năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, chữ nhưng không điểm chỉ. Việc y ban nhân
dân phường T chứng thực đúng thẩm quyền. Tuy nhiên hình thức văn bản
chứng thực n thiếu chưa đảm bảo theo quy định như: hợp đồng chuyển
nhượng chưa ch tắt của người yêu cầu chng thực, chưa đóng dấu
giáp lai vào các trang, thiếu bản sao sổ hộ khẩu. Nay ông H khởi kiện đề nghị
hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Vàng Thị T ông
Tấn N, Ủy ban nhân dân phường T không ý kiến gì, đề nghị Tòa giải
quyết theo quy định pháp luật.
5
Tại bản án dân sự phúc thẩm số 04/2024/DSPT ngày 05/3/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Lai Châu đã quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn H yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Vàng Thị T:
- Tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số chứng thực: 316
quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD được Ủy ban nhân dân phường T, thị
L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chng thực ngày 26/7/2010 giữa
bên chuyển nhượng Vàng Thị T bên nhận chuyển nhượng ông Tấn
N đối với thửa đất số 70, diện tích 140,5 m
2
, địa chỉ thửa đất: B, khu dân
cư B, phường T, thị xã L, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AN276060 do Ủy ban nhân dân thị L cấp ngày 21/4/2009 (nay thửa số
163, tờ bản đồ số 89, diện tích 140,5 m
2
, địa chỉ: phường T, thành phố L, tỉnh
Lai Châu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 453910 do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh L cấp lại ngày 20/6/2022 mang tên ông Tấn
N) vô hiệu.
- Về việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
+ Buộc bà Vàng Thị T phải có trách nhiệm: Hoàn trả cho ông Tấn N
số tiền 350.000.000 đồng; Bồi thường cho ông Vũ Tấn N số tiền 821.600.000
đồng.Tổng cộng Vàng Thị T phải có trách nhiệm trả cho ông Vũ Tấn N số
tiền là 1.171.600.000 đồng.
+ Buộc ông Vũ Tấn N phải giao lại cho ông Hoàng Văn H, bà Vàng Thị
T thửa số 163, tờ bản đồ số 89, diện tích 140,5 m
2
, địa chỉ: phường T, thành
phố L, tỉnh Lai Châu, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 453910
do Sở Tài nguyên Môi trường tỉnh L cấp lại ngày 20/6/2022 đứng tên ông
Tấn N từ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AN276060 bản gốc
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CX 453910 do Sở Tài nguyên i
trường tỉnh L cấp lại ngày 20/6/2022 đứng tên ông Vũ Tấn N.
- Về án phí dân sự sơ thẩm:
+ Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị đơn ông Vũ Tấn N;
+ Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu độc lập Vàng
Thị T phải chịu 47.148.000 đồng án phí dân sthẩm. Vàng Thị T đã
nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai số: AA/2021/0001667
ngày 10/7/2023 tại Chi cục thi hành án n sự thành phố Lai Châu. Nay
Vàng Thị T còn phải nộp 46.848.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
+ Hoàn trả lại cho nguyên đơn ông Hoàng Văn H số tiền tạm ứng án
phí đã nộp 3.000.000 đồng theo biên lai số: AA/2021/0001025 ngày
23/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu.
- Ngoài ra, bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, quyền thi hành án,
quyền kháng cáo theo luật định.
6
Nội dung kháng o: Ngày 18/3/2024, người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan Vàng Thị T kháng cáo bản án thẩm về mức bồi thường cho ông
Tấn N do hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất, số chứng thực:
316 quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân phường T,
thị xã L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chứng thực ngày 26/7/2010 giữa
bên chuyển nhượng Vàng Thị T bên nhận chuyển nhượng ông Tấn
N bị tuyên hiệu phần án phí thẩm tại. Tại phiên tòa phúc thẩm,
Vàng Thị T giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm T trình bày: vẫn giữ nguyên nội dung kháng
cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại phần lỗi giữa ông Tấn
N khi hợp đồng hiệu thì ông N đều phải lỗi như nhau. Toà án
nhân dân thành phố Lai Châu buộc phải chịu 80% lỗi ông N phải chịu
20% lỗi không công bằng. Do vậy không nhất trí với nội dung án
thẩm đã giải quyết về phần hậu quả của hợp đồng hiệu, đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét giải quyết về phần lỗi giữa ông N mỗi người phải
chịu 50%.
Ông N tnh bày: Khi ông T thoả thuận về việc mua bán, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, T yêu cầu đạt cọc cho T 10.000.000
đồng để thiện làm thủ tục giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà T
tôi ra UBND phường T mua các mẫu đơn để làm thủ tục chuyển
nhượng. Do bận công việc nên tôi đã điền các thông tin nhân tên
vào các biểu mẫu đưa cho bà T để làm thtục chuyển nhượng. Sau đó một
thời gian, bà thiện yêu cầu tôi chuyển trả toàn bộ số tiền là 350.000.000 đồng
theo giá cả đã thoả thuận và tôi đã trả toàn bộ số tiền trên cho bà T và có làm
giấy tờ, bà T đã nhận tiền ký vào đó. Việc T làm hợp đồng chuyển
nhượng ghi 60.000.000 đồng có xác nhận của UBND phường T là do T tự
làm tôi không biết. Do bận việc tôi không trực tiếp làm hợp đồng chuyển
nhượng với T đã nhờ người quen ra làm hộ ký vào các thủ tục
rồi đưa cho thiện, bản thân tôi cũng nhận thức được hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa tôi T bị vô hiệu tôi cũng lỗi một
phấn. Tại bản án thẩm của Toà án nhân dân thành phố Lai Châu buộc tôi
phải chịu 20% lỗi phần hơi cao. Tuy nhiên tôi cũng đồng ý với cách
tính lỗi đó nên tôi không thắc mắc và không yêu cầu gì thêm.
Nguyên đơn ông Hoàng Văn H trình bày: Việc Toà án nhân dân thành phố
Lai Châu giải quyết tuyên hợp đồng hiệu hoàn toàn đúng với nội dung
yêu cầu của ông nên ông không thắc mắc yêu cầu gì. Tại phiên toà phúc
thẩm, ông đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu xem xét giải quyết để ông
sớn lấy lại đất của mình để sử dụng.
Đại diện viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày quan điểm: Kiểm sát viên
đã đánh giá về việc giải quyết vụ án của bản án thẩm số 04/2024/DS-ST
ngày 05/3/2024 của TAND thành phố Lai Châu. Đánh giá mức độ lỗi của các
bên giữa ông N T đề xuất quan điểm giải quyết vụ án. Đề nghị Hội
7
đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân
sự; Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12
năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
- Không chấp nhận kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan yêu cầu độc lập Vàng Thị T, giữ nguyên bản án số
04/2024/DS-ST ngày 05/3/2024 của TAND thành phố Lai Châu, tỉnh Lai
Châu.
- Về án phí: bà T phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án; trình bày của các
bên đương sự được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng; ý
kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tại phiên tòa phúc
thẩm; Xét kháng cáo của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về ttụng: Tòa án cấp thẩm xác định quan htranh chấp, thực hiện
các thủ tục tố tụng đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đơn
kháng cáo của bà Vàng Thị T trong thời hạn luật định nên được xem xét theo
trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bà Vàng Thị T: Kháng cáo về mức bồi thường cho ông
Tấn N do hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số chứng thực:
316 quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân phường T,
thị L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chứng thực ngày 26/7/2010 bị
tuyên vô hiệu và phần án phí sơ thẩm tại bản án sơ thẩm:
[2.1] Xét hình thức của hợp đồng:
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và bị đơn cung cấp 02 hợp đồng
cùng mục đích chuyển nhượng quyền sdụng đất đối với thửa đất số 70,
diện tích 140,5m2, Lô B, khu dân cư B, phường T, thị xã L (nay là thành phố
L), tỉnh Lai Châu giữa bên chuyển nhượng Vàng Thị T bên nhận
chuyển nhượng ông Tấn N, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AN276060 do UBND thị xã L cấp ngày 21/4/2009, cụ thể:
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất số chứng thực: 316
quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD được Ủy ban nhân dân phường T, thị
L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chứng thực ngày 26/7/2010 giữa
bên chuyển nhượng Vàng Thị T bên nhận chuyển nhượng ông Tấn
N do nguyên đơn giao nộp (BL 03-06): tại Điều 2 th hiện giá chuyển
nhượng là 60.000.000 đồng, phần chữ ký có bên bán bà Vàng Thị T, bên mua
ông Vũ Tấn N. Hợp đồng đã được chứng thực tại Ủy ban nhân dân phường T
đúng quy định tại điểm b khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai 2003. Tuy nhiên
xét thấy tại biên bản lấy lời khai ngày 22/11/2023 (BL 254) T khai hợp
đồng trên thể hiện giá 60.000.000 đồng là do T tự đi làm nhờ người
khác ký thay cho ông Vũ Tấn N do ông N xa và ông N cũng thừa nhận ông
8
không được vào hợp đồng này, do đó hợp đồng y không đảm bảo theo
đúng quy định tại Điều 122 Bộ luật dân sự năm 2005.
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 21/7/2010 do bị
đơn ông Tấn N cung cấp (BL 53-54): tại Điều 2 thể hiện giá trị chuyển
nhượng là 350.000.000 đồng, chữ của Vàng Thị T ông Tấn
N, T, ông N đều thừa nhận cùng vào hợp đồng trên. Tuy nhiên hợp
đồng không được công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân
dân xã, phường, thị trấn nơi đất là chưa đảm bảo vhình thức theo quy
định tại điểm b khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai năm 2003. Quá trình giải
quyết vụ án, bị đơn khai rằng hai bên thỏa thuận giá trị chuyển nhượng quyền
sử dụng đất 350.000.000 đồng, hai bên làm hợp đồng không qua công
chứng. Ngoài ra, bị đơn cũng cung cấp phiếu chi tiền đề ngày 30/7/2010 (BL
55) thể hiện bà T đã nhận đủ số tiền 350.000.000 đồng theo hợp đồng chuyển
nhượng số 316, chữ ký xác nhận của T, ông N. Tại biên bản lấy lời
khai ngày 22/11/2023 (BL 254) tại phiên tòa, T cũng thừa nhận đã
vào hợp đồng ký vào giấy chi tiền 350.000.000 đồng ngày 30/7/2010.
Tuy nhiên T khai hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất này hình
thức T vay tiền của ông N ch không phải thỏa thuận giá chuyển
nhượng đất 350.000.000 đồng, còn đối với phiếu chi tiền ngày 30/7/2010
vào mục người nhận nhưng chưa được nhận tiền của ông N. Xét
thấy hợp đồng này thể hiện hai bên thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất số 70,
diện tích 140,5m2. B, khu dân B, phường T, thị L với giá
350.000.000 đồng chữ của ông N và T. Mặt khác phiếu chi tiền
ngày 30/7/2010 phần do chi thể hiện: trả tiền mua đất theo hợp đồng
chuyển nhượng số 316 ngày 26/7/2010, người nhận đã nhận đủ số tiền
350.000.000 đồng nhận. Do đó Hội đồng xét xxác định gthực tế
khi các bên thực hiện việc chuyển nhượng là 350.000.000 đồng.
Như vậy xác định hợp đồng giá chuyển nhượng 60.000.000 đồng
không có chữ ký của ông Vũ Tấn N là giả tạo nhằm che giấu hợp đồng có giá
chuyển nhượng 350.000.000 đồng, do đó hiệu theo quy định tại Điều
122, 129 Bộ luật dân sự năm 2005. Hợp đồng giá chuyển nhượng
350.000.000 đồng không đảm bảo về hình thức theo quy định tại Điều 127
Luật đất đai năm 2003.
[2.2] Xét về nội dung của hợp đồng:
Xét thấy ông Hoàng Văn H Vàng Thị T đăng ký kết hôn ngày
14/3/2007 tại Ủy ban nhân dân phường Q, thị L, tỉnh Lai Châu. Ngày
05/7/2010, Vàng Thị T nhận chuyển nhượng thửa đất số 70, diện tích
140,5m2, B, khu dân B, phường T, thị L (nay thành phố L) của
gia đình ông Đoàn Trọng C Nguyễn Thị T1 theo Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất số AN276060 do Ủy ban nhân dân thị L cấp ngày
21/4/2009, ông H T đều khai tiền mua thửa đất trên là tiền chung của
hai vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. N vậy căn cứ theo quy định tại
9
khoản 1 Điều 27 Luật hôn nhân gia đình năm 2000, quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Việc định đoạt
quyền sử dụng đối với thửa đất trên phải có sự thỏa thuận của vchồng theo
quy định tại Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên khi bà
T giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Tấn N,
bà T không thỏa thuận, bàn bạc với chồng, do đó xâm phạm đến quyền và lợi
ích hợp pháp của ông H vi phạm quy định tại Điều 219, 223 Bộ luật dân
sự 2005. Như vậy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số chng
thực: 316 quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD được Ủy ban nhân dân
phường T, thị L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chứng thực ngày
26/7/2010 giữa bên chuyển nhượng Vàng Thị T bên nhận chuyển
nhượng ông Vũ Tấn N vô hiệu.
Do vậy, HĐXX thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Hoàng
Văn H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập bà Vàng
Thị T về việc tuyên hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất, số chứng
thực: 316 quyển số 01/2010/TP/CC-SCT/HĐGD do Ủy ban nhân dân
phường T, thị L (nay thành phố L), tỉnh Lai Châu chứng thực ngày
26/7/2010 giữa bên chuyển nhượng Vàng Thị T bên nhận chuyển
nhượng ông Vũ Tấn N vô hiệu là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật.
[2.3] Xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu:
Theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 thì hợp đồng hiệu
không làm phát sinh quyền nghĩa vụ của các bên, do vậy cần buộc trả cho
nhau những đã nhận bồi thường thiệt hại. Do vậy T phải trách
nhiệm trả cho ông Vũ Tấn N số tiền 350.000.000 đồng và ông Vũ Tấn N phải
giao lại cho ông Hoàng Văn H, bà Vàng Thị T thửa đất số 70, diện tích
140,5m2, B, khu dân B, phường T, thị L (nay là thành phố L) theo
Giấy quyền sử dụng đất số AN276060 do Ủy ban nhân dân thị xã L cấp ngày
21/4/2009 (nay thửa đất số 163, tờ bản đồ số 89, diện tích 140,5m2, địa
chỉ: phường T, thành phố L, tỉnh Lai Châu theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CX 453910 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp lại ngày
20/6/2022 đứng tên ông Tấn N) bản gốc giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CX 453910 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh L cấp lại ngày
20/6/2022 đứng tên ông Vũ Tấn N.
Tại các biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, bà T đều khai tiền mua đất
của ông Đoàn Trọng C, bà Nguyễn Thị T1 tiền chung của 2 vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, tuy nhiên T lại một mình tự quyết định thực
hiện việc chuyển nhượng thửa đất trên cho ông N mà không bàn bạc, thỏa
thuận với chồng ông H, do vậy T lỗi chính làm cho hợp đồng
hiệu. Ông N cũng một phần lỗi khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất không tìm hiểu quy định của pháp luật. Xét vlỗi, T phải chịu 80%
lỗi, còn ông N phải chịu 20% lỗi. Như vậy, theo chứng thư thẩm định giá số
27.070823.A.TA002/CT-VFI ngày 10 tháng 8 năm 2023 của Công ty cổ
10
phần T2 (BL 220-221), thửa đất tại thời điểm tháng 8/2023 giá trị
1.377.000.000 đồng. Theo giá trị chuyển nhượng giữa bà Vàng Thị T với ông
Tấn N 350.000.000 đồng. Do đó, HĐXX thẩm xác định giá trị ông
N bị thiệt hại thực tế 1.377.000.000 đồng 350.000.000 đồng =
1.027.000.000 đồng (đây là phần thiệt hại trượt giá do hợp đồng vô hiệu).
T phải chịu 80% của số thiệt hại = 821.600.000 đồng, ông N phải chịu 20%
của số thiệt hại = 205.400.000 đồng là chính xác.
[2.4] Đối với ý kiến của Vàng Thị T cho rằng và ông Tấn N
thỏa thuận giá chuyển nhượng thửa đất trên là 800.000.000 đông, nhưng ông
N mới trả được cho số tiền 70.000.000 đồng, còn lại 730.000.000 đồng
ông N chưa trả và bà T cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
với giá 350.000.000 đồng hình thức T vay tiền của ông N chứ không
phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 70,
diện tích 140,5m2, B, khu dân B, phường T, thị L. Tuy nhiên, quá
trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, T không tài liệu, chứng cứ để
chứng minh. Do đó, HĐXX sơ thẩm không xem xét giải quyết đúng quy
định pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
[2.5] Về án phí dân sự thẩm: Người quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập bà Vàng Thị T phải chịu 47.148.000 đồng án phí dân
sự thẩm đối với giá trị tài sản phải thc hiện nghĩa vụ theo quy định tại
khoản 3 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu tham gia
phiên toà trình bày quan điểm đã đánh giá về việc giải quyết vụ án của bản
án sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 05/3/2024 của TAND thành phố Lai
Châu. Đánh giá mức độ lỗi của các bên giữa ông N bà T đề xuất quan
điểm giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308;
khoản 1 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản sử dụng án
phí và lệ phí.
Không chấp nhận kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
yêu cầu độc lập Vàng Thị T, giữ nguyên bản án số 04/2024/DS-ST
ngày 05/3/2024 của TAND thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Buộc bà T
phải chịu án phí Dân sự phúc thẩm.
Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên toà hôm nay là
hoàn toàn có căn cứ, cần chấp nhận
Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng
đủ căn cứ đ kết luận: Hội đồng xét xử thẩm đã quyết định mức bồi
thường và án phí dân sự thẩm đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật;
kháng cáo của bà Vàng Thị T không có cơ sở chấp nhận.
11
[3] Về án phí:
- Án phí thẩm: Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu
độc lập Vàng Thị T phải chịu 47.148.000 đồng án phí dân sthẩm;
Xác nhận Vàng Thị T đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên
lai số: AA/2021/0001667 ngày 10/7/2023 tại Chi cục thi hành án dân s
thành phố Lai Châu. Nay ng Thị T còn phải nộp 46.848.000 đồng án
phí dân sự sơ thẩm.
- Án pphúc thẩm: Kháng cáo của Vàng Thị T không được chấp
nhận nên phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308; Khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng Dân s
Khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
. Tuyên xử:
[1] Không chấp nhận kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vliên quan
Vàng Thị T. Giữ nguyên bản án thẩm số 04/2024/DSPT ngày
05/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu.
[2] Về án phí:
- Án phí sơ thẩm: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vàng Thị
T phải chịu 47.148.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận bà Vàng Thị T
đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số: AA/2021/0001667
ngày 10/7/2023 tại Chi cục thi hành án dân sthành phố Lai Châu; nay bà
Vàng Thị T còn phải nộp 46.848.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
- Án pphúc thẩm: Kháng cáo của Vàng Thị T không được chấp
nhận nên phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 BLDS năm
2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi
nh án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án,
tự nguyện thi hành án hoặc bcưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, 7 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
12
Các nội dung của bản án thẩm không kháng cáo, không bkháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bán án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Lai Châu
- TAND; VKSND thành phố;
- Chi cục THADS thành phố;
- Các đương sự; Người BVQVLIHP;
- Lưu HS.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Bùi Ngọc Bính
Tải về
Bản án số 05/2024/DS-PT Bản án số 05/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 05/2024/DS-PT Bản án số 05/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất