Bản án số 02/2024/KDTM-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Yên Bái về tranh chấp hợp đồng tín dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2024/KDTM-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/KDTM-PT
Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/KDTM-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Yên Bái về tranh chấp hợp đồng tín dụng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng tín dụng |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Yên Bái |
Số hiệu: | 02/2024/KDTM-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Kinh doanh thương mại |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thị H. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2024/KDTM-ST ngày 01/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái về cách tuyên lãi suất giai đoạn thi hành án và phát mại tài sản thế chấp và nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH YÊN BÁI
Bản án số: 02/2024/KDTM-PT
Ngày 26-9-2024
V/v: Tranh chấp Hợp đồng tín dụng.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH YÊN BÁI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Vân
Các Thẩm phán: Bà Phạm Mai Hằng
Ông Nguyễn Mạnh Hùng
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thu Trà - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Yên Bái.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 01/2024/TLPT-
KDTM ngày 20 tháng 8 năm 2024, về việc: Tranh chấp hợp đồng tín dụng.
Do Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2022/KDTM-ST ngày
01/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 02/2024/QĐ-PT ngày
05 tháng 9 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số 07/2024/QĐ-
PT ngày 20 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ngân hàng NN và PTNNVN (AGRIBANK).
Địa chỉ: Số 2, đường LH, phường TC, phường BĐ, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Toàn V - Tổng Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Trung K - Giám đốc Ngân hàng
Agribank Chi nhánh thị xã NL (theo Quyết định số 2665/QĐ-NHNo-PC ngày
01/12/2022 của Tổng Giám đốc - Ngân hàng NN và PTNNVN “V/v: Ủy quyền
thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng và thi hành án”).
Người được ủy quyền lại: Bà Nguyễn Thị Hải A - Phó Giám đốc Ngân hàng
Agribank Chi nhánh thị xã NL (Theo Giấy ủy quyền số 103/GUQ/NHNo.NL-TH
ngày 20/3/2024): bà A có mặt.
2. Bị đơn: Ông Lưu Việt C (vắng mặt) và bà Đỗ Thị H (có mặt)
2
Cùng địa chỉ: Tổ 12, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái;
3. Người kháng cáo: Bà Đỗ Thị H là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Bản án sơ thẩm và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thì nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Ngày 07/4/2022, ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H (bà H ủy quyền cho ông
C) đã ký với Ngân hàng Agribank chi nhánh thị xã NL Hợp đồng tín dụng số
8710-LAV-202200524, vay số tiền 3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng) với nội
dung: Mục đích vay kinh doanh lương thực (theo giấy chứng nhận đăng ký hộ
kinh doanh số 16B8001606 ngày 08/6/2016 do Phòng Tài chính kế hoạch thị xã
NL cấp); thời hạn vay 06 tháng kể từ ngày tiếp theo của ngày giải ngân ghi cụ thể
trên báo cáo đề xuất giải ngân kiêm giấy nhận nợ, nhận nợ 02 lần, lần 1 trả hết số
tiền gốc 1.300.000.000 đồng vào ngày 07/10/2022, lần 2 trả số tiền gốc
1.700.000.000 đồng vào ngày 07/10/2022; Lãi suất vay thỏa thuận là 09%/năm,
lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn tại thời điểm chuyển nợ
quá hạn, lãi chậm trả 10%/năm tính trên số dư lãi chậm trả tương ứng với thời
gian chậm trả. Lãi suất có điều chỉnh 03 tháng/lần phù hợp với quy định của
Agribank.
Để đảm bảo cho khoản vay, ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H đã thế chấp tài
sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mang tên Lưu Việt C và Đỗ
Thị H, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số
07.2022/HĐTC-871000211-PT ngày 07/4/2022, được công chứng số 1222 ngày
07/4/2022 tại Phòng công chứng Nguyễn Minh Tú, thị xã NL, gồm thửa đất số
682, tờ Bản đồ số 29, loại đất ở đô thị, diện tích 159,5m
2
, địa chỉ tại: Tổ 12,
phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY
5492462 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái cấp ngày 01/02/2021, số
vào sổ CS 04302. Tài sản gắn liền với thửa đất là nhà xây kiên cố 03 tầng, bếp và
công trình phụ khép kín xây dựng năm 2020 và toàn bộ các tài sản, công trình
xây dựng khác, cây trồng, vật phụ kèm theo gắn liền với đất và nhà được hình
thành trước, trong và sau thời điểm ký kết. Xác định tổng giá trị tài sản thế chấp
là 5.272.000.000 đồng, đã được đăng ký giao dịch đảm bảo tại Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai thị xã NL, tỉnh Yên Bái ngày 07/4/2022.
Sau khi ký kết Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp, Agribank đã giải
ngân cho ông C số tiền 3.000.000.000 đồng vào ngày 07/4/2022 theo hai số giải
ngân 8710-LDS-202200856 là 1.300.000.000 đồng và số giải ngân 8710-LDS-
202200857 là 1.700.000.000 đồng. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông C bà H đã
trả tiền lãi là 83.098.000 đồng, trong đó khoản vay 1.300.000.000 đồng trả đến
ngày 01/9/2022; khoản vay 1.700.000.000 đồng trả đến ngày 30/6/2022. Kể từ
ngày 07/10/2022, do không trả nợ gốc và không trả lãi đúng hạn, Ngân hàng đã
nhiều lần đôn đốc, nhắc nhở thanh toán khoản vay đến hạn nhưng ông C, bà H
vẫn không thanh toán khoản nợ gốc và lãi, liên tiếp vi phạm nghĩa vụ đã cam kết
trong Hợp đồng, gây khó khăn cho việc thu hồi vốn Nhà nước.
3
Ngày 24/6/2022, Ngân hàng Agribank đã nhất trí phối hợp với Chi cục Thi
hành án dân sự thị xã NL để bán đấu giá tài sản là thửa đất và tài sản trên đất mà
ông C, bà H đã thế chấp với điều kiện khi bán được thì phải trả đủ tiền gốc, lãi
còn nợ cho Ngân hàng. Thi hành án đã tổ chức thẩm định giá và bán đấu giá theo
quy định, tuy nhiên đã 05 lần đấu giá không thành do không có tổ chức, cá nhân
nào đăng ký mua mặc dù đã giảm giá. Để đảm bảo quyền lợi của Ngân hàng
Agribank nên Ngân hàng không nhất trí việc giảm giá tiếp theo thông báo của
Chấp hành viên vì nếu tiếp tục giảm giá tài sản sẽ không đảm bảo quyền lợi cho
Ngân hàng Agribank, vì vậy Chi cục Thi hành án dân sự đã giao lại tài sản cho
ông C, bà H quản lý, sử dụng và yêu cầu ông bà không được đưa các tài sản để
tham gia các giao dịch khác.
Ngân hàng Agribank đã nhiều lần đôn đốc ông C, bà H phải trả số tiền gốc
và lãi theo Hợp đồng tín dụng số 8710-LAV-202200524, nhưng ông C, bà H
không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên đã khởi kiện tại Tòa án. Tính đến ngày làm
đơn 20/3/2024, tổng dư nợ ông C, bà H còn nợ Ngân hàng là 3.765.367.500 đồng,
trong đó nợ gốc là 3.000.000.000 đồng, lãi trong hạn là 489.171.200 đồng, lãi quá
hạn là 217.315.100 đồng, lãi chậm trả là 58.881.200 đồng. Do đó, Ngân hàng yêu
cầu Tòa án buộc ông C, bà H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng theo
Hợp đồng tín dụng đã ký. Cụ thể:
- Yêu cầu thanh toán cho Ngân hàng Agribank tiền nợ gốc, lãi phát sinh
theo thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng đã ký tính đến ngày làm đơn khởi kiện là
3.765.367.500 đồng và lãi kể từ ngày 21/3/2024 cho đến khi trả hết nợ gốc cho
Agribank.
- Ngay sau khi bản án của Toà án có hiệu lực pháp luật, Agribank có quyền
cần yêu cầu Cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản đảm bảo theo Hợp đồng thế
chấp đã ký để thu hồi nợ.
- Nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm không đủ trả nợ cho
Ngân hàng, thì Ngân hàng có quyền xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu,
sử dụng của bên vay để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án, Ngân hàng Agribank Chi nhánh thị xã NL đã cung
cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện.
Tại biên bản lấy lời khai bị đơn Đỗ Thị H trình bày:
Ngày 07/4/2022, ông C có ký kết vay khoản nợ 3.000.000.000 đồng của
Ngân hàng nông nghiệp Chi nhánh thị xã NL, bà H có ký giấy ủy quyền cho ông
C để vay tiền nên xác định cả hai vợ chồng là người vay tiền của Ngân hàng.
Mục đích vay để gia đình kinh doanh lương thực. Thời hạn vay là 12 tháng, lãi
suất là 9%/năm. Gia đình bà H có trả lãi theo đúng quy định đến tháng 9/2022,
sau đó do làm ăn không may gặp rủi ro nên chưa thanh toán được tiền lãi và gốc
theo thỏa thuận với Ngân hàng. Bà H xác định vẫn còn nợ gốc là 3.000.000.000
đồng và lãi suất. Để đảm bảo cho khoản vay vợ chồng có thế chấp quyền sử dụng
đất và tài sản trên đất là một ngôi nhà xây kiên cố 03 tầng cùng tài sản trên đất tại
địa chỉ tổ 12, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái. Đất đã được cấp giấy chứng
4
nhận quyền sử dụng đất mang tên vợ chồng bà H vào ngày 01/02/2021. Khi gia
đình nhận được thông báo trả lãi thì ông C đã lên Ngân hàng khất nợ vào tháng
11/2022 và được Ngân hàng cho biết nếu trả được lãi thì sẽ không gây khó khăn
tuy nhiên gia đình chưa trả được lãi. Ngoài ra, do gia đình bà H có liên quan đến
một vụ án khác nên đã tự nguyện giao tài sản cho bên Thi hành án vào ngày
14/12/2022 để vợ chồng bà H và Thi hành án cùng bán tài sản thi hành, tài sản đó
là nhà đất được thế chấp tại Ngân hàng Nông nghiệp thị xã NL để đảm bảo vay
khoản tiền 3.000.000.000 đồng. Ngân hàng cũng xuống làm việc với gia đình và
Thi hành án thống nhất bán tài sản, số tiền bán được nhà đất sẽ thanh toán cho
Ngân hàng đầu tiên. Gia đình bà H có ý kiến số tiền sau khi trả Ngân hàng còn lại
thì phải để cho gia đình một khoản để chi phí, ổn định chỗ ở còn lại thì mới thi
hành án, sau đó do không bán được nên Thi hành án dân sự thị xã NL đã thông
tin không bán được nhà, trả lại tài sản cho gia đình bà H. Nay Ngân hàng khởi
kiện, do làm ăn bị rủi ro nên bà H đề nghị Ngân hàng giãn nợ tạo điều kiện cho
gia đình. Việc Ngân hàng khởi kiện bà H đều thông báo cho ông C biết.
Ngày 02/5/2024, bà H và ông C có đơn xin cơ cấu giãn nợ gửi Ngân hàng
và Tòa án với lý do ông bà đã gặp nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh do
đại dịch Covid19, ông bà vẫn chấp hành tốt nghĩa vụ của mình trong việc trả tiền
lãi cho Ngân hàng và thiện chí hợp tác làm việc, không trốn tránh, ngoài ra khoản
vay có tài sản đảm bảo nên yên tâm về tính khả thi của việc thu hồi nợ trong
tương lai. Vì vậy ông bà căn cứ vào các chủ trương của Nhà nước để xin được
giãn nợ, miễn, giảm lãi và hỗ trợ khách hàng.
Ngày 06/5/2024, Ngân hàng Agribank có văn bản trả lời không đồng ý
việc xin giãn nợ của ông C, bà H do ông bà không đủ điều kiện.
Quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án ra Quyết
định xem xét, thẩm định tại chỗ, các bị đơn không đồng ý cho tiến hành thẩm
định. Bà H cũng thừa nhận toàn bộ nhà, đất hiện nay vẫn giữ nguyên như khi thế
chấp với Ngân hàng nên bà H không đồng ý thẩm định, trước đây gia đình bà H
đã được Chi cục Thi hành án dân sự thị xã NL làm các thủ tục thẩm định giá đối
với ngôi nhà do bà H phải thi hành một bản án khác, bà H đã tự nguyện giao tài
sản cho Chi cục Thi hành án bán đấu giá, sự việc này Ngân hàng cũng biết, tuy
nhiên sau đó do không bán đấu giá được nên Chi cục Thi hành án đã giao lại tài
sản cho gia đình bà quản lý.
Ngày 24/5/2024, Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ đối với diện tích đất
theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 07.2022/HĐTC-871000211-PT
ngày 07/4/2022 theo yêu cầu của nguyên đơn (nguyên đơn không đồng ý kết quả
thẩm định trước đó của Chi cục Thi hành án dân sự). Kết quả xem xét, thẩm định
tại chỗ: Tổng diện tích đất đo đạc thực tế là 159,5m
2
không có sự thay đổi so với
diện tích đất được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tài sản trên đất
gồm có: 01 nhà xây kiên cố 03 tầng, tầng 03 lợp tôn. Đất có các tứ cận:
+ Phía Bắc giáp đất nhà ông Nguyễn Viết B và ông Nguyễn Đồng Đ (Từ
điểm 1 đến điểm 2 là 4,793m; từ điểm 2 đến điểm 3 là 13,33m; từ điểm 3 đến
điểm 4 là 1,92m; từ điểm 4 đến điểm 5 là 0,89m; từ điểm 5 đến điểm 6 là 7,65m);

5
+ Phía Đông giáp đường Hoàng Liên Sơn (từ điểm 6 đến điểm 7 dài 6,44m);
+ Phía Nam giáp đất nhà bà Phan Thị Thanh Q (từ điểm 7 đến điểm 8 dài
2,06m; từ điểm 8 đến điểm 9 dài 14,54m; từ điểm 9 đến điểm 10 là 8,6m);
+ Phía Tây giáp đất nhà ông Nguyễn Xuân T (từ điểm 10 đến điểm 11 dài
3,65m).
Ngân hàng và các hộ liền kề đều thừa nhận toàn bộ diện tích đất và nhà của
ông C, bà H đều không có gì thay đổi so với năm 2021 (năm ông C bà H xây nhà,
trước khi ký thế chấp). Sau khi thẩm định bà H cũng thừa nhận kết quả thẩm định
đúng về diện tích đất và tài sản trên đất.
Tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2024/KDTM-ST ngày
01/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái đã quyết định:
Căn cứ các Điều 30, 35, 39, 144, 147, 157, 158, 227, 271, 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự; các Điều 117, 280, 292, 295, 299, 317, 318, 463, 466, 468, 500
của Bộ luật Dân sự; các Điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng được sửa đổi bổ
sung năm 2017; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 01/11/2019 của HĐTP Tòa
án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi
suất, phạt vi phạm; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng NN và PTNNVN
(Agribank).
1.1. Buộc ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H phải thanh toán cho Ngân hàng
NN và PTNNVN (Agribank) số tiền còn nợ gốc và lãi tính đến hết ngày
01/8/2024 là 3.965.153.100 đồng (ba tỷ chín trăm sáu mươi lăm triệu một trăm
năm mươi ba nghìn một trăm đồng), trong đó nợ gốc là 3.000.000.000 đồng, nợ
lãi trong hạn là 599.308.200 đồng; nợ lãi quá hạn 272.383.600 đồng, lãi chậm trả
là 93.461.300 đồng theo Hợp đồng tín dụng số 8710/LVA-202200524 ngày
07/4/2022.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông C, bà H còn phải tiếp
tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất
các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 8710/LVA-202200524 ngày
07/4/2022 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong Hợp
đồng tín dụng các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng
thời kỳ của Ngân hàng Agribank thì lãi suất mà ông C và bà H vay phải tiếp tục
thanh toán cho Ngân hàng Agribank - Chi nhánh thị xã NL theo quyết định của
Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân
hàng Agribank - Chi nhánh thị xã NL.
1.2. Nếu ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H không trả được số tiền trên thì
Agribank có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án có thẩm quyền phát mại tài sản
bảo đảm sau để thu hồi nợ:
Toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác
gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY549246, thửa đất

6
số 682, tờ Bản đồ số 29, địa chỉ tại: Tổ 12, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái,
diện tích đất là 159,5m
2
, hình thức sử dụng riêng, đất ở đô thị, thời gian sử dụng
lâu dài, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái cấp ngày 01/02/2021 cho
ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H và toàn bộ tài sản gắn liền với thửa đất là 01 nhà
ở xây kiên cố 03 tầng, toàn bộ các tài sản, công trình xây dựng khác, cây trồng,
vật phụ kèm theo gắn liền với đất và nhà được hình thành trước, trong và sau thời
điểm ký kết (theo Hợp đồng thế chấp đã ký ngày 07/4/2022).
1.3. Nếu số tiền thu được từ việc xử lý tài sản bảo đảm của ông Lưu Việt C
và bà Đỗ Thị H không đủ trả nợ cho Ngân hàng Agribank, thì Ngân hàng
Agribank có quyền xử lý bất kỳ tài sản nào thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ông
bà Cường Huyền để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H phải trả cho
Ngân hàng Agribank số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 7.400.000 đồng
(bẩy triệu bốn trăm nghìn đồng).
Kể từ ngày Ngân hàng Agribank có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông C và
bà H chưa thi hành xong khoản tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ nêu trên thì
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về án phí: Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí Kinh doanh thương mại sơ
thẩm là 111.303.000 đồng (một trăm mười một triệu ba trăm linh ba ngàn đồng).
Nguyên đơn không phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm
được hoàn trả lại số tiền là 53.653.000 đồng (năm mươi ba triệu sáu trăm năm
mươi ba ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số: AA/2023/0000849 ngày
27/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái.
Ngày 12/8/2024, bị đơn bà Đỗ Thị H kháng cáo toàn bộ nội dung bản án sơ
thẩm.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện của nguyên đơn (bà Nguyễn Thị Hải A) giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị H,
riêng về chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ Ngân hàng nhận chịu.
Bị đơn bà Đỗ Thị H giữ nguyên nội dung kháng cáo, nhất trí việc Nguyên
đơn nhận chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
Các đương sự không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ và không thỏa
thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái tham gia phiên tòa phát biểu
ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và
của các đương sự từ khi thụ lý vụ án phúc thẩm đến trước khi Hội đồng xét xử
nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

7
- Về thủ tục: Kháng cáo của bà H trong thời hạn luật định nên cần được
xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Về nội dung vụ án: Đề nghị căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị H, sửa
Bản án
kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2024/KDTM-ST ngày 01/8/2024 của Tòa
án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái
về cách tuyên lãi suất giai đoạn thi hành án
và phát mại tài sản thế chấp và nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của bà Đỗ Thị H đúng hình thức, trong hạn luật định,
đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[1.2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Ngân
hàng Agribank khởi kiện bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo Hợp đồng tín
dụng số 8710-LAV-202200524 ngày 07/4/2022 giữa Ngân hàng Agribank Chi
nhánh thị xã NL với ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H. Đây là tranh chấp Hợp
đồng tín dụng, nên Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái thụ lý, giải quyết sơ
thẩm là đúng quy định tại khoản 1 Điều 30; điểm b khoản 1 Điều 35; Điều 39 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, đồng thời xác định tư cách người tham gia tố tụng đúng
quy định pháp luật.
[1.3] Ông Lưu Việt C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn
vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông C
theo quy định tại khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Theo Hợp đồng tín dụng số 8710/LVA-202200524 ngày 07/4/2022
thể hiện ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H (bà H ủy quyền cho ông C tham gia ký
kết hợp đồng) có vay vốn tại Ngân hàng Agribank chi nhánh thị xã NL với số tiền
3.000.000.000 đồng (ba tỷ đồng), thời hạn vay 06 tháng kể từ ngày giải ngân vốn
vay, phương thức cho vay theo hạn mức. Mục đích vay: Kinh doanh lương thực.
Sau khi ký kết hợp đồng tín dụng Ngân hàng đã giải ngân số tiền cho vay và ông
C đã nhận đủ số tiền 3.000.000.000 đồng vào ngày 07/4/2022 (theo số giải ngân
8710-LDS-202200856 và số giải ngân 8710-LDS-202200857).
Xét thấy, việc hai bên ký kết hợp đồng trên cơ sở tự nguyện, phù hợp
khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn tại Quy chế về hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng với khách hàng ban hành theo Thông tư
39/2016/TT- NHNN ngày 30/12/2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, có
hiệu lực tại thời điểm giao kết Hợp đồng nên có giá trị pháp lý và hiệu lực thi
hành đối với các bên. Đến hạn thanh toán (07/10/2022) ông C, bà H không thực
hiện nghĩa vụ trả nợ như thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng ngày 07/4/2022,

8
nên Ngân hàng Agribank khởi kiện yêu cầu ông C, bà H trả nợ gốc 3.000.000.000
đồng (ba tỷ đồng) là có căn cứ.
Về tiền lãi: Theo thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số 8710/LVA
202200524 ngày 07/4/2022 thì lãi suất là 9%/năm và có thay đổi theo quy định
của ngân hàng; lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn; lãi suất chậm trả
bằng 10%/năm của lãi chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Kể từ ngày
01/9/2022 lãi suất áp dụng là 9,5%/năm và kể từ ngày 01/11/2022 lãi suất áp
dụng là 10%/năm, sự thay đổi lãi suất này đều được Agribank thông báo cho ông
C, bà H biết theo quy định. Ông C, bà H mới thanh toán được 83.098.000 đồng,
trong đó khoản vay 1.300.000.000 đồng trả đến ngày 01/9/2022; khoản vay
1.700.000.000đồng trả đến ngày 30/6/2022.
Tính đến hết ngày 01/8/2024, tổng tiền lãi ông C, bà H chưa trả cho Ngân
hàng Agribank là 965.153.100 đồng, trong đó: Lãi trong hạn là 599.308.200 đồng;
lãi quá hạn 272.383.600 đồng, lãi chậm trả là 93.461.300 đồng.
Xét thấy, lãi suất trên được các bên thỏa thuận là phù hợp với Điều 13 của
Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam. Số tiền lãi được Ngân hàng Agribank Chi nhánh thị xã NL tính đúng theo
thỏa thuận và quy định về mức lãi suất của Ngân hàng Agribank và Ngân hàng
Agribank tỉnh Yên Bái trong kỳ trả nợ nên được chấp nhận. Ngoài ra, yêu cầu trả
lãi phát sinh của ngân hàng Agribank đối với ông C, bà H sau ngày xét xử sơ
thẩm 01/8/2024 theo mức lãi suất đã thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng số
8710/LVA-202200524 ngày 07/4/2022 là có căn cứ, phù hợp với điểm a khoản 1
Điều 13 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao nên được chấp nhận.
Về lãi suất thi hành án: Bản án sơ thẩm tuyên chấp nhận việc điều chỉnh lãi
suất của Ngân hàng Agribank là không có căn cứ vững chắc bởi lẽ khi chưa biết
mức lãi suất cụ thể thì không thể đánh giá được mức lãi suất đó có phù hợp với
quy định pháp luật hay không, nên cần phải sửa lại việc tuyên lãi suất thi hành án.
Lãi suất thi hành án được áp dụng theo thoả thuận của các bên, đã được
xác định là: Lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn, lãi suất trong hạn các
bên thoả thuận sau cùng là 10%, nên lãi suất quá hạn giai đoạn thi hành án là
15%/năm.
[2.2] Về Hợp đồng thế chấp tài sản: Để đảm bảo cho khoản vay ông C, bà
H đã thế chấp tài sản theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất số 07.2022/HĐTD-871000211-PT ngày 07/4/2022, công chứng số
1222 ngày 07/4/2022 tại Phòng công chứng Nguyễn Minh Tú được hai bên tự
nguyện thỏa thuận ký kết bởi những người có đủ thẩm quyền, đã được công
chứng, đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất tại Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thị xã NL. Về hình thức, nội dung của Hợp đồng không vi phạm điều cấm,
không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Do vậy là hợp pháp,
phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên nên các bên phải có nghĩa vụ thực hiện
theo đúng nội dung đã cam kết.

9
Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản gắn liền
với đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CY549246, thửa đất số 682,
tờ Bản đố số 29, địa chỉ thửa đất: Tổ 12, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái,
diện tích đất là 159,5m
2
, hình thức sử dụng riêng, mục đích sử dụng đất ở đô thị,
thời gian sử dụng lâu dài, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái cấp ngày
01/02/2021 cho ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H.
Ngày 24/5/2024, Tòa án nhân dân thị xã NL tiến hành xem xét, thẩm định
tại chỗ, kết quả tài sản thế chấp vẫn giữ nguyên hiện trạng theo Hợp đồng thế chấp.
Theo Điều 2 và Điều 8 Hợp đồng thế chấp số 07.2022/HĐTD-871000211-
PT thì: Bên thế chấp tự nguyện đem toàn bộ tài sản thế chấp để bảo đảm thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ trả nợ của bên được cấp tín dụng là ông C, bà H; bên nhận thế
chấp được xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ trong các trường hợp: Đến hạn thực
hiện bất kỳ nghĩa vụ nào mà ông C, bà H không thực hiện, hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ. Xét thấy, bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ và làm phát sinh nợ
quá hạn theo Điều 5 Hợp đồng tín dụng 8710-LVA-202200524 ngày 07/4/2022.
Do đó, căn cứ các Điều 299, 301, 317, 318, 319 của Bộ luật Dân sự, Tòa án cấp sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn; do bị đơn không trả được khoản nợ nên
Ngân hàng Agribank có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án có thẩm quyền phát
mại tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp để Ngân hàng thu hồi nợ là có căn cứ.
Tuy nhiên cần chỉnh sửa lại cách tuyên án cho phù hợp.
[2.3] Xét kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thị H:
Việc không đồng ý thẩm định tài sản thế chấp và thanh toán chi phí xem
xét, thẩm định vì cho rằng tài sản đã được Cơ quan Chi cục Thi hành án thẩm
định. Hội đồng xét xử thấy mặc dù Ngân hàng Agribank và bị đơn nhất trí phối
hợp với Cơ quan thi hành án để bán tài sản đang thế chấp, tuy nhiên qua nhiều
lần đấu giá không bán được, Ngân hàng không chấp nhận hạ giá sẽ ảnh hưởng
đến quyền lợi của Ngân hàng nên không đồng ý bán đấu giá tiếp. Quá trình giải
quyết vụ án Ngân hàng không đồng ý lấy kết quả thẩm định của Cơ quan Thi
hành án mà đề nghị Tòa án xem xét thẩm định. Dó đó, căn cứ Điều 101 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ
tài sản thế chấp làm căn cứ giải quyết vụ án là đúng quy định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án
cấp sơ thẩm buộc ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H phải chịu chi phí xem xét,
thẩm định tại chỗ là phù hợp.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm Ngân hàng Agribank nhận chịu toàn bộ
tiền chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là 7.400.000 đồng, bị đơn bà Đỗ Thị H
nhất trí, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về việc Ngân hàng không thực hiện việc giãn nợ cho ông C, bà H theo quy
định: Căn cứ vào Điều 4 Thông tư số 02/2023/TT-NHNN ngày 23/4/2023 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì ông C, bà H không đáp ứng đủ các điều kiện
để được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Vì vậy việc Ngân hàng Agribank không thực

10
hiện việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho ông C bà H là không vi phạm, kháng cáo
của bà H không có cơ sở nên không được chấp nhận.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo
của bị đơn bà Đỗ Thị H, tuy nhiên cần sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ
thẩm số 01/2024/KDTM-ST ngày 01/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh
Yên Bái về nghĩa vụ chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, cách tuyên lãi suất
giai đoạn thi hành án và phát mại tài sản thế chấp.
[4] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp
với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.
[5] Về án phí: Do cấp phúc thẩm sửa Bản án sơ thẩm nên bị đơn bà Đỗ Thị
H không phải chịu tiền án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Việc Toà án cấp sơ thẩm thu 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí kinh doanh
thương mại phúc thẩm đối với bà Đỗ Thị H là không đúng, cần rút kinh nghiệm
vì theo Điều 7 và Danh mục án phí, lệ phí Toà án ban hành kèm theo Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì
mức tạm ứng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm là 2.000.000 đồng (hai
triệu đồng).
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 148; khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Toà án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Đỗ Thị H.
Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2024/KDTM-ST ngày
01/8/2024 của Tòa án nhân dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái về cách tuyên lãi suất
giai đoạn thi hành án và phát mại tài sản thế chấp và nghĩa vụ chịu chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ, như sau:
Căn cứ Điều 30, 35, 39, 144, 147, 157, 158, 227, 271 và Điều 273 của Bộ
luật Tố tụng Dân sự; các Điều 117, 280, 292, 295, 299, 317, 318, 463, 466, 468,
500 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng được sửa đổi bổ
sung năm 2017; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 01/11/2019 của HĐTP Tòa
án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi
suất, phạt vi phạm; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án.

11
1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng NN và PTNNVN
(Agribank).
- Buộc ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H phải thanh toán cho Ngân hàng NN
và PTNNVN (Agribank) số tiền còn nợ gốc và lãi tính đến hết ngày 01/8/2024 là
3.965.153.100 đồng (ba tỷ chín trăm sáu mươi lăm triệu một trăm năm mươi ba
nghìn một trăm đồng), trong đó nợ gốc là 3.000.000.000đồng, nợ lãi trong hạn là
599.308.200đồng; nợ lãi quá hạn 272.383.600 đồng, lãi chậm trả là 93.461.300
đồng theo Hợp đồng tín dụng số 8710/LVA-202200524 ngày 07/4/2022.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, ông C, bà H còn phải chịu
khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất các bên thỏa
thuận là 15%/năm tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
- Ngân hàng Agribank có quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án có thẩm
quyền phát mại tài sản bảo đảm sau để thu hồi nợ:
Toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác
gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CY549246, thửa đất
số 682, tờ Bản đố số 29, địa chỉ tại: Tổ 12, phường TT, thị xã NL, tỉnh Yên Bái,
diện tích đất là 159,5 m
2
, hình thức sử dụng riêng, đất ở đô thị, thời gian sử dụng
lâu dài, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Yên Bái cấp ngày 01/02/2021 cho
ông Lưu Việt C và bà Đỗ Thị H và toàn bộ tài sản gắn liền với thửa đất là 01 nhà
ở xây kiên cố 03 tầng, toàn bộ các tài sản, công trình xây dựng khác, cây trồng,
vật phụ kèm theo gắn liền với đất và nhà được hình thành trước, trong và sau thời
điểm ký kết (theo Hợp đồng thế chấp đã ký ngày 07/4/2022).
Đất có các cạnh thửa (tứ cận theo biên bản xem xét thẩm định ngày
24/5/2024) như sau:
+ Phía Bắc giáp đất nhà ông Nguyễn Viết B và ông Nguyễn Đồng Đ (từ điểm 1
đến điểm 2 là 4,79m; từ điểm 2 đến điểm 3 là 13,33m; từ điểm 3 đến điểm 4 là 1,92m;
từ điểm 4 đến điểm 5 là 0,89m; từ điểm 5 đến điểm 6 là 7,65m);
+ Phía Đông giáp đường Hoàng Liên Sơn (từ điểm 6 đến điểm 7 dài 6,44m);
+ Phía Nam giáp đất nhà bà Phan Thị Thanh Q (từ điểm 7 đến điểm 8 dài
2,06m; từ điểm 8 đến điểm 9 dài 14,54m; từ điểm 9 đến điểm 10 là 8,6m);
+ Phía Tây giáp đất nhà ông Nguyễn Xuân T (từ điểm 10 đến điểm 11 dài
3,65m).
- Trường hợp tài sản phát mại không đủ trả hết nợ thì ông Lưu Việt C và bà
Đỗ Thị H phải trả cho đến khi hết nợ Ngân hàng NN và PTNNVN .
1.2. Về chi phí tố tụng: Ngân hàng Agribank nhận chịu số tiền chi phí xem
xét thẩm định tại chỗ là 7.400.000 đồng (bẩy triệu bốn trăm nghìn đồng), xác
nhận đã nộp đủ.
1.3. Về án phí: Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ
thẩm là 111.303.000 đồng (một trăm mười một triệu ba trăm linh ba ngàn đồng).

12
Nguyên đơn không phải chịu tiền án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm
được hoàn trả lại số tiền là 53.653.000 đồng (năm mươi ba triệu sáu trăm năm
mươi ba ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số: AA/2023/0000849 ngày
27/3/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự dân thị xã NL, tỉnh Yên Bái.
2. Về án phí phúc thẩm: Bà Đỗ Thị H không phải chịu tiền án phí kinh
doanh thương mại phúc thẩm, được trả lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
300.000 đồng theo Biên lai số AA/2023/0000919 ngày 14/8/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự thị xã NL, tỉnh Yên Bái.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yên cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật Thi
hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- Vụ GĐKT2-TAND Tối cao; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Yên Bái;
- TAND thị xã NL;
- Chi cục THADS thị xã NL;
- Các đương sự (đại diện); (Đã ký)
- Lưu: HS, HCTP.
Nguyễn Thị Vân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 15/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm