Bản án số 710/2025/DS-PT ngày 24/11/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 710/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 710/2025/DS-PT ngày 24/11/2025 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 710/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/11/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Thị Kiều O “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” Bùi Văn Đ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
——————
Bản án số: 710/2025/DS-PT
Ngày 24-11-2025
Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
——————————————————
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Kim Nga
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thị Hồng Vân
Bà Trịnh Thị Phúc
- Thư ký phiên tòa: Bà Trương Thị Tuyến – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Tây
Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa:
Nguyễn Thị Cẩm Hồng Kiểm sát viên.
Trong các ngày 19 24 tháng 11 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 489/2025/TLPT-DS ngày 10
tháng 10 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 14/2025/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2025 của
Tòa án nhân dân Khu vực 6 – Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 489/2025/QĐ-PT ngày 29
tháng 10 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Trần Thị Kiều O, sinh năm 1967.
Địa chỉ: ấp C, xã L, tỉnh Tây Ninh.
- Bị đơn:
1. Ông Bùi Văn Đ, sinh năm 1970.
2. Bà Nguyễn Thị Mười H, sinh năm 1976.
Cùng địa chỉ: ấp R, xã L, tỉnh Tây Ninh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1964.
Địa chỉ: ấp C, xã L, tỉnh Tây Ninh.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Anh T, sinh năm 1972.
2. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1965.
Cùng địa chỉ: ấp L, xã L, tỉnh Tây Ninh.
- Người kháng cáo: bị đơn ông Bùi Văn Đ.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ngày 22 tháng 3 năm 2025 các văn bản trong quá
trình tố tụng tại Tòa án cấp sơ thẩm, nguyên đơn bà Trần Thị Kiều O trình bày:
Giữa ông Bùi Văn Đ H1 kinh doanh Trần Thị Kiều O xác lập quan hệ
mua bán thức ăn nuôi tôm thuốc thủy sản nhiều năm với nhau. Tính đến ngày
11/8/2023 chốt nợ lại 636.478.000 đồng. Do đã nhiều lần yêu cầu ông Đ trả nợ
nhưng ông Đ không thực hiện nên bà O khởi kiện yêu cầu ông Đ vợ
Nguyễn Thị Mười H trả số tiền trên. Chứng cứ bà O cung cấp là sổ bán hàng có nội
dung chính: vào ngày 11/02/2020, ông Đ vợ tên xác nhận, ông Đ ghi xác
nhận nội dung là “Tính đến ngày 11/02/2020. Em nợ chị tổng cộng 304.525.000 (ba
trăm lẽ bốn triệu, năm trăm hai lăm ngàn) đồng”; ngày 23/8/2021, ông Đ tên
xác nhận nội dung Tôi đồng ý số nợ trên Bốn trăm tám mươi chín triệu năm
trăm ba mươi ngàn nợ thức ăn tôm”. Sau đó O tiếp tục bán cho ông Đ H,
tính đến ngày 11/8/2023, vợ chồng ông Đ H nợ tổng cộng
636.478.000đồng. Theo thông lệ, khi mua bán hai bên chỉ lập 02 cuốn sổ nội
dung giống nhau và 02 bên sẽ ký xác nhận với nhau chứ không có xuất hóa đơn bán
hàng có nhận của bên mua. O yêu cầu ông Đ phải xuất trình cuốn số ông
Đ đang giữ để đối chiếu. O khởi kiện yêu cầu ông Đ liên đới cùng Mười H
thanh toán số tiền còn nợ là 636.478.000đồng.
Trong biên bản hòa giải ngày 28/4/2025, bị đơn ông Bùi Văn Đ trình bày:
Ông Bùi Văn Đ thừa nhận xác nhận quan hệ mua bán thức ăn nuôi tôm
thuốc thủy sản nhiều năm với H1 kinh doanh Trần Thị Kiều O. Tuy nhiên, số tiền
theo yêu cầu khởi kiện của O khởi kiện 636.478.000 đồng không đúng.
ông Đ đã trả bớt cho O. Nhưng số tiền cụ thể còn bao nhiêu thì ông Đ cũng
không nhớ. Mặt khác, ông Đ yêu cầu O phải xuất trình Hóa đơn mỗi lần bán
hàng cho ông Bùi Văn Đ chữ xác nhận của ông Bùi Văn Đ. Chứng cứ bà
O cung cấp sổ bán hàng, trong đó nội dung chính: Vào ngày 11/02/2020, ông
Đ vợ tên ghi họ tên xác nhận, ông Đ ghi xác nhận nội dung Tính đến
ngày 11/02/2020. Em nợ chị tổng cộng 304.525.000 (ba trăm lẽ bốn triệu, năm
trăm hai lăm ngàn) đồng”; ngày 23/8/2021, ông Đ tên ghi họ tên xác nhận
nội dung Tôi đồng ý số nợ trên Bốn trăm tám mươi chín triệu năm trăm ba
mươi ngàn nợ thức ăn tôm”. Tuy nhiên, 02 lần này do bà O ép buộc ông chứ
không đúng số nợ như vậy. Còn lần cuối chốt nợ là ngày 11/8/2023, lần này ông Đ
không thừa nhận mua bán không có nợ. Việc mua bán diễn ra đã lâu nên ông
không nhớ có lập sổ hay không và ông không còn lưu giữ gì hết.
Tại phiên tòa thẩm, bđơn ông Bùi Văn Đ trình bày: Giai đoạn sau ngày
23/8/2021, ông Đ xác nhận có mua thức ăn nuôi tôm và thuốc thủy sản của bà Trần
Thị Kiều O. Tuy nhiên, mua lần nào thì đã trả tiền xong lần đó nhưng ông Đ không
yêu cầu O làm giấy đã nhận tiền nên ông Đ không có giữ giấy tờ hết. Ông
Đ thừa nhận còn nợ tiền mua thức ăn nuôi tôm thuốc thủy sản của Trần Thị
Kiều O nhưng không đến số tiền như O trình bày. Vợ chồng ông sẽ đồng ý trả
nợ cho bà O nhưng trả dần dần.
Trong biên bản lấy lời khai ngày 26/6/2025 và tại phiên tòa, người làm chứng
ông Nguyễn Văn T1 trình bày:
3
Ông T1 Trần Thị Kiều O, ông Nguyễn Văn L, ông Bùi Văn Đ (tên gọi
khác Bảy H2), Nguyễn ThMười H không quan hệ con thân thích với
nhau. Ông T1 biết ông Đ, bà H (là hai vợ chồng) là do cùng xã và làm cùng nghề
nuôi tôm. Ông T1 biết O, ông L (là hai vợ chồng) là do ở cùng xã có quan hệ
mua bán thức ăn nuôi tôm với nhau (bà O là người bán, ông T1 là người mua). Ông
T1 xác nhận trong quan hệ mua bán thức ăn nuôi tôm thì giữa người bán
người mua đều làm thành 02 cuốn sổ, mỗi bên giữ 01 cuốn sổ để đối chiếu với
nhau về việc mua bán. Ông T1 khẳng định thời gian từ năm 2020 đến năm 2023
(âm lịch) thì ông biết được hộ ông Bùi Văn Đ (tên gọi khác là Bảy H2) có mua thức
ăn nuôi tôm của Trần Thị Kiều O. Tuy nhiên, việc mua bán bao nhiêu, thanh
toán tiền với nhau như thế nào thì ông không biết.
Trong biên bản lấy lời khai ngày 26/6/2025 và tại phiên tòa, người làm chứng
ông Nguyễn Anh T trình bày:
Ông T Trần Thị Kiều O, ông Nguyễn Văn L, ông Bùi Văn Đ (tên gọi
khác Bảy H2), Nguyễn ThMười H không quan hệ con thân thích với
nhau. Ông T biết ông Đ, H (là hai vợ chồng) do cùng làm cùng nghề
nuôi tôm. Ông T biết O, ông L (là hai vợ chồng) do cùng quan hệ
mua bán thức ăn nuôi tôm với nhau (bà O người bán, ông T là người mua). Ông
T xác nhận là trong quan hệ mua bán thức ăn nuôi tôm thì giữa người bán và người
mua đều làm thành 02 cuốn sổ, mỗi bên giữ 01 cuốn sổ để đối chiếu với nhau về
việc mua bán. Ông T khẳng định thời gian từ năm 2020 đến năm 2023 (âm lịch) thì
ông biết được hộ ông Bùi Văn Đ (tên gọi khác là Bảy H2) có mua thức ăn nuôi tôm
của Trần Thị Kiều O. do nhà ông T và nhà ông Đ trên cùng một tuyến
đường nên khi mua thức ăn nuôi tôm thì xe của Trần Thị Kiều O sẽ chở hàng đi
giao cho ông T và ông Đ. Trong những lần giao hàng thì do nhà của ông T gần hơn
nên sẽ giao cho nhà ông T trước rồi đến giao cho nhà ông Đ. Tuy nhiên, việc mua
bán bao nhiêu, thanh toán tiền với nhau như thế nào thì ông T không biết.
Vụ án được Toà án cấp thẩm tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận
công khai chứng cứ hoà giải nhưng các đương sự không thoả thuận được với
nhau.
Tại Bản án dân sự thẩm số 14/2025/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2025 của
Tòa án nhân dân Khu vực 6 – Tây Ninh đã căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1
Điu 35, khoản 1 Điều 39, Điu 147, Điều 266 Điều 273 Bộ lut t tng dân s
năm 2015; Điều 430, Điều 440, Điều 288, Điều 357 Điều 468 Bộ luật dân sự
năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014; Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án ngày 30 tháng 12 năm 2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị Kiều O
đối với bị đơn ông Bùi Văn Đ Nguyễn Thị Mười H về tranh chấp hợp đồng
mua bán tài sản.
Buộc ông Bùi Văn Đ Nguyễn Thị Mười H phải nghĩa vụ liên đới trả
nợ cho bà Trần Thị Kiều O số tiền là 636.478.000 (sáu trăm ba mươi sáu triệu, bốn
trăm bảy mươi tám ngàn) đồng.
4
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí: Buộc ông Bùi Văn ĐNguyễn Thị Mười H liên đới chịu án
phí dân sự sơ thẩm số tiền là 29.459.000 đồng. Hoàn trả cho bà Trần Thị Kiều O số
tiền tạm ứng án phí 14.729.000 đồng tại biên lai số 0018419 ngày 03 tháng 4
năm 2025 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cần Đước (nay là Phòng Thi hành
án dân sự khu vực 6 – Tây Ninh).
Ngoài ra bản án thẩm còn tuyên về quyền nghĩa vụ thi hành án, quyền
kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/7/2025 bị đơn ông Bùi Văn Đ làm đơn kháng
cáo không đồng ý với quyết định của Bản án sơ thẩm buộc ông và vợ là bà Nguyễn
Thị Mười H liên đới thanh toán cho Trần Thị Kiều O số tiền 636.478.000 đồng,
ông Đ chỉ đồng ý cùng Nguyễn Thị Mười H trả cho Trần Thị Kiều O số tiền
489.530.000đồng.
Tại phiên toà phúc thẩm, các đương sự không thoả thuận được với nhau,
nguyên đơn Trần Thị Kiều O không rút đơn khởi kiện, trình bày cho rằng, khi
ông Đ mua thức ăn chăn nuôi, O có ghi trong 2 quyển sổ mỗi bên giữ 1 quyển sổ
với nội dung ghi giống nhau, số tiền chốt nợ được thể hiện trong cả 02 quyển sổ
ghi, tuy nhiên khi chốt số nợ 489.533.000đồng thì ông Đ có ký tên xác nhận, nhưng
sau đó ông Đ mua tiếp thức ăn chăn nuôi, O ghi các lần mua bán, các lần thanh
toán tiền, chốt số nợ 636.478.000đồng thì ông Đ không đồng ý tên. Để tạo điều
kiện cho ông Đ thanh toán nợ O đồng ý giảm số tiền nợ còn lại
600.000.000đồng nhưng không đồng ý cho ông Đ và bà Mười H trả dần.
Bị đơn ông Bùi Văn Đ không t đơn kháng cáo, xuất trình sổ ghi quá trình
mua bán bằng quyển vở học sinh, trình bày cho rằng, sổ bị thất lạc mới tìm thấy,
trong đó chỉ ghi số nợ còn lại là 489.530.000đồng nên chỉ đồng ý thanh toán số tiền
này. Ông Đ thừa nhận rằng, sau khi chốt số nợ 489.530.0000đồng thì ông Đ cũng
tiếp tục mua thức ăn chăn nuôi, nhưng không ghi vào quyển sổ của ông Đ, chỉ có
O ghi ông Đ cũng không biết số nợ bao nhiêu, ông Đ không tên vào sổ
của O, ông Đ có thanh toán thêm 100.000.000đồng, không biết cụ thể số tiền
nợ, theo ông Đ thì ông Đ chỉ nợ tiền thức ăn chăn nuôi khoảng 550.000.000đồng
chứ không phải 636.478.000đồng như O trình bày, tuy nhiên ông Đ cũng thống
nhất trả số tiền 600.000.000đồng như yêu cầu của O nhưng xin trả dần theo vụ
mùa.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu ý kiến của
Viện kiểm sát vviệc chấp hành pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm cho
rằng: Toà án cấp phúc thẩm và các đương sự chấp hành đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự, kháng cáo của bđơn ông Bùi Văn Đ trong thời hạn luật định, đủ
điều kiện để xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét kháng cáo của ông
Bùi Văn Đ thấy rằng:
5
Giữa Hộ kinh doanh Trần Thị Kiều O ông Bùi Văn Đ quan hệ mua bán
thức ăn nuôi tôm và thuốc thủy sản nhiều năm. Quá trình mua bán, các bên thường
chốt nợ theo từng thời điểm, lập sổ nợ để đối chiếu, mỗi bên giữ một cuốn. Các lần
chốt nợ có chữ ký xác nhận của ông Đ và bà H bao gồm:
Ngày 11/02/2020, số nợ 304.525.000 đồng; ngày 23/8/2021, số nợ
489.530.000 đồng, những lần này được ghi trong sổ do O cung cấp sự xác
nhận của bị đơn.
Đối với lần chốt nợ cuối cùng ngày 11/8/2023 với số tiền 636.478.000 đồng,
tại cấp thẩm ông Đ H không thừa nhận số nợ này phía nguyên đơn
không cung cấp được chứng cứ chứng minh có sự xác nhận của bị đơn.
Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, qua đối chiếu 02 sổ tay theo dõi việc mua
bán do ông Đ O cung cấp tại phiên tòa, bà O chứng minh được sau ngày
23/8/2021 (ngày chốt số nợ 489.530.000 đồng) ông Đ tiếp tục mua thức ăn tôm
còn nợ tổng cộng nợ mới 636.478.000 đồng; đồng thời tại phiên tòa
ngày 24/11/2025 O chỉ yêu cầu ông Đ Mười H trả 600.000.000 đồng, ông
Đ cũng đồng ý trả cho O 600.000.000 đồng nhưng xin cho trả dần theo vụ tôm.
Đây là sự tự nguyện của đương sự, không trái quy định pháp luật nên cần được ghi
nhận. Riêng về yêu cầu trả dần của ông Đ không được O đồng ý pháp luật
cũng không quy định vviệc này n yêu cầu này của ông Đ không sở chấp
nhận.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bluật Tố tụng dân sự,
chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Bùi Văn Đ; sửa một phần bản án
thẩm số 14/2025/DS-ST ngày 22/7/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 6 Tây
Ninh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của bị đơn ông Bùi Văn Đ được thực hiện đúng theo quy định
tại các Điều 272, 273 276 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận để
xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: bị đơn Nguyễn Thị Mười H
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn L vắng mặt, đơn yêu
cầu xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án xét xử vắng
mặt bà H và ông L.
[3] Về nội dung vụ án: bà Trần Thị Kiều O khởi kiện yêu cầu ông Bùi Văn Đ
Nguyễn Thị Mười H liên đới trả tiền nợ mua thức ăn thuốc nuôi thủy sản
636.478.000 đồng. Toà án cấp thẩm đã chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của bà Trần Thị Kiều O nên ông Bùi Văn Đ kháng cáo.
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của Bùi Văn Đ chỉ đồng ý cùng Nguyễn Thị
Mười H trả cho bà Trần Thị Kiều O tiền nợ mua thức ăn thuốc nuôi thủy sản
489.530.000đồng thấy rằng:
[4.1] Giữa ông Bùi Văn Đ Trần Thị Kiều O đã xác lập giao dịch hợp
đồng mua bán thức ăn và thuốc nuôi thuỷ sản, khi mua bán hai bên lập hai quyển sổ
ghi nợ trong 02 quyển tập học sinh, mỗi bên giữ 1 bản có ghi cùng nội dung về việc
ông Đ mua hàng, thanh toán tiền chốt nợ. Tại phiên tòa phúc thẩm ông Đ cung
6
cấp 01 quyển tập được O xác nhận chính quyển tập do O lập khi ông Đ
mua hàng xác nhận chữ viết trong cuốn tập của chính viết. Xét thấy, cuốn
tập ông Đ cung cấp 84 trang (bao gồm cả trang bìa) được ghi từ trang số 03 nội
dung ông Đ nợ tiền thức ăn nuôi tôm tính đến ngày 11/02/2020 số tiền
304.525.000đồng, nội dung này giống với nội dung trong cuốn tập do O cung
cấp cũng tại trang số 03 chữ viết chữ xác nhận nợ của ông Đ
Nguyễn Thị Mười H, các trang tiếp theo trong cuốn tập ông Đ cung cấp ghi chép
việc mua bán liên tục từ ngày 14/02/2020 cho đến ngày 23/8/2021 chốt nợ số tiền
489.533.000đồng. Ông Đ cho rằng ông chỉ nợ tiền mua hàng của O đến ngày
23/8/2021 số tiền 489.533.000đồng như trong cuốn tập đã ghi chép ông cung
cấp cho Tòa án. O ông Đ đều trình bày thống nhất, sau khi chốt nợ ngày
23/8/2021 thì ông Đ tiếp tục mua hàng, thực tế việc mua hàng chỉ thể hiện trong
sổ của O không thể hiện trong sổ tay của ông Đ nên Hội đồng xét xử không thể
đối chiếu, tuy nhiên ông Đ O trình bày thống nhất, ông Đ sau đó thanh
toán số tiền 100.000.000đồng, trình bày này phù hợp với sổ tay của bà O, do ông Đ
không xuất trình các tài liệu thể hiện việc mua bán sau thời điểm chốt nợ ngày
23/8/2021, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào sổ tay của O làm căn cứ giải quyết
vụ án. Tại trang số 69 có ghi số nợ chăn nuôi 636.478.000đồng, kết quả số nợ được
tính toán trong các lần mua thức ăn, số tiền này cũng được tính toán lại tại giai
đoạn phúc thẩm. Ông Đ không có căn cứ xác định số nợ còn thiếu là bao nhiêu nên
Tòa án cấp thẩm đã căn cứ vào sổ nợ của O buộc ông Đ Mười H thanh
toán số nợ còn thiếu là có căn cứ.
[4.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, O trình bày để tạo điều kiện cho ông Đ
Mười H thanh toán nợ nên đồng ý chấp nhận một phần kháng cáo của ông Đ,
đồng ý giảm số tiền nợ còn lại 600.000.000đồng nên ghi nhận sự tự nguyện của
bà O chỉ buộc ông ĐMười H thanh toán cho ông Đ số tiền 600.000.000đồng,
sửa một phần bản án sơ thẩm.
[5] Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đề nghị Hội đồng xét
xử sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Đ
là có cơ sở và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
[6] Về án phí dân sự thẩm phúc thẩm: ông Đ Mười H phải chịu án
phí trên số tiền thanh toán cho bà O và không phải chịu án phí phúc thẩm theo Điều
29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Bùi Văn Đ.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2025/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm
2025 của Tòa án nhân dân Khu vực 6 – Tây Ninh.
Căn cứ các Điều 26, Điều 37, Điều 39, Điều 147, Điều 148 Bộ lut t tng
dân s năm 2015 được sửa đổi bsung năm 2025; Điều 430, Điều 440, Điều 288,
Điều 357 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 Luật Hôn nhân Gia
7
đình năm 2014; Điều 26, 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị Kiều O đối với bị đơn
ông Bùi Văn Đ và bà Nguyễn Thị Mười H về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
Buộc ông Bùi Văn Đ Nguyễn Thị Mười H phải nghĩa vụ liên đới trả
nợ cho bà Trần Thị Kiều O số tiền là 600.000.000đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại
Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2. Về án phí:
Buộc ông Bùi Văn Đ và bà Nguyễn Thị Mười H liên đới chịu 28.000.000đồng
án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Bùi Văn Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho ông Đ
300.000đồng tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp theo Biên lai số 0003468 ngày
25/8/2025 của Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh.
Trần Thị Kiều O không phải chịu án phí. Hoàn trả cho O 14.729.000
đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0018419 ngày 03 tháng 4 năm 2025
của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cần Đước (nay Phòng Thi hành án dân sự
khu vực 6 – Tây Ninh).
3. Về quyền nghĩa vụ thi hành án: Trong trường hợp bản án được thi hành
theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân
sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày
tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDTC;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- TAND KV 6 TN;
- THADS tỉnh TN;
- Phòng THADS KV 6 - TN;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thị Kim Nga
Tải về
Bản án số 710/2025/DS-PT Bản án số 710/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 710/2025/DS-PT Bản án số 710/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất