Bản án số 01/2025/DS-ST ngày 21/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 10 - Gia Lai, tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 01/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 01/2025/DS-ST ngày 21/07/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 10 - Gia Lai, tỉnh Gia Lai về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 10 - Gia Lai, tỉnh Gia Lai
Số hiệu: 01/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Lê Thị N có yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông G3 và bà L phải trả cho bà N số tiền gốc còn nợ là
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
KHU VỰC 10-GIA LAI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 01/2025/DS-ST
Ngày: 21-7-2025
V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN KHU VỰC 10-GIA LAI
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà: Ông Rmah HThuyên
- Các Hội thẩm nhân dân: 1. Bà Nguyễn Thị Chín
2. Ông Lê Văn Do
Thư ký phiên toà: Ông Vũ Đức Quang-Thư ký Tòa án của Toà án nhân dân khu
vực 10-Gia Lai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân khu vực 10-Gia Lai tham gia phiên toà: Bà Lê
Thị Thu Bình - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 7 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân khu vực 10-Gia Lai, xét
xử sơ thẩm công khai vụ án vụ án dân sự thụ lý số 19/2025/TLST-DS ngày 24 tháng
3 năm 2025 về "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản".
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2025/QĐXXST-DS ngày 18 tháng
6 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2025/QĐST-DS ngày 30 tháng 6 năm
2025, giữa:
-Nguyên đơn:Thị N; địa chỉ: T F, xã Đ, tỉnh Gia Lai (Địa chỉ cũ: Tổ F,
thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai). Có mặt.
-Bị đơn: Ông G và bà L; Cùng địa chỉ: Thôn D, xã Đ, tỉnh Gia Lai (Địa chỉ cũ:
Thôn D, xã G, huyện Đ, tỉnh Gia Lai).Có mặt.
-Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bđơn: Ông Ngô Đức N1-Luật
sư, Văn phòng L1 thuộc Đoàn luật sư tỉnh G. Có mặt.
-Người làm chứng:
1. Ông G1; Địa chỉ: Thôn D, Đ, tỉnh Gia Lai (Địa chỉ cũ: Thôn D, G,
huyện Đ, tỉnh Gia Lai). Có mặt.
2. Ông G2; Địa chỉ: Thôn D, Đ, tỉnh Gia Lai (Địa chỉ cũ: Thôn D, G,
huyện Đ, tỉnh Gia Lai). Có mặt.
-Người phiên dịch: Ông A; Địa chỉ: Thôn P, xã Đ, tỉnh Gia Lai (địa chỉ cũ: Thôn
P, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai). Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Lê Thị N trình bày:
Vào thời gian ngày 11/01/2020 ông G3 bà L vay tiền của N đtrả bằng
phê vơi số tiền là: 196.160.000 đồng với lãi suất 3.5 %/tháng hẹn đến ngày
20/3/2020 sẽ trả cả gốc lẫn lãi bằng phê, nếu không trả bằng cà phê thì sthanh
toán bằng tiền mặt. Đến ngày 24/02/2020 ông G3 và bà L vay 2.500.000 đồng để trả
lãi ngân hàng. Tổng cộng hai lần ông G3 L vay của tôi số tiền là: 198.660.000
2
đồng. Ông G3 và L viết một giấy cam kết vay tiền trả bằng phê để làm tin.
Đến hạn trả nợ nhưng ông G3 và bà L chỉ trả được hai lần tổng số tiền là: 50.000.000
đồng, còn nợ số tiền là: 148.660.000 đồng.
Thị N yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông G3 L phải trả cho
N số tiền gốc còn nợ là: 148.660.000 đồng yêu cầu trả tiền lãi của số tiền nợ gốc
còn lại 148.660.000 đồng, với mức lãi suất 1%/tháng ktừ ngày 24/02/2020 cho
đến ngày xét xử sơ thẩm với số tiền lãi là 95.984.806 đồng.
Tại phiên tòa: N chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc còn nợ 148.660.000
đồng và rút phần yêu cầu tiền lãi.
2. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là ông G3 và bà L trình bày như sau:
Tại bản tự khai ngày 28/3/2025 (bút lục 21), bị đơn khai:
Vào ngày 11/01/2021, vợ chồng bị đơn mua phân bón của N sau đó quy
ra thành tiền là 196.160.000 đồng, lãi suất 3,5%/tháng và hẹn đến ngày 30/3/2020 trả
bằng cà phê hoặc tiền cả gốc lẫn lãi. B đơn có viết giấy cam kết vay tiền cho bà N.
Ngày 24/02/2020, vay tiếp số tiền 2.500.000 đồng, tổng cộng hai lần vay
198.660.000 đồng.
Vợ chồng bị đơn đã trả hai lần tổng cộng là 50.000.000 đồng, còn nợ
148.660.000 đồng, hẹn thời gian gần nhất sẽ trả số tiền còn lại.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn có thay đổi lời khai, cụ thể:
Tại biên bản hòa giải ngày 11/4/2025, ông G3 L đã trình bày cho rằng còn
nợ N số tiền gốc 148.660.000 đồng nhưng đã trả xong không còn nợ N nữa
nên không đồng ý trả nợ theo yêu cầu của N.
Tại văn bản tiêu đề “ĐƠN PHẢN CÁO” đngày 21/4/2025, bị đơn trình
bày:
Từ trước đến nay giữa bđơn và vợ chồng N quen biết nhau như anh em
ruột, vợ chồng bị đơn cần tiền nên nhờ bà N vay tiền mặt và phân bón để làm ăn, mi
khi vay tiền hoặc mượn phân bón số tiền bao nhiêu bị đơn đều trả đủ và mượn lại, số
tiền bị đơn ợn trả cho vợ chồng N không có biên lai cho hai bên giữ nên
bị đơn không nắm rõ, số tiền vay đầu tiên ngày 11/01/2020 là: 196.160.000 đồng. Từ
trước giờ bị đơn vay nguyên đơn đến năm 2022 là: 456.000.000 đồng, năm 2022 em
ruột bị đơn GYÔN đã trả 400.000.000 đồng, còn lại 56.000.000 đồng. Sau đó bị
đơn đã trả hai lần, lần một là: 20.000.000 đồng, lần hai là: 30.000.000 đồng, còn lại
6.000.000 đồng.
Tại “ĐƠN BỔ SUNG” đngày 08/5/2025 bị đơn đã trình bày bsung thêm vào
nội dung như sau: Giữa gia đình bị đơn vợ chồng N quen biết nhau đã hơn 17
năm nanh em ruột, mỗi khi gia đình bị đơn cần tiền để làm ăn và mượn phân
bón để chăm sóc cây cà phê... Gia đình bị đơn nhờ cứ tới năm trả rồi lần lượt vay lại.
lần gia đình bị đơn vay Ngân hàng TNHH MTV D chi nhánh G5 ngày
20/6/2019 số tiền vay 150.000.000 đồng.
Lần 2: Ngân hàng TMCP S: 302.500.000 đồng.
Đến khi đáo hạn đều nhờ vợ chồng bà N giúp đỡ.
Toàn bộ những vay mượn tiền mặt phân bón và đáo hạn Ngân hàng hai bên đã
chốt cuối cùng thanh toán tổng số nợ năm 2020 số tiền là: 456.000.000 đồng.
Đến tháng 4 năm 2022 em ruột tôi tên GYÔN, trú tại: Thôn I, xã G, huyện
Đ, tỉnh Gia Lai trả được 400.000.000 đồng, còn lại 56.000.000 đồng (năm mươi sáu
triệu đồng) lần sau tôi trả hai đợt.
3
- Đợt 1: 20.000.000 đồng.
- Đọt 2: 30.000.000 đồng.
- Còn lại: 6.000.000 đồng.
Bị đơn rất ngạc nhiên khi N khởi kiện cho rằng bị đơn còn nợ 196.160.000
đồng.
Bị đơn đề nghị Tòa án xem xét so sánh giữa N lấy chứng cứ ngày
11/01/2020, còn em của bị đơn ông G4 đã trả vào tháng 4 năm 2022 khớp ngày
tháng năm hay là bị chênh lệch. Giấy tờ giữa gia đình bị đơn và bà N có vay tiền hay
phân bón không viết biên lai, cả em ông G4 trả bà N cũng không viết biên lai mà chỉ
viết trong sổ tay bà N.
Tại biên bản lấy lời ngày 30/6/2025, người làm chứng:
Anh G1 trình bày: Anh G1 cháu gọi ông G3 và L bác ruột. Vào tháng
4/2022, anh có đi ng bố là G4 và ông G3, bà L có đến nhà bà N. Bố anh là ông G4
đã trả số tiền 400.000.000 đồng cho N thay cho ông G3, L để N đưa bìa đỏ
lại cho ông G4.
Ông G4 trình bày: Ông em ruột của ông G3, vào tháng 4/2022, ông G4 đã
trả số tiền 400.000.000 đồng cho N thay cho ông G3, bà L để N đưa bìa đỏ lại
cho ông G4.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, buộc bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Về tố tụng:
Thị N khởi kiện yêu cầu ông G3, L phải trả nợ số tiền đã vaytiền lãi
theo thoả thuận. Đây là tranh chấp về dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. Bị đơn có nơi cư t tại thôn D, xã G, huyện Đ, tỉnh Gia Lai (Nay là thôn D, xã Đ,
tỉnh Gia Lai). Do vậy, Tòa án nhân dân khu vực 10-Gia Lai có thẩm quyền giải quyết.
[2]. Về nội dung:
Căn cứ văn bản có tiêu đề GIẤY CAM KẾT VAY TIỀN TRẢ BẰNG
PHÊ” ngày 11/01/2020, thì ông G3, bà L đã vay N số tiền là 196.160.000 đồng với
mức lãi 3,5%/tháng, hạn trả nợ ngày 30/3/2020, ngày 24/02/2020 vay tiếp 2.500.000
đồng để trả lãi ngân hàng. Tổng cộng hai lần vay là: 198.660.000 đồng. Tại văn bản
này chữ của ông G3, L các bên không thỏa thuận thế chấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hay tài sản gì.
Về nội dung này, tại bản tự khai ngày 28/3/2025 (bút lục 21), bị đơn cũng thừa
nhận: Vào ngày 11/01/2021, vợ chồng bị đơn mua phân bón của bà N sau đó quy
ra thành tiền là 196.160.000 đồng (Một trăm chín mươi sáu triệu, một trăm sáu mươi
nghìn đồng), lãi suất 3,5%/tháng và hẹn đến ngày 30/3/2020 trả bằng cà phê hoặc tiền
cả gốc lẫn lãi. Bị đơn có viết giấy cam kết vay tiền cho bà N.
Ngày 24/02/2020, vay tiếp số tiền 2.500.000 đồng, tổng cộng hai lần vay
198.660.000 đồng.
Như vậy, hợp đồng đã giao kết giữa nguyên đơn và bị đơn là hợp đồng vay có
kỳ hạn và có lãi.
N cho rằng ông G3, bà L vay tổng cộng 198.660.000 đồng, bị đơn cũng
thừa nhận như vậy nên căn cứ Điều khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự, đây
tình tiết, sự kiện không phải chứng minh. Do vậy, xác định bị đơn đã vay nguyên
đơn tổng cộng là 198.660.000 đồng là có thật.
4
[3]. Quá hạn trả nợ, nguyên đơn cho rằng bđơn mới chỉ trả được 50.000.000 đồng,
còn nợ stiền là: 148.660.000 đồng nên yêu cầu bị đơn phải trả cho tôi số tiền gốc
còn nợ là: 148.660.000 đồng và yêu cầu tính lãi suất theo quy định của pp luật.
Xét, tại văn bản tiêu đề “GIẤY CAM KẾT VAY TIỀN TRẢ BẰNG
PHÊ” ngày 11/01/2020 thể hiện ngày 24/02/2020, bị đơn trả 20.000.000 đồng và
ngày 25/6/2022 trả thêm 30.000.000 đồng, do vậy lời khai và yêu cầu của của bà N là
có cơ sở.
Đối với bị đơn, tại bản tự khai ngày 28/3/2025 (bút lục 21), bị đơn thừa nhận
vay của bà N tổng cộng hai lần vay là 198.660.000 đồng và bị đơn đã trả hai lần tổng
cộng là 50.000.000 đồng, hiện tại còn nợ 148.660.000 đồng, hẹn thời gian gần nhất sẽ
trả số tiền còn lại, lời khai này phù hợp với lời khai của nguyên đơn và giấy cam
kết vay tiền ngày 11/01/2020.
Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn có thay đổi lời khai:
-Tại biên bản hòa giải ngày 11/4/2025, ông G3 và bà L đã trình bày và cho rằng
còn nợ bà N số tiền gốc 148.660.000 đồng là đúng nhưng hiện tại đã trả xong nên
không đồng ý trả nợ theo yêu cầu của bà N.
-Tại văn bản tiêu đ“ĐƠN PHẢN CÁO” đề ngày 21/4/2025, bị đơn trình
bày: Từ trước đến nay giữa bị đơn bđơn quen biết nhau như anh em ruột, vợ chồng
bị đơn cần tiền nên nhờ bà Lê Thị N vay tiền mặt và phân bón để làm ăn, mỗi khi vay
tiền hoặc mượn phân, số tiền bao nhiêu gia đình bị đơn đều trả đủ và mượn lại, số tiền
gia đình bị đơn mượn trả cho vợ chồng N không có biên lai cho hai bên giữ
nên bị đơn không nắm khi nguyên đơn cho biết số tiền nợ bao nhiêu tgia đình
ông G3 trả thôi, như số tiền bị đơn vay đầu tiên ngày 11/01/2020 là: 196.160.000
đồng. Từ trước giờ bị đơn vay mượn cuối cùng đến năm 2022 là: 456.000.000 đồng,
năm 2022, em ruột ông G3 là GYÔN đã trả cho vợ chồng N 400.000.000 đồng còn
lại 56.000.000 đồng. Sau đó bị đơn đã trả hai lần, lần một là: 20.000.000 lần hai là:
30.000.000 đồng, còn lại 6.000.000 đồng.
Tại “ĐƠN BỔ SUNG” đề ngày 08/5/2025 bị đơn đã trình bày: Giữa gia đình bị
đơn vợ chồng N quen biết nhau đã hơn 17 năm như anh em ruột, mỗi khi bị đơn
cần tiền để làm ăn và mượn phân bón để chăm sóc câyphê... bị đơn nhờ cứ tới năm
trả rồi lần lượt mượn lại.
Có lần bị đơn có vay Ngân hàng TNHH MTV D chi nhánh G5 ngày 20/6/2019
số tiền vay 150.000.000 đồng.
Lần 2: Ngân hàng TMCP S: 302.500.000 đồng. Đến đáo hạn nhờ vợ chồng bà
N giúp đỡ.
Toàn bộ những vay mượn tiền mặt phân bón và đáo hạn Ngân hàng hai bên đã
chốt cuối cùng thanh toán tổng số nợ năm 2020 số tiền là: 456.000.000 đồng.
Đến tháng 4 năm 2022 em ruột ông G3 tên GYÔN, trả được 400.000.000
đồng, còn lại 56.000.000 đồng. Sau đó, bị đơn đã trả hai đợt, đợt 1: 20.000.000 đồng
đợt 2 30.000.000 đồng, tổng cộng 50.000.000 đồng. Hiện còn lại: 6.000.000
đồng.
Xét lời khai này của bị đơn trước sau bất nhất, lúc trình bày rằng còn nợ
N số tiền gốc là 148.660.000 đồng nhưng đã trả xong nên không đồng ý trả nợ theo
yêu cầu của bà N, khi thì khai là từ trước giờ bị đơn vay chốt lại năm 2022 là:
456.000.000 đồng, đã trả được 400.000.000 đồng còn lại 56.000.000 đồng. Sau đó bị
đơn đã trả thêm 50.000.000 đồng, còn lại 6.000.000 đồng.
5
Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án, bđơn còn cho rằng chữ tại văn
bản tiêu đề “GIẤY CAM KẾT VAY TIỀN TRẢ BẰNG PHÊ” ngày
11/01/2020 là không phải của bị đơn ký và ngày 21/4/2025, bị đơn đề nghị giám định
chữ ký. Tuy nhiên, tại Kết luận giám định số: 57/KL-KTHS ngày 06/6/2025 đã kết
luận: “Chữ viết tên “Gyưm” dưới mục “Người vay tiền” chữ viết tên “Guưm”
dưới dòng chữ “ngân hàng” trên mẫu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ viết của
Guưm trên các mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M6) do cùng một người viết ra.
Chữ viết tên “Lơt” dưới mục “Người vay tiền” trên mẫu cần giám định (ký hiệu
A) so với chữ viết của Lơt trên các mẫu so sánh (ký hiệu từ M1 đến M6) do cùng một
người viết ra”.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã lấy lời khai đối với ông G1 ông G4,
hai ông này đều khai nhận việc ông G4 trả số tiền 400.000.000 đồng nhưng việc
trả số tiền này để N lấy 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đưa lại cho gia
đình.
Đối chiếu với Hợp đồng tín dụng số 01642018/GLA22/HĐTD và Hợp đồng tín
dụng số 2050/2019/GLA22/HĐTD giữa Ngân hàng TMCP D nhánh G5 với ông G3,
L đều thể hiện việc mỗi lần vay Ngân hàng ông G3, L đều thế chấp quyền sử
dụng đất và các tài sản gắn liền với đất theo Giấy chứng nhận QSD đất quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất Số BL 949690 do UBND H.ĐăkĐoa cấp ngày
24/07/2012 và Giấy chứng nhận QSD đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số BL 949689 do UBND H.ĐăkĐoa cấp ngày 24/07/2012 bị đơn cũng
lời khai là bị đơn có vay Ngân hàng TNHH MTV D chi nhánh G5 ngày 20/6/2019 số
tiền vay 150.000.000 đồng và vay Ngân hàng TMCP S: 302.500.000 đồng.
Như vậy, có thể số tiền 400.000.000 đồng mà ông G4 đã trả thay cho ông G3,
bà L là số tiền trả nợ Ngân hàng đNgân hàng trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đã thế chấp thông qua Thị N chứ không phải số tiền đã trả nợ cho N,
khoản vay giữa ông G3, bà L với bà Lê Thị N vào ngày 11/01/2020 một khoản vay
khác. Bị đơn cho rằng đã trả xong là không có cơ sở.
[4]. Đối với tiền lãi, tại đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu tính mức lãi suất theo
quy định của pháp luật. Tại bản tự khai ngày 10/7/2025, nguyên đơn yêu cầu bị đơn
trả tiền lãi của số tiền nợ gốc còn lại 148.660.000 đồng, với mức lãi suất là 1%/tháng
kể tngày 24/02/2020 cho đến ngày xét xử thẩm với số tiền lãi 95.984.806 đồng.
Tuy nhiên, tại phiên tòa nguyên chỉ yêu cầu bị đơn trả số tiền gốc là 148.660.000
đồng rút phần yêu cầu tiền lãi. Ngoài ra, trước khi Tòa án cấp thẩm ra bản án,
bị đơn đã yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với hợp đồng vay tài sản.
Hội đồng xét xử xét thấy: Các bên đương sự đã giao kết hợp đồng vay tài sản
vào ngày 11/01/2020 đã thỏa thuận thời hạn trả nợ ngày 30/3/2020, theo quy
định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015thì“Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết tranh chấp hợp đồng 03 m, kể từ ngày người quyền yêu cầu biết hoặc
phải biết quyền lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm". Như vậy, tính từ ngày
30/3/2020 đến ngày nộp đơn khởi kiện là 24/3/2025 là đã quá 03 năm nên đã hết thời
hiệu khởi kiện. Vì vậy, yêu cầu áp dụng thời hiệu ca bị đơn là có căn cứ.
Trường hợp này nguyên đơn chỉ quyền đòi lại quyền sở hữu tài sản tiền
nợ gốc 148.660.000 đồng, hết thời hiệu yêu cầu bị đơn phải trả tiền lãi phát sinh theo
theo hợp đồng vay tài sản tại phiên tòa nguyên đơn đã rút nội dung khởi kiện đối
với phần yêu cầu tiền lãi 95.984.806 đồng phù hợp. Do vậy, hội đồng xét xử nên
Hội đồng xét xử chấp nhận không xem xét, giải quyết nội dung yêu cầu tiền lãi.
6
Từ các nhận định trên cho thấy: Thị N yêu cầu ông G3 L phải trả
số tiền gốc đã vay 148.660.000 đồng căn cứ nên Hội đông xét xử chấp nhận. Lời
khai của bị đơn về việc cho rằng đã trả xong nợ cho nguyên đơn hay cho rằng còn n
nguyên đơn 6.000.000 đồng là không có căn cứ.
[5]. Về án phí thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận
nên bị đơn phải chịu án phí sơ thẩm.
[6]. Về chi phí giám định: Bị đơn yêu cầu giám định chữ ký và đã nộp tạm ứng
10.000.000 đồng tiền chi phí giám định (biên bản giao nhận ngày 21/5/2025 bút lục
57). Tòa án đã chi phí giám định hết 5.670.000 đồng (Phiếu thu tháng 6/2025 bút lục
77). Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu chi
phí cho việc giám định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 92, 144, 147, 184 và Điều 273 của Bộ luật tố
tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 274; Điều 275; Điều 357; Điều 429; Điều 463; Điều 466,
Điều 468 và Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Thị N đối với ông G3
L.
1. Đình chỉ xét xử đối với nội dung nguyên đơn đã rút phần lãi suất số tiền
95.984.806 đồng.
2. Buộc ông G3 và bà L phải trả cho bà Lê Thị N số tiền ngốc là 148.660.000
đồng.
3. Về án phí: Buộc ông G3 L phải nộp 7.433.000 đồng đồng tiền án phí
dân sự sơ thẩm. Hoàn trả lại cho bà Thị N 3.716.500 đồng tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo lai thu số 0010804 ngày 24 tháng 3 năm 2025 của Chi cục Thi hành án dân
sự huyện Đak Đoa, tỉnh Gia Lai (Nay Phòng Thi hành án dân skhu vực 10-Gia
Lai).
4. Về chi phí giám định: Buc ông G3L phải chịu 5.670.000 đồng số tiền
chi phí giám định, được khấu trừ stiền tạm ứng chi phí giám định đã nộp 10.000.000
đồng (biên bản giao nhận ngày 21/5/2025 bút lục 57). Hoàn trả lại cho ông G3 và bà
L số tiền còn lại 4.330.000 đồng, ông G3 L đã nhận theo biên bản giao nhận
ngày 23/6/2025 (Bút lục 78).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong tất cả các khoản tiền nêu trên, người phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
thanh toán.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân squyền thoả
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật thi hành án dân sự;
7
Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân
sự.
5. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự có quyền kháng cáo
bản án sơ thẩm.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Gia Lai;
- VKSND khu vực 10-Gia Lai;
- Phòng THADS khu vực 10-Gia Lai;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Rmah HThuyên
Tải về
Bản án số 01/2025/DS-ST Bản án số 01/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 01/2025/DS-ST Bản án số 01/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất