Bản án số 04/2024/DS-PT ngày 05/06/2024 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 04/2024/DS-PT ngày 05/06/2024 của TAND tỉnh Lai Châu về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lai Châu |
Số hiệu: | 04/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 05/06/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Huỷ án sơ thẩm để xét xử lại |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU
Với thành phần hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Giang Thị Vượng.
- Các Thẩm phán: 1. Ông Vũ Đức Long;
2. Bà Phan Thị Phương.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hoài Thu - Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân tỉnh Lai Châu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân tỉnh Lai Châu tham gia phiên toà: Bà
Nguyễn Thị Dịu - Kiểm sát viên.
Trong ngày 05 tháng 6 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lai Châu,
tỉnh Lai Châu mở phiên toà dân sự phúc thẩm vụ án dân sự thụ lý số:
06/2024/TLST-DS, ngày 11 tháng 3 năm 2024 về việc: “Tranh chấp quyền sử
dụng đất; yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu;
yêu cầu huỷ biến động trong giấy quyền sử dụng đất” .
Do bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST, ngày 31 tháng 01 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu bị kháng cáo và kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 06/2024/QĐ-PT, ngày
18 tháng 4 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 04/2024/QĐPT-DS, ngày
15 tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1972. Địa chỉ: Khu phố B, thị
trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu (Có mặt).
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Trần Thị H -
Luật sư thuộc văn phòng luật sư Trần H. Địa chỉ: Số nhà B, đường N, Tổ I
phường T, thành phố L, tỉnh Lai Châu (Có mặt)
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 04/2024/DS- PT
Ngày: 05/6/2024
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất;
yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu;
yêu cầu huỷ biến động trong giấy
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

2
2. Bị đơn: Ông Dương Công T, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khu phố H, thị
trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt)
3. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lò Văn N1, sinh năm 1974; Bà Lù Thu H1, sinh năm 1977. Cùng địa
chỉ: Thị trấn N, huyện N, tỉnh Lai Châu (Đều Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Văn H2, sinh năm 1982; Bà Dương Thị Thúy V, sinh năm
1982; Bà Nguyễn Thị Lệ T1, sinh năm 1984. Cùng địa chỉ: Khu phố H, thị trấn
M, huyện M, tỉnh Lai Châu (Đều vắng mặt).
- Chi nhánh V1 đăng ký đất đai huyện M, tỉnh Lai Châu. Người đại diện theo
pháp luật: Ông Trần Như A - Chức vụ: Giám đốc (Vắng mặt)
- Ông Lê Văn H3, sinh năm 1978. Địa chỉ: Tổ A, phường Đ, thành phố L,
tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
- Người đại điện theo uỷ quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Lê Văn H3: Ông Lò Văn H4 - Luật sư thuộc Công ty L1; Địa chỉ: Tổ B, phường
Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
4. Những người làm chứng:
- Ông Đỗ Mạnh T2, sinh năm 1977. Địa chỉ: Tổ F, phường Đ, thành phố L,
tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1968. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M,
huyện M, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
- Ông Trịnh Xuân H5, sinh năm 1955. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện
M, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
- Ông Nguyễn Anh T4, sinh năm 1973. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M,
huyện M, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
- Bà Trần Thị K, sinh năm 1969. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện M,
tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
- Ông Quách Văn T5, sinh năm 1984. Địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện
M, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).
5. Người được Tòa án triệu tập:
- Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu. Người đại diện theo
pháp luật: Ông Nguyễn Văn T6 - Chức vụ: Chủ tịch. Địa chỉ: Thị trấn M, huyện
M, tỉnh Lai Châu.
6. Người kháng cáo: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Nghi .
7. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai
Châu.

3
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án như
sau:
Ngày 20/6/2014, Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu đã ban hành
Quyết định số 909A/QĐ-UBND về việc cấp cho hộ gia đình ông Lò Văn N1 và
bà Lù Thu H1 01 thửa đất tái định cư tại khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai
Châu nhưng chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng (GCNQSD) đất. Cũng
trong tháng 6/2015, do không có nhu cầu sử dụng nên ông N1 và bà H1 đã bán
cho ông Đỗ Mạnh T2 giá 155.000.000 đồng (việc mua bán được thực hiện bằng
miệng, không có giấy tờ).
Tháng 01/2015, ông Đỗ M đã bán lại cho ông Nguyễn Văn T3 giá
320.000.000 đồng (việc mua bán có giấy tờ viết tay).
Ngày 24/6/2015 ông Nguyễn Văn T3 bán lại cho bà Nguyễn Thị Nghi g
445.000.000 đồng (việc mua bán có giấy tờ viết tay), bà N đã trả cho ông T3
385.000.000 đồng còn lại là 60.000.000 đồng hai bên có thỏa thuận khi nào ông
T3 làm sổ đỏ mảnh đất trên và giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
bà N thì bà N sẽ chuyển đủ số tiền còn lại ở trên.
Ngày 16/01/2017, Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Lai Châu cấp GCNQSD
thửa đất trên số BV451459, tờ bản đồ 14, thửa số 691, diện tích 127m
2
cho hộ gia
đình ông Lò Văn N1 và bà Lù Thu H1. Sau đó ông N1 ủy quyền cho ông T2 đi
lấy GCNQSD đất, ông T2 đưa lại cho ông T3, ông T3 điện thoại báo cho bà N về
việc đã có GCNQSD đất. Sau đó bà N điện thoại cho ông Quách Văn T5 nhận
GCNQSD đất đó đưa cho ông Dương Công T.
Tại đơn khởi kiện, lời trình bày của bà N ở cấp sơ thẩm thể hiện: Sau khi
ông T3 báo cho bà biết việc đã có GCNQSD đất thì bà đã nhờ ông Quách Văn T5
nhận và đưa cho ông Dương Công T nhưng chỉ là để bảo lãnh cho số tiền
500.000.000 đồng mà bà đã vay của ông Dương Công T, không phải là bán thửa
đất trên. Bà vay 500.000.000 đồng của ông Dương Công T thông qua điện thoại
để trả tiền công cho công, với lãi suất 3.000 đồng/ ngày, khi vay không có giấy tờ
gì. Ông Dương Công T có chuyển vào tài khoản cá nhân của bà số tiền
500.000.000 đồng, đây là số tiền bà vay của ông Dương Công T, không phải là
tiền bán thửa đất số 691. Sau đó, bà đã nhiều lần đến trả cho ông Dương Công T
nhưng ông không nhận nên thửa đất số 691 là của bà và bà vẫn đang quản lý, sử
dụng từ khi mua của ông T3 cho đến nay. Bà không biết vì lý do gì ngày
16/10/2018 thửa đất 691 đã được cấp có thẩm quyền cho phép chuyển nhượng từ
ông Lò Văn N1 và bà Lù Thu H1 sang ông Dương Công T và bà Nguyễn Thị Lệ
T1.
Đến tháng 8/2021, ông Dương Công T đã mang máy móc đến san gạt các
công trình trên đất tại thửa đất số 691 của bà. Sau đó bà tìm hiểu thì biết thì mới
biết ông Dương Công T đã tự ý mang GCNQSD thửa đất trên đi làm hợp đồng
chuyển nhượng QSD đất từ ông Lò Văn N1, bà Lù Thu H1 sang tên ông. Đến

4
ngày 17/09/2021 thửa đất nêu trên lại được cấp có thẩm quyền cho phép chuyển
nhượng từ ông Dương Công T và bà Nguyễn Thị Lệ T1 sang ông Nguyễn Văn H2
và bà Dương Thị Thúy V, trú tại khu phố H, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu.
Ngày 24/03/2022, thửa đất số 691 lại tiếp tục chuyển nhượng cho ông Lê Văn H3,
sinh năm 1978, căn cước công dân số 034078011239. Địa chỉ: Tổ A, phường Đ,
thành phố L, tỉnh Lai Châu. Quá trình giải quyết tại đơn khởi kiện và tại phiên toà
sơ thẩm bà N đề nghị:
+Yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lò
Văn N1 và bà Lù Thu H1 với ông Dương Công T và bà Nguyễn Thị Lệ T1; Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Dương Công T và bà Nguyễn
Thị Lệ T1 với ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V; Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V
với ông Lê Văn H3 là vô hiệu.
- Hủy các biến động trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: BV
451459 từ tên ông Lò Văn N1 và bà Lù Thu H1 sang tên ông Dương Công T và
bà Nguyễn Thị Lệ T1; Từ tên ông Dương Công T và bà Nguyễn Thị Lệ T1 sang
tên ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V; Từ tên ông Nguyễn Văn H2
và bà Dương Thị Thúy V sang tên ông Lê Văn H3.
- Giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu như sau: Yêu cầu ông Dương
Công T phải khôi phục lại tình trạng ban đầu là trả lại cho bà thửa đất số 691, tờ
bản đồ số 14, diện tích 127m
2
, địa chỉ khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai
Châu. Hoặc trả số tiền tương ứng với giá trị mảnh đất là 3.097.276.000 đồng theo
chứng thư định giá bà đã nộp tại toà án.
Tại phiên toà sơ thẩm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên
đơn bà Nguyễn Thị N trình bày:
- Việc mua bán đất giữa L văn N1 và bà Lù Thu H1 bán cho ông Đỗ Mạnh
T2; ông T2 bán lại cho ông Nguyễn Văn T3; ông Nguyễn Văn T3 bán lại cho bà
Nguyễn Thị N (do chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc mua bán
đều bằng giấy tờ viết tay) đều được ông N1, bà H1, ông T2, ông T3, ông Quách
văn T7, bà N thừa nhận và không có tranh chấp. Việc bà N nhờ anh Quách Văn
T5 đưa giấy chứng nhận nêu trên cho anh Dương Văn T8 vì trước đó bà có vay
anh Dương Công T 500.000.000 đồng nên bà đồng ý để ông Dương Công T nhận
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cầm cố khoản vay 500.000.000 đồng
này.Việc ông Dương Công T cho rằng ông mua mảnh đất trên từ bà N nhưng
không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh việc ông Dương Công T mua mảnh đất
trên từ ai. Cũng đồng thời chứng minh bà N là người cuối cùng nhận chuyển
nhượng mảnh đất trên.
- Trên thực tế, ông Dương Công T và vợ là Nguyễn Thị Lệ T1, không nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Lò Văn N1, bà Lù Thu H1. Điều này đã
được ông N1, bà H1 thừa nhận: Ông N1 ký vào hợp đồng chỉ nể nang và ký thay
bà H1, bản chất không có việc chuyển nhượng này. Do đó hợp đồng chuyển
nượng quyền sử dụng đất này là giả tạo. Ông Dương Công T không nhận chuyển

5
nhượng quyền sử dụng đất mà tự làm thủ tục cho mình và bán lại cho người khác
là hành vi trái với đạo đức xã hội. Nên hợp đồng này là vô hiệu theo điểm c khoản
1 điều 117 BLDS.
- Bà N nhiều lần gọi điện cho ông T hỏi ông T mua đất của ai, mua bao
nhiêu tiền? Bà N nói với ông T là đất của bà N và bà N đặt vấn đề thanh toán
khoản vay 500.000.000 đồng nhưng ông T không thừa nhận khoản vay cũng
không trả lời được mua đất của ai. Như vậy ông Dương Công T biết rất rõ mảnh
đất này đang tranh chấp với bà N nhưng vẫn cố tình chuyển nhượng.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữ ông Dương Công T sang
cho ông Nguyễn Văn H2, bà Dương Thị Thúy V. Tại mục 3 điều 5 hợp đồng có
ghi “3. Thời điểm bàn giao đất trên thực địa: Có”. Tại điểm c mục 1, phần II
trong hợp đồng có ghi “II. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận chuyển nhượng đất:1
Quyền….c, Yêu cầu bên chuyển nhượng quyền sử dụng giao đất đủ diện tích,
đúng vị trí và tình trạng đất theo thỏa thuận trong hợp đồng”. Nhưng hai bên
không có biên bản bàn giao đất trên thực tế. Ông H2 và bà V không yêu cầu ông
Dương Công T và bà Nguyễn Thị Lệ T1 lập biên bản xem xét hiện trạng đất trên
thực tế. Khoảng cách từ nhà ông H2 bà V đến thửa đất tranh chấp chưa đầy 2km,
khi mua một tài sản lớn mà không xem xét tình trạng tài sản trong khi hoàn toàn
đủ điều kiện để xem xét như thế nào là điều không thể chấp nhận.
Kể từ khi bà N mua mảnh đất này đã liên tục cho ông H5, ông T4, bà K dựng
lán bán hàng tạp hóa, để sắt vụn chất đống cao chiếm hết mảnh đất liên tục, buộc
ông H2 bà V phải biết tình trạng của thửa đất trên thực tế có người sử dụng đất
của mình, hơn nữa bà V là chị gái của ông Dương Công T. Bà V đương nhiên biết
mảnh đất đang tranh chấp với bà N.
Đây là Giao dịch dân sự do bị lừa dối nên hợp đồng vô hiệu theo điều 127
BLDS; điểm c khoản 1 điều 117 BLDS.
- Ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V: biết được mảnh đất có
tranh chấp nhưng vẫn chuyển nhượng cho ông H3 là vi phạm điều kiện chuyển
nhượng theo quy định tại điểm c mục 1 điều 188 Luật đất đai 2013 thì việc
chuyển nhượng này pháp luật cấm. Ông Lê Văn H3, ông H2, bà V chưa thực hiện
đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các điều khoản trong hợp đồng chuyển nhượng
như: ông H3 chưa tìm hiểu, xem xét kỹ thông tin về quyền sử dụng đất; ông H2,
bà V chưa giao đất trên thực tế. Bên chuyển nhượng là ông H2, bà V biết rõ là đất
đang có tranh chấp nhưng vẫn chuyển nhượng là vi phạm điều cấm. Đây là giao
dịch dân sự do bị lừa dối và pháp luật cấm nên vô hiệu theo điểm c khoản 1 điều
117; điều 127 BLDS
Do các giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Các
bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận được.
Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì giá trị thành tiền để hoàn
trả…”.

6
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 9 điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Khoản 1 điều 31 Luật TTHC; Điều 117,123,124, 127; 131; 133, 500, 501, 502 Bộ
luật Dân sự; Điều 106, Điều 188 Luật Đất đai 2013, khoản 26 điều 1, Nghị định
148/2020/NĐ-CP, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn để tuyên bố các
hợp đồng chuyển nhượng nêu trên là vô hiệu và huỷ các biến động từ ông L văn
N1, bà Lù Thu H1 sang ông Dương Công T bà Nguyễn Thị Lệ T1; Từ ông Dương
Công T và bà Nguyễn Thị Lệ T1 sang ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị
Thúy V; Từ ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V với ông Lê Văn H3
đồng thời đề nghị: Công nhận thửa đất số 691; tờ bản đồ số 14; diện tích 127 m2;
địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu thuộc quyền sử dụng của
bà Nguyễn Thị Nghi . Trong trường hợp ông Dương Công T không hoàn trả lại
được thửa đất cho bà N thì ông Dương Công T phải trả cho bà N giá trị bằng tiền
theo như kết quả định giá là 3.097.276.000
đ
Bị đơn là ông Dương Công T, trình bày: Ông cho rằng bà N đã chuyển
nhượng lại thửa đất trên cho ông với giá 500.000.000 đồng vào ngày 12/01/2017,
việc giao dịch chỉ thông qua điện thoại, không có giấy tờ chuyển nhượng. Cùng
ngày 12/01/2017, ông đã chuyển vào tài khoản cá nhân của bà N số tiền
500.000.000 đồng (nhưng trong giao dịch chuyển tiền không ghi rõ nội dung).
Sau khi có GCNQSD đất, ông Dương Công T gọi điện cho bà N nhưng do năm
2017, 2018 bà N không có mặt trên địa bàn thị trấn huyện M nên ông Dương
Công T không liên lạc được. Vì vậy, ngày 15/10/2018 ông Dương Công T đã gặp
ông Lò Văn N1 nhờ ông N1, bà H1 ký hợp đồng chuyển nhượng QSD thửa đất
trên từ ông N1 và bà H1 sang ông vợ chồng ông Dương Công T và bà Nguyễn
Thị Lệ T1. Ngày 16/10/2018 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M, tỉnh
Lai Châu đã xác nhận nội dung biến động chuyển nhượng đối với thửa đất từ vợ
chồng ông N1 và bà H1 sang vợ chồng ông Dương Công T và bà T1. Ngày
17/9/2021 ông Dương Công T chuyển nhượng lại thửa đất cho vợ chồng ông
Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V giá 180.000.000 đồng và đã được đăng
ký biến động sang tên ông H2 và bà V. Ngày 24/3/2023 ông H2 và bà V chuyển
nhượng cho ông Lê Văn H3 giá 180.000.000 đồng và đã được đăng ký biến động
sang tên ông Lê Văn H3. Đối với yêu cầu khởi kiện của bà N, ông không đồng ý,
với lý do: Khi ông mua đất của bà N vào thời điểm ngày 12/01/2017, ông và bà N
đã mua bán thửa đất trên thực tế với số tiền là 500.000.000 đồng (ông đã chuyển
tiền qua tài khoản cho bà N), do bà N không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, thời điểm từ năm 2017 đến cuối năm 2018 do bà N không có mặt tại thị trấn
M, huyện M, nên không liên lạc được và giữa hai bên không thực hiện được các
thủ tục chuyển nhượng. Do vậy sau khi nhận được Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất từ ông Quách Văn T5 ông đã gặp ông N1 để làm các thủ tục chuyển
nhượng và đăng ký biến động quyền sử dụng đất là đúng quy định của pháp luật.
Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà N.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Lê Văn H3 trình bày: Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà
N vì thửa đất sô 691 là của ông, do ông nhận chuyển nhượng từ vợ chồng anh H2

7
và chị V từ tháng 3/2022 với giá 180.000.000 đồng, do vậy ông đề nghị Tòa án
giải quyết:
1) Bác yêu cầu của bà Nguyễn Thị N về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn H3 với vợ chồng ông Nguyễn
Văn H2, bà Dương Thị Thúy V vô hiệu.
2) Buộc bà Nguyễn Thị N trả lại mảnh đất thửa số 691, tờ bản đồ 14, diện
tích 127m
2
, địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu cho ông H3
để ông H3 thực hiện các quyền đối với tài sản thuộc quyền sử dụng hợp pháp của
ông.
Tại phiên toà ngày 21/12/2023 ông Lò Văn H4 là người được ông H3 ủy
quyền tham gia giải quyết vụ án trình bày bổ sung yêu cầu: Đề nghị TA giải quyết
buộc bà Nguyễn Thị N phải tháo dỡ, di rời các công trình mà bà N xây dựng trái
phép trên đất của ông H3 để trả lại cho ông H3 thửa đất nêu trên.
+ Người đại diện theo uỷ quyền của ông H3 là Luật sư Lò Văn H4 trình bày:
Ông Lê Văn H3 nhận chuyển nhượng thửa đất từ vợ chồng ông H2, bà V và làm
thủ tục sang tên ngày 24/3/2022 theo đúng quy định của pháp luật. Ngày
08/9/2022, bà N tự ý san gạt, đổ vật liệu và xây dựng trái phép trên mảnh đất đó.
Ông H3 và ông H2, bà V là người đồng hương Thái Bình. Ông H3 không biết
nguồn gốc đất ông H2, bà V do đâu mà có, chỉ biết ông H2, bà V được nhà nước
chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông H3 là người thứ 3 ngay tình. Đề nghị TAND
huyện Mường Tè bác yêu cầu của bà N về việc đề nghị tuyên bố hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông H2, bà V và ông H3 vô hiệu. Buộc bà N trả
lại thửa đất cho ông H3 để ông hưởng thực hiện quyền của mình đối với tài sản.
+ Ông Lò Văn N1 trình bày: Ông nhiệm chỉ mua bán, giao dịch với ông Đỗ
Mạnh T2 còn không giao dịch, mua bán đất với bất kỳ ai khác, ông N1 bán cho
ông Đỗ Mạnh T2 với giá 155.000.000 đồng, gia đình đã nhận đủ số tiền này từ
ông T2. Do thời điểm này mảnh đất chưa có sổ đỏ và do quen biết nhau nên khi
mua bán mảnh đất không làm bất kỳ giấy tờ nào. Sau đó ông T2 bán mảnh đất này
cho ai thì tôi không biết. Ông N1 không được làm hợp đồng chuyển nhượng mảnh
đất nói trên và không cung cấp giấy tờ gì cho vợ chồng ông Dương Công T và bà
Nguyễn Thị Lệ T1.
+ Bà Lù Thu H1 (vợ ông N1) trình bày: Bà H1 thừa nhận việc vợ chồng bà
đã bán thửa đất cho ông Đỗ Mạnh T2, khi đó đất chưa giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Vợ chồng bà H1 không ký vào hợp đồng và thủ tục chuyển nhượng
quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Dương Công T.
+ Bà Nguyễn Thị Lệ T1 (vợ ông Dương Công T): Bà biết nguồn gốc mảnh
đất đang có tranh chấp là đất tái định cư, được cấp cho hộ gia đình ông Lò Văn
N1 và bà Lù Thu H1. Ngày 12/01/2017, chồng bà là ông Dương Công T mua lại
thì mua của bà Nguyễn Thị N, với số tiền là 500.000.000 đồng. Ông Công T đã
chuyển tiền cùng ngày cho bà N qua ngân hàng A1 chi nhánh huyện M. Ngày
26/01/2017, sau khi nhận được giấy chứng nhận QSD đất chồng bà là ông Công T
có đến gặp ông N1, bà H1 để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Ông

8
N1 đã đồng ý ký tên và ký thay cho cả vợ là bà Lù Thu H1 vào hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Ngày 17/9/2021, chồng bà đã bán thửa đất trên cho
ông Nguyễn Văn H2. Việc mua bán đã làm hợp đồng chuyển nhượng, sau khi
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về thuế, sau đó chồng tôi giao Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng Lò Văn N1 và Lù Thu H1 cho anh H2. Sau
này anh H2 bán cho ai thì bà không biết và không liên quan. Bà không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của bà N vì khi vợ chồng bà mua đất với bà N vào thời điểm
12/01/2017 bà N không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Giữa chồng bà là
ông Dương Công T và bà N thỏa thuận số tiền là 500.000.000 đồng. Bà N đồng ý
bán và việc mua bán giữa chồng bà và bà N đã trao đổi, thực hiện qua điện thoại
di động và chuyển tiền qua tài khoản tới tài khoản của bà N cùng ngày
12/01/2017 tại ngân hàng A2 chi nhánh M.
+ Ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V trình bà B V là chị gái của
ông Dương Công T, do là mối quan hệ gia đình, nên vào ngày 17/09/2021, ông
Dương Công T có cho vợ chồng ông, bà một thửa đất (cho không lấy tiền), địa chỉ
tại khu phố A thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu, thửa đất có nguồn gốc là của ai
thì ông, bà không biết. Khi cho thì có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất kèm theo. Sau khi nhận đất với ông Dương Công T, do vợ chồng ông, bà
không có nhu cầu sử dụng nên vào ngày 24/03/2022, đã chuyển nhượng thửa đất
trên cho ông Lê Văn H3 và có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất kèm
theo. Giá chuyển nhượng thực tế là 180.000.000 đồng. Khi bán thửa đất trên, ông,
bà và anh H3 đã làm hợp đồng chuyển nhượng, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ về
thuế. Sau đó giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng Lò Văn
N1 và Lù Thu H1 cho ông H3. Ông bà không đồng ý đối với yêu cầu của bà N về
việc hủy hợp đồng cũng như các biến động quyền sử dụng đất liên quan đến vợ
chồng ông bà với ông Dương Công T, bà Nguyễn Thị Lệ T1; giữa ông, bà với ông
Lê Văn H3 vì việc chuyển nhượng của gia đình ông bà đều hợp pháp.
+ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M: Quá trình tiếp nhận và xử
lý hồ sơ chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện M đã thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ của mình. Đề nghị TA giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Người làm chứng :
+ Ông Đỗ Mạnh T2 trình bày: Ông mua lại mảnh đất từ ông N1, bà H1 với
giá 155.000.000 đồng, quá trình mua bán giữa ông và ông N1 có viết và ký một
hợp đồng (viết tay). Năm 2015, ông T2 bán mảnh đất lại cho Quách Văn T5 với
320.000.000 đồng, khi đó chỉ làm giấy viết tay, giao nhận tiền. Năm 2017, sau khi
được ông N1 giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông T2 đã đưa lại cho ông
T5 và từ đó đến nay không liên quan đến việc mua bán, chuyển nhượng mảnh đất
nói trên (BL số 141- 142).
+ Ông Nguyễn Văn T3 trình bày: Vào tháng 01 năm 2015 ông ủy quyền cho
ông Quách Văn T5 mua thửa đất trên từ ông T2 với giá 320.000.000 đồng. Việc
mua bán là do ông Quách Văn T5 theo ủy quyền của ông. Tháng 6 năm 2015, ông

9
đã bán cho bà N với giá thỏa thuận là 445.000.000 đồng. Bà N đã trả cho ông số
tiền 385.000.000 đồng. Hiện tại bà N còn nợ lại ông số tiền mua thửa đất trên là
60.000.000 đồng. Khi mua bán thửa đất trên, thửa đất này chưa có Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, việc mua bán chỉ lập Giấy biên nhận viết tay ngày
24/06/2015.
Sau khi ông Dương Công T làm thủ tục hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với anh Lò Văn N1 thì ông T3 đã gọi điện thông báo cho bà N thông qua chị
O Hội ở khu phố A, thị trấn M là chị họ của bà N. Chị N có bảo với ông T3 “Kệ
nó, nó muốn làm thì làm, tao chưa ký giấy chuyển nhượng”.
+ Ông Quách Văn T5 trình bày: Sau khi nhận được Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, ông T5 đã thông báo gọi điện cho bà N, sau đó bà N gọi điện cho ông
T5 nhờ giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Lò Văn N1 và
Lù Thu H1 cho ông Dương Công T (giữa ông Quách văn T7 và ông Dương Công
T có viết giấy giao nhận ngày 26/01/2017 và ký tên, không có chữ ký của bà N do
bà N không có mặt tại địa phương).
+ Ông Trịnh Xuân H5 trình bày: Ông nghe thấy bà N có mua mảnh đất địa
chỉ khu A, thị trấn M của anh Nguyễn Văn T3, do ông làm nghề buôn bán kinh
doanh nên đã hỏi bà N cho mượn để dựng lán bán hàng tạp hóa. Thời điểm ông
mượn đất vào khoảng đầu năm 2017 lúc đó ông dựng quán bán hàng trên đất của
bà N cạnh lán bà N bán vật liệu xây dựng. Ngoài ra còn có cô H6 cũng mượn đất
để làm quán bán thịt lợn từ tháng 10/2022, ông và bà N thỏa thuận thuê đất của bà
N 2.000.000 đồng/01 tháng và ông liên tục kinh doanh trên đất này. Đến khoảng
tháng 02/2020 âm lịch thì anh Dương Công T đến yêu cầu ông dỡ quán để ông T
lấy đất làm nhà, ông bảo ông mượn của bà N thì ông T bảo đất này cháu mua của
bà N rồi. Ông có hỏi bà N, bà N bảo không bán cho ông T, sau đó một ngày ông
Dương Công T lại gọi điện cho ông bảo ông cứ sử dụng đi, khi nào cháu dùng,
cháu sẽ thông báo sau. Đến khoảng tháng 06/2021 anh Dương Công T xuống trực
tiếp bảo ông "bác dỡ lán đi để cháu làm nhà", ông bảo "nếu là đất của cháu thì
ông dỡ thôi, nếu cho thuê thì cho ông thuê một gian", ông lại hỏi lại bà N đất bán
cho anh T rồi à, bà N lại bảo không bán. Sau đó mấy ngày anh Dương Công T
mang máy đến tháo dỡ phần nhà lán của bà Trần Thị H7 (người cùng mượn đất
của bà N) còn nhà lán của ông, ông tự dỡ. Sau khi ông tự dỡ quán không thấy ai
xây dựng trên đất, ông thấy Ủy ban nhân dân thị trấn M có đến thu phí vỉa hè.
Được sự đồng ý của ông S phó chủ tịch, ông T địa chính, S1 ở tư pháp, ông tiếp
tục dựng quán bán hàng cả phần đất vỉa hè và một phần đất ông mượn của bà N
trước đây. Đến tháng 10/2022 bà N tiếp tục dựng lại quán như hiện nay.
+ Ông Nguyễn Anh T4 trình bày: Khoảng tháng 10/2018, nghe tin ông
Nguyễn Văn T3 có mảnh đất nói trên, ông gọi điện và gặp trực tiếp ông T3 hỏi
mượn đất để đặt căng tin nước lạnh, ông T3 nói là đất tôi bán cho bà N rồi, hình
như bà N lại bán Thành M1 rồi, sau đó tôi điện cho ông Thành M1 hỏi mượn đất
thì T bảo ông cứ dựng vô tư. Đến khoảng hè năm 2021 ông T bảo tôi là ông
chuyển C đi để ông T xây ki ốt, tôi bảo Hà C1 là dỡ đi để T xây ki ốt, lúc đó Hà

10
C1 lại bảo nếu nhà nó xây thì em thuê một ki ốt, từ đó đến nay tôi không biết,
không sử dụng đất đó nữa.
+ Bà Trần Thị K trình bày: Bà có thuê nhà thu mua sắt vụn cạnh đất bà N,
năm 2018 bà có mượn đất bà N để tập kết sắt vụn, từ năm 2018 đến tháng
09/2022 bà N lấy đất lại để sử dụng thì gia đình tôi đã dọn hết sắt vụn và trả đất
cho bà N.
- Tài liệu chứng cứ do Nguyên đơn cung cấp:
Tại Flie ghi âm cuộc nói chuyện giữa bà N với ông C2 thành do bà N cung
cấp: Bà N cho rằng khoản tiền 500.000.000 đồng ông Công T chuyển khoản là
tiền bà N vay, không có việc mua bán đất. Ông Công T cho rằng việc chuyển tiền
là tiền mua đất của bà N, bà N đã đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông T. Không có việc vay mượn tiền giữa hai người.
Quá trình Toà án nhân dân huyện Mường Tè xem xét thẩm định tại chỗ xác
định: Thửa dất đang tranh chấp là thửa đất số 691, tờ bản đồ số 14, diện tích
127m
2
, thửa đất có các tứ cận: Phía Đông Bắc, Đông Nam giáp rãnh nước, phía
Tây Nam giáp đường V, phía Tây Bắc giáp đất nhà bà Dương Thị H8. Trên đất có
01 ngôi nhà tạm (quán ăn) diện tích 93,0m
2
khung sắt hộp vuông, lợp tôn màu
xanh.
Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị N đã tiến
hành thuê Công ty TNHH T9. Trị giá mảnh đất là 3.092.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST ngày 31/01/2014 của Tòa án
nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu: Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26;
điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a, c khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227;
Điều 228; Điều 235; khoản 2 Điều 229; khoản 1 Điều 244; Điều 271; Điều 273;
Điều 280 BLTTDS; Khoản 1 điều 31 Luật TTHC; Khoản 2 Điều 117; Điều 123;
Điều 133; Điều 169; Điều 500; Điều 502; Điều 503 của Bộ luật dân sự 2015;
điểm a khoản 3 Điều 167; khoản 1 Điều 188 Luật Đất đai năm 2013; Khoản 1,
khoản 6 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N về
việc:
+ Yêu cầu tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông
Lò Văn N1, bà Lù Thu H1 với ông Dương Công T và bà Nguyễn Thị Lệ T1; Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Dương Công T và bà Nguyễn
Thị Lệ T1 với ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V; Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V
với ông Lê Văn H3 vô hiệu.
+ Huỷ các biến động quyền sử dụng đất từ ông Lò Văn N1 bà Lù Thu H1
sang ông Dương Công T bà Nguyễn Thị Lệ T1; Từ ông Dương Công T và bà
Nguyễn Thị Lệ T1 sang ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V; Từ ông
Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V với ông Lê Văn H3.

11
2. Chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Lê Văn H3 gồm: Buộc bà N trả lại mảnh đất thửa 691, tờ bản đồ số 14, diện tích
127 m
2
tại khu phố A thị trấn M cho ông Lê Văn H3.
3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm với tổng số
tiền là 600.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên
lai thu tạm ứng án phí lệ phí toà án số: AA/2021/0000669 của chi cục Thi hành án
dân sự huyện Mường Tè. Trả lại cho bà N số tiền 10.300.000 đồng theo biên lai
thu tạm ứng án phí lệ phí toà án số: AA/2021/0000669 của chi cục Thi hành án
dân sự huyện Mường Tè.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/02/2024, TAND huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu nhận được đơn kháng cáo đề ngày 01/02/2024 của nguyên đơn bà Nguyễn
Thị N, kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, không nhất trí với mọi quyết định của
bản án sơ thẩm về việc không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà, đề nghị TA
cấp phúc thẩm buộc ông Dương Công T và những người liên quan trả lại đất cho
bà.Trường hợp không trả được đất thì trả lại cho bà giá trị mảnh đất theo giá trị là
3.097.276.000 đồng.
Ngày 29/02/2024, TAND tỉnh Lai Châu nhận được kháng nghị số 46/QĐ-
VKS-DS, ngày 29/02/2024 của VKSND tỉnh Lai Châu, kháng nghị toàn bộ bản
án sơ thẩm số 01/2024/DS-ST, ngày 31/01/2024 của TAND huyện Mường Tè, đề
nghị TAND tỉnh Lai Châu xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy Bản án sơ
thẩm vì có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và nội dung, cụ thể như sau:
1. Về tố tụng
1.1. Xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự không đúng với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn:
Ngày 03/10/2022, bà Nguyễn Thị N khởi kiện ông Dương Công T vì cho
rằng ông T đã mang máy móc đến san gạt các công trình trên đất tại thửa đất số
691, tờ bản đồ 14, diện tích 127m
2
tại khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai
Châu của bà. Nhưng phần đề nghị giải quyết thì bà N lại đề nghị Tòa án: “Hủy
các giao dịch liên quan đến thửa đất và công nhận thửa đất số 691, tờ bản đồ 14
là của bà N”. Kèm theo đơn khởi kiện bà N cung cấp cho Tòa án huyện M là 01
bản phô tô GCNQSD đất số BV451459, tuy nhiên GCNQSD đất số BV451459 lại
thể hiện thửa đất số 691 được Nhà nước công nhận quyền sử dụng cho ông Lê
Văn H3, không phải ông Dương Công T. Như vậy theo nội dung đề nghị giải
quyết của bà N thì ông Dương Công T không có quyền định đoạt đối với thửa đất
mà bà N đang tranh chấp nhưng Tòa án lại xác định ông Dương Công T tham gia
tố tụng với tư cách là bị đơn là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 68
BLTTDS. Ông Lê Văn H3 là người được Nhà nước công nhận quyền sử đất thửa
đất số 691 nhưng Tòa án lại xác định ông Lê Văn H3 là người tham gia tố tụng
với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là không đúng quy định tại
khoản 4 Điều 68 BLTTDS.
1.2. Thụ lý giải quyết yêu cầu độc lập của ông Lê Văn H3 không đúng quy
định pháp luật.

12
Ngày 20/7/2023, Tòa án nhân dân huyện Mường Tè mở phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ; ngày 28/7/2023 Tòa án nhận được
đơn yêu cầu độc lập của ông H3 (đơn không ghi ngày, tháng); Ngày 14/8/2023
ông H3 nộp cho Tòa án Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, với mức án phí ông H3
nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện M theo yêu cầu của Tòa án Mường Tè
là 300.000 đồng; Ngày 15/8/2023, Tòa án huyện M ban hành Quyết định đưa vụ
án ra xét xử, ấn định thời gian mở phiên tòa vào ngày 29/8/2023; Ngày 25/8/2023
Tòa án thụ lý yêu cầu độc lập số 03a/TB-TLVA của ông Lê Văn H3 để giải quyết.
Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Mường Tè thụ lý yêu cầu độc lập của ông
Lê Văn H3 sau thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận
công khai chứng cứ và sau khi tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Vi
phạm Khoản 2 Điều 201 BLTTDS.
1.3 Thay đổi và xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn không đúng.
Ngày 24/3/2023, Tòa án nhân dân huyện Mường Tè thụ lý vụ án, xác định
ông Nguyễn Văn T3 tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là bị đơn. Tại phiên
họp giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ ngày 20/7/2023, nguyên đơn bà
Nguyễn Thị N rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện đối với ông Nguyễn Văn T3 và được
Tòa án chấp nhận việc rút đơn nhưng chưa giải quyết. Như vậy, khi xét xử vụ án
ông T3 vẫn phải tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn nhưng Tòa án lại xác định
ông T3 là người làm chứng làm ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của ông T3 theo
quy định tại Điều 70,72 BLTTDS.
1.4. Nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện đối với ông Nguyễn Văn T3
nhưng Tòa án huyện M không đình chỉ giải quyết.
Ngày 24/3/2023, Tòa án nhân dân huyện Mường Tè thụ lý giải quyết yêu cầu
khởi kiện của bà Nguyễn Thị N đối với ông Nguyễn Văn T3. Tại phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng, nguyên đơn bà Nguyễn Thị N rút
toàn bộ yêu cầu khởi kiện đối với ông T3 và được Tòa án chấp nhận việc rút đơn
nhưng chưa giải quyết, nhưng Tòa án không nhận định, đình chỉ giải quyết yêu
cầu này của bà N trong bản án. Vi phạm Điều 217 BLTTDS.
2. Về nội dung:
2.1. Toà án cấp sơ thẩm không giải quyết toàn diện các yêu cầu của nguyên
đơn.
Trước khi mở phiên tòa, bà Nguyễn Thị N yêu cầu Toà án giải quyết đối với
ông Dương Công T là:
(1) Hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lò Văn
N1, bà Lù Thu H1 với ông Dương Công T, bà Nguyễn Thị Lệ T1; giữa ông
Dương Công T, bà Nguyễn Thị Lệ T1 với ông Nguyễn Văn H2, bà Dương Thị
Thúy V và giữa ông Nguyễn Văn H2, bà Dương Thị Thúy V với ông Lê Văn H3
vô hiệu.

13
(2) Huỷ các biến động của các hợp đồng chuyển nhượng từ ông Lò Văn N1,
bà Lù Thu H1 với ông Dương Công T, bà Nguyễn Thị Lệ T1; giữa ông Dương
Công T, bà Nguyễn Thị Lệ T1 với ông Nguyễn Văn H2, bà Dương Thị Thúy V và
giữa ông Nguyễn Văn H2, bà Dương Thị Thúy V với ông Lê Văn H3.
(3) Công nhận thửa đất số 691, tờ bản đồ số 14, diện tích 127 m
2
, địa chỉ:
Khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu thuộc quyền sử dụng của bà
Nguyễn Thị Nghi .
Tại phiên tòa ngày 31/01/2024, bà Nguyễn Thị N trình bày bổ sung đề nghị
Tòa án giải quyết nội dung: “Trường hợp ông Dương Công T không trả được
thửa đất cho bà N thì ông Dương Công T phải trả cho bà N giá trị bằng tiền
mảnh đất theo như kết quả định giá là 3.097.276.000 đồng".
Tuy nhiên, bản án của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè chỉ giải quyết đối
với yêu cầu số (1) và (2), còn yêu cầu số (3), Tòa án nhận định: Trong quá trình
giải quyết vụ án cho đến phiên tiếp cận công khai chứng cứ, yêu cầu khởi kiện
của bà N là: “Yêu cầu công nhận thửa đất số 691, tờ bản đồ số 14, diện tích
127m
2
, địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu cho bà". Sau
phiên tiếp cận công khai chứng cứ, bà N thay đổi yêu cầu khởi kiện từ "yêu cầu
công nhận thửa đất số 691, tờ bản đồ số 14, diện tích 127m2, địa chỉ: Khu phố A,
thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu" sang yêu cầu: "Yêu cầu ông Dương Công T
phải khôi phục lại tình trạng ban đầu là trả lại cho bà thửa đất số 691, tờ bản đồ
số 14, diện tích 127m
2
địa chỉ: Khu phố A, thị trấn M, huyện M, tỉnh Lai Châu
hoặc trả số tiền tương ứng với giá trị mảnh đất là 3.097.276.000 đồng". Xét thấy
việc thay đổi yêu cầu là vượt quá phạm vi, yêu cầu khởi kiện ban đầu nên Hội
đồng xét xử không thụ lý, xem xét.
Việc nhận định của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè như trên không đúng
hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa xét xử vụ án vì tại biên bản phiên tòa sơ thẩm
ngày 21/12/2023 bà N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đến phiên tòa ngày
31/01/2024 bà N trình bày vẫn giữ nguyên 03 yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu
cầu: “Trường hợp ông Dương Công T không hoàn trả lại được thửa đất cho bà N,
thì ông Dương Công T phải trả cho bà N giá trị bằng tiền theo như kết quả định
giá là 3.097.276.000 đồng",
Như vậy, nguyên đơn không thay đổi nội dung yêu cầu Tòa án giải quyết, chỉ
bổ sung yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết, nhưng Tòa án lại nhận định nguyên
đơn thay đổi yêu cầu vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu từ đó không
chấp nhận thụ lý, xem xét, giải quyết làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích của bà N.
2.2. Tại phiên tòa xét xử ngày 21/12/2023, ông Lò Văn H4, người được ông
Lê Văn H3 ủy quyền tham gia tố tụng trình bày bổ sung nội dung: “Đề nghị TA
buộc bà Nguyễn Thị Nghi t, di rời hết các công trình mà bà N xây dựng trái phép
trên đất của ông H3 để ông H3 thực hiện các quyền đối với tài sản thuộc quyền sở
hữu của ông” nhưng không được Tòa án đưa ra xem xét giải quyết là chưa toàn
diện, triệt để, bản án đưa ra thi hành sẽ gặp khó khăn, vướng mắc vì thửa đất 691
mà các đương sự đang tranh chấp đang được Nhà nước công nhận QSD cho ông

14
Lê Văn H3 nhưng tài sản trên đất là 01 ngôi nhà dựng bằng khung sắt, mái lợp
bằng tôn có diện tích 93m
2
, theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ là của bà N.
2.3 Ngoài ra, nguyên đơn bà Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu công nhận bà
có quyền sử dụng thửa đất số 691 tờ bản đồ 14 vì bà cho rằng bà đã mua thửa đất
số 691 tờ bản đồ 14 từ ông Nguyễn Văn T3, bà không chuyển nhượng cho ông
Dương Công T. Còn Dương Công T cho rằng thửa đất đang tranh chấp có nguồn
gốc là của ông Lò Văn N1 đã bán cho ông Đỗ Mạnh T2, ông T2 bán cho ông
Nguyễn Văn T3, ông T3 bán cho bà N và sau khi bà N bán cho ông Dương Công
T do ông T không liên lạc được với bà N để làm thủ tục chuyển nhượng nên ông
đã đến gặp vợ chồng ông Lò Văn N1 và bà Lù Thu H1 để làm thu tục chuyển
nhượng từ ông N1, bà H1 sang tên ông, sau đó ông chuyển nhượng cho ông
Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V, sau đó ông H2 và bà V chuyển
nhượng tiếp cho ông Lê Văn H3.
Như vậy giữa bà N và ông Dương Công T có sự tranh chấp về giao dịch
chuyển nhượng thửa đất đang tranh chấp, khi giải quyết Tòa án huyện M không
nhận định, đánh giá về giao dịch này giữa ông Dương Công T và bà Nguyễn Thị
N để giải quyết vụ án là chưa bảo đảm khách quan, toàn diện, chưa giải quyết triệt
để vụ việc tranh chấp, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
3. Vi phạm trong xử lý án phí và chi phí tố tụng khác:
3.1. Không xử lý số tiền tạm ứng án phí đã thu của ông Lê Văn H3
Ông Lê Văn H3 đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số
AA/2021/0000681 ngày 14/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mường
Tè. Tại Bản án sơ thẩm, Tòa án nhân dân huyện Mường Tè giải quyết chấp nhận
yêu cầu độc lập của ông Lê Văn H3, nhưng không xử lý số tiền tạm ứng án phí
mà ông Lê Văn H3 đã nộp trên, gây thiệt hại cho ông H3 và làm cho Cơ quan thi
hành án dân sự huyện M không có căn cứ để giải quyết số tiền đã thu của ông H3,
vi phạm Điều 147 BLTTDS.
3.2. Xử lý tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ không đúng
Các tài liệu, chứng cứ hồ sơ thể hiện bà Nguyễn Thị N nộp cho Tòa án
5.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí xem xét thẩm định tại chỗ. Kết qủa chi phí
thực tế cho việc xem xét thẩm định tại chỗ hết 3.212.946 đồng, còn thừa
1.787.054 đồng nhưng bản án không nhận định và quyết định bà N phải chịu bao
nhiêu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và không xử lý số tiền tạm ứng còn
thừa nêu trên. Vi phạm quy định tại Điều 157, Điều 158 BLTTDS.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Người kháng cáo bà Nguyễn Thị N và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày: Giữ nguyên nội dung kháng cáo
và đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng huỷ các giao dịch các
biến động để buộc ông Dương Công T và những người liên quan trả lại đất cho
bà. Trường hợp không trả được đất thì trả lại cho bà giá trị mảnh đất theo giá trị là
3.097.276.000 đồng.

15
- Tại đơn xin xét xử vắng mặt ông Lò Văn H4, người được ông Lê Văn H3
ủy quyền tham gia tố tụng trình bày: Ông giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị
cấp phúc thẩm buộc bà Nguyễn Thị N phải tháo dỡ, di rời các công trình mà bà N
xây dựng trái phép trên đất của ông H3 để trả lại cho ông H3 thửa đất nêu trên.
- Đại diện VKS phát biểu ý kiến về việc tố tụng của Thẩm phán, thư ký và
HĐXX phúc thẩm và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án đảm bảo đúng quy định của luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đại diện VKS rút một phần kháng nghị đối với nội
dung xác định tư cách tham gia tố tụng của ông Dương Công T và ông Lê Văn H3
(tại mục 1.1 của kháng nghị số 46/QĐ-VKS-DS ngày 29/02/2024 của VKSND
tỉnh Lai Châu). Các nội dung còn lại của kháng nghị giữ nguyên và đề nghị Toà
án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử vụ án theo hướng huỷ Bản án sơ thẩm số
01/2024/DS-ST, ngày 31/01/2024 của Toà án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét khách quan,
toàn diện ý kiến của các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Kháng cáo của bà Nguyễn Thị N trong hạn luật định nên được
chấp nhận, Kháng nghị của VKSND tỉnh Lai Châu đã gửi cho các đương sự và
người có liên quan do vậy kháng cáo và kháng nghị là phù hợp với quy định tại
Điều 272, 273 , 280, 281 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
2. Về nội dung vụ án:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị N kháng cáo toàn bộ bản án, Viện kiểm sát
kháng nghị toàn bộ bản án số 01/2024/DS-ST ngày 31/01/2024 của Toà án nhân
dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu, do đó trên cơ sở xem xét kháng cáo, kháng
nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét lại toàn bộ nội dung vụ án như sau:
2.1 Về tố tụng:
2.1.1 Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng: Trên cơ sở nội dung yêu cầu
khởi kiện của bà Nguyễn Thị N, bà N khởi kiện ông Dương Công T vì cho rằng
ông Dương Công T đã mang máy móc đến san gạt các công trình trên đất tại thửa
đất số 691, tờ bản đồ 14, diện tích 127m
2
đang có tranh chấp tuy nhiên phần đề
nghị giải quyết thì bà N lại đề nghị Tòa án: “Hủy các giao dịch liên quan đến thửa
đất và công nhận thửa đất số 691, tờ bản đồ 14 là của bà N”. Kèm theo đơn khởi
kiện bà N cung cấp cho Tòa án huyện M là 01 bản phô tô GCNQSD đất số
BV451459, tuy nhiên thửa đất Nhà nước công nhận quyền sử dụng cho ông Lê
Văn H3, không phải ông Dương Công T. Việc Toà án nhân dân huyện Mường Tè
xác định tư cách tham gia tố tụng theo yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn là đúng

16
bởi lẽ bà N cho rằng bà không chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất nêu trên
cho ông Dương Công T nhưng ông Dương Công T tự ý thực hiện các giao dịch
chuyển nhượng cho ông H2 bà V, bà N cho rằng ông T là người trực tiếp xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà nên bà N buộc ông T phải trả lại thửa
đất nêu trên cho bà trường hợp không hoàn trả lại được thửa đất cho bà N thì ông
Dương Công T phải hoàn trả cho bà N giá trị bằng tiền theo như kết quả định giá
là 3.097.276.000 đồng. Như vậy toà án cấp sơ thẩm đã xác định tư cách tham gia
tố tụng của các đương sự ông Dương Công T là bị đơn, ông Lê Văn H3 là người
có quyền lợi liên quan là đúng quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 68 BLTTDS.
Tại phiên tòa đại diện VKS tỉnh L rút nội dung kháng nghị này và nhận định Tòa
án cấp sơ thẩm xác định tư cách tố tụng của ông Dương Công T là bị đơn, ông Lê
Văn H3 là người có quyền lợi liên quan là đúng quy định tại khoản 3, khoản 4
Điều 68 BLTTDS. Quan điểm của đại diện VKS phù hợp với quan điểm của
HĐXX do vậy được chấp nhận.
Đối với việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định ông T3 là người làm chứng sau khi
bà N rút yêu cầu khởi kiện đối với ông ông T3 là không đúng.
2.1.2 Việc thay đổi và xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn:
Trong quá trình giải quyết vụ án theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Nguyễn Thị N, bà N cho rằng ông Nguyễn Văn T3 là người xâm phạm tới quyền
và lợi ích hợp pháp của mình nên khởi kiện ông T3, Toà án huyện Mường Tè xác
định ông T3 là bị đơn tuy nhiên đến ngày 20/7/2023 bà N rút toàn bộ yêu cầu khởi
kiện đối với ông T3 và được Toà án chấp nhận việc rút đơn nhưng trong bản án
không nhận định để đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu này của bà N là vi phạm
Điều 217 BLTTDS.
Toà án nhân dân huyện Mường Tè thụ lý yêu cầu độc lập của ông Lê Văn H3
sau thời điểm Toà án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai
chứng cứ và sau khi Toà án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử là vi phạm khoản
2 Điều 201 BLTTDS.
2.1.3. Toà án nhân dân huyện Mường Tè xác định tư cách tham gia tố tụng
của Đỗ Mạnh T2, ông Nguyễn Văn T3 là người làm chứng trong vụ án là không
đúng, ông T2 và ông T3 là những người trực tiếp liên quan tới các giao dịch
chuyển nhượng tuy không có ý kiến yêu cầu đối với Toà án nhưng khi giải quyết
Toà án cần phải xác định tư cách tham gia tố tụng của ông T2 và ông T3 là người
có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mới đảm bảo.
2.1.4. Việc xử lý án phí và chi phí tố tụng.
+ Ông Lê Văn H3 đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số
AA/2021/0000681 ngày 14/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Mường
Tè. Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè chấp nhận yêu cầu độc
lập của ông Lê Văn H3, nhưng không xử lý số tiền tạm ứng án phí mà ông Lê
Văn H3 đã nộp trên, gây thiệt hại cho ông H3 khó khăn cho cơ quan thi hành án
dân sự, vi phạm Điều 147 BLTTDS.

17
+ Bà Nguyễn Thị N nộp cho Tòa án 5.000.000 đồng tiền tạm ứng chi phí
xem xét thẩm định tại chỗ. Kết quả chi phí thực tế cho việc xem xét thẩm định tại
chỗ hết 3.212.946 đồng, còn thừa 1.787.054 đồng nhưng bản án không nhận định
và quyết định bà N phải chịu bao nhiêu tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và
không xử lý số tiền tạm ứng còn thừa nêu trên. Vi phạm quy định tại Điều 157,
Điều 158 BLTTDS.
2.2 Về nội dung:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị N khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận bà có
quyền sử dụng thửa đất số 691 tờ bản đồ 14 vì bà cho rằng bà đã mua thửa đất số
691 tờ bản đồ 14 từ ông Nguyễn Văn T3, bà không chuyển nhượng cho ông
Dương Công T. Ông Dương Công T cho rằng thửa đất đang tranh chấp có nguồn
gốc là của ông Lò Văn N1 đã bán cho ông Đỗ Mạnh T2, ông Đỗ Mạnh T2 bán
cho ông Nguyễn Văn T3, ông Nguyễn Văn T3 bán cho bà Nguyễn Thị N và bà
Nguyễn Thị N đã bán cho ông T do ông Dương Công T không liên lạc được với
bà N để làm thủ tục chuyển nhượng nên ông đã đến gặp vợ chồng ông Lò Văn N1
và bà Lù Thu H1 để làm thủ tục chuyển nhượng từ ông N1, bà H1 sang tên ông
Dương Công T. Sau đó ông T chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn H2 và bà
Dương Thị Thúy V, ông H2 và bà V tiếp tục chuyển nhượng cho ông Lê Văn H3.
Như vậy giữa bà Nguyễn Thị N và ông Dương Công T có sự tranh chấp về
giao dịch chuyển nhượng thửa đất đang tranh chấp nêu trên, một bên ông Dương
Công T cho rằng có việc chuyển nhượng thửa đất số 691 bằng miệng với bà N,
nhưng bà N khẳng định không có việc chuyển nhượng thửa đất này. Trong quá
trình giải quyết vụ án ngoài lời trình bày của ông T, ông T không cung cấp được
cho Toà án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho việc ông đã mua thửa đất số 691
của bà N. Bà N thừa nhận có được ông Dương Công T chuyển vào tài khoản cá
nhân cho bà số tiền 500.000.000 đồng, bà N đã thế chấp quyền sử dụng đất thửa
đất số 691 cho ông Dương Công T để đảm bảo nghĩa vụ đối với khoản vay này.
Sau khi ông Dương Công T có giấy chứng nhận mang tên ông Lù Văn N2 và bà
Lù Thu H1 do bà N đưa cho, ông T đã tự ý cầm giấy chứng nhận nêu trên làm thủ
tục chuyển nhượng từ ông N2 bà H1 sang tên vợ chồng ông T bà T1.
Quá trình giải quyết vụ án ông Dương Công T, ông Lù Văn N2 và bà Lù Thu
H1 đều khẳng định không có việc mua bán chuyển nhượng giữa ông N2 bà H1
sang ông T, bà T1. Việc ông N2 ký thay vợ bà H1 vào hợp đồng chuyển nhượng
nêu trên chỉ để hoàn thiện các giao dịch. Tuy nhiên Toà án nhân dân huyện
Mường Tè chưa đánh giá, chưa nhận định về giao dịch giữa bà N và ông T để giải
quyết vụ án là chưa bảo đảm khách quan, toàn diện, chưa giải quyết triệt để vụ
việc tranh chấp, ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.
Trong quá trình giải quyết vụ án các giao dịch giữa ông Lò Văn N1 và bà Lù
Thu H1 với ông Đỗ Mạnh T2; giữa ông Đỗ Mạnh T2 với ông Nguyễn Văn T3;
giữa ông Nguyễn Văn T3 và bà Nguyễn Thị N đều được các bên thừa nhận và
không có tranh chấp. Toà án nhân dân huyện Mường Tè lại nhận định đánh giá về
những giao dịch này với lý do chưa hoàn thiện về mặt thủ tục để lập luận việc ông

18
Dương Công T tuy không có chuyển nhượng không phát sinh giao dịch mua bán
với ông N1 bà H1 nhưng được hoàn thiện về mặt thủ tục đăng ký theo quy đinh
của pháp luật đất đai để khẳng định quyền sử dụng đất nêu trên là của ông Dương
Công T là không có căn cứ, sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền lợi của các đương sự.
Không giải quyết toàn diện các yêu cầu của Nguyên đơn.
Tại phiên toà sơ thẩm ngày 31/01/2024, bà Nguyễn Thị N trình bày bổ sung
đề nghị Tòa án giải quyết nội dung: “Trường hợp ông Dương Công T không trả
được thửa đất cho bà N thì ông Dương Công T phải trả cho bà N giá trị bằng tiền
mảnh đất theo như kết quả định giá là 3.097.276.000 đồng“. Tuy nhiên, bản án
của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè nhận định việc thay đổi yêu cầu là vượt
quá phạm vi, yêu cầu khởi kiện ban đầu nên xem xét. Việc nhận định của Tòa án
nhân dân huyện Mường Tè như trên không đúng hồ sơ vụ án và diễn biến phiên
tòa xét xử vụ án vì tại biên bản phiên tòa sơ thẩm ngày 21/12/2023 bà N vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện, đến phiên tòa ngày 31/01/2024 bà N trình bày vẫn giữ
nguyên 03 yêu cầu khởi kiện và bổ sung yêu cầu nêu trên. Như vậy, nguyên đơn
không thay đổi nội dung yêu cầu Tòa án giải quyết, chỉ bổ sung yêu cầu đề nghị
tòa án giải quyết, nhưng Tòa án lại nhận định nguyên đơn thay đổi yêu cầu vượt
quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu từ đó không chấp nhận thụ lý, xem xét,
giải quyết làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích của bà N.
Xét yêu cầu của người có quyền có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn
H3 về việc: Đề nghị Toà án buộc bà Nguyễn Thị Nghi t, di rời hết các công trình
mà bà N xây dựng trái phép trên đất của ông H3 để ông H3 thực hiện các quyền
đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của ông nhưng Tòa án không xem xét giải
quyết là chưa toàn diện, triệt để và mâu thuẫn với phần quyết định của bản án đã
tuyên. Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm xem xét, thẩm định giải quyết yêu cầu của bà
Nguyễn Thị N đối với thửa đất số 691 nhưng không tiến hành xem xét, định giá
tài sản trên đất của bà N gồm 01 ngôi nhà dựng bằng khung sắt, mái lợp bằng tôn
có diện tích 93m
2
có giá trị bao nhiêu là chưa toàn diện.
Từ những lập luận phân tích nêu trên thấy rằng việc thu thập đánh giá
chứng cứ của Toà án nhân dân huyện Mường Tè còn thiếu mà cấp phúc thẩm
không thể khắc phục được như: Chưa xem xét thẩm định, định giá đối với tài sản
trên đất, chưa xác định đánh giá giữa bà Nguyễn Thị N với ông Dương Công T có
hay không việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chưa xem xét toàn diện các
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giữa ông Dương Công T và bà
Nguyễn Thị Lệ T1 với ông Nguyễn Văn H2 và bà Dương Thị Thúy V, về mặt ý
thức chủ quan của ông T biết rõ mảnh đất này đang có tranh chấp với bà N nhưng
vẫn cố ý chuyển nhượng, người nhận chuyển nhượng ông H2 bà T1 có đủ điều
kiện để biết hiện trạng thửa đất được chuyển nhượng nêu trên không phải do ông
T quản lý, sử dụng mà do bà N và những người được bà N cho thuê cho mượn là
ông T4, bà K quản lý sử dụng, như vậy giao dịch dân sự nêu trên là giao dịch do
bị lừa dối dẫn đến hợp đồng vô hiệu.

19
Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn
H2 và bà Dương Thị Thúy V với ông Lê Văn H3: Toà án cấp sơ thẩm chưa xem
xét làm rõ khi nhận chuyển nhượng ông H3 có tìm hiểu kỹ về thửa đất chưa, có
xem xét các cam kết của bên chuyển nhượng, cam kết về việc đất không thuộc
diện bị cấm chuyển nhượng không để xác định Ông H3 có thuộc trường hợp là
người thứ 3 ngay tình được pháp luật bảo vệ theo như trình bày của ông H3 và
Luật sư của ông H3 hay không là chưa giải quyết triệt để vụ án.
Đối với ý kiến của bà Nguyễn Thị N và người bảo vệ quyền và lợi ích của bà
N đề nghị HĐXX phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng buộc ông Dương
Công T và những người liên quan trả lại đất cho bà.Trường hợp không trả được
đất thì trả lại cho bà giá trị mảnh đất theo giá trị là 3.097.276.000 đồng, xét thấy
cấp phúc thẩm đã đánh giá và chấp nhận kháng nghị theo hướng huỷ án để giải
quyết sơ thẩm lại nên các yêu cầu của bà N buộc ông Dương Công T và những
người liên quan trả lại đất cho bà hoặc trả lại giá trị mảnh đất là trong nội dung
mà Tòa án cấp sơ thẩm cần xem xét lại, đối với yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, Hội
đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận.
Từ phân tích nêu trên thấy rằng bản án 01/2024/DS-ST, ngày 31/01/2024 của
Toà án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu vi phạm về pháp luật tố tụng và
pháp luật nội dung làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đương sự, do vậy
kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu là hoàn toàn có căn cứ, phù
phù hợp với nhận định của HĐXX phúc thẩm nên cần chấp nhận, hủy Bản án sơ
thẩm số 01/2024/DS-ST, ngày 31/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Mường Tè,
tỉnh Lai Châu và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh
Lai Châu giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3] Về án phí: Bản án sơ thẩm có kháng cáo bị hủy để xét xử sơ thẩm lại nên
người kháng cáo không phải chịu án phí DSPT, nghĩa vụ chịu án phí được xác
định lại khi giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3, Điều 148; khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ luật tố tụng
dân sự; Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Toà án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N về việc sửa
bản án sơ thẩm.
2. Chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu:
Huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 01/2024/DS-ST, ngày 31/01/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu
giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
3. Án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị N không phải chịu án phí DSPT, trả lại
cho bà Nguyễn Thị N số tiền 300.000đ tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp
20
theo biên lai số 0000664, ngày 16/02/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện
Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Nơi nhận
- VKSND tỉnh Lai Châu;
- TAND huyện Mường Tè;
- Chi cục THADS huyện Mường Tè;
- Các đương sự;
- Người bảo vệ QVLIHP của ĐS;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu TA.
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA
PHIÊN TÒA
Giang Thị Vượng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 10/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 12/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm