Bản án số 68/2024/HNGĐ-ST ngày 03/07/2024 của TAND TX. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 68/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 68/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 68/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 68/2024/HNGĐ-ST ngày 03/07/2024 của TAND TX. Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về chia tài sản khi ly hôn |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TX. Tân Uyên (TAND tỉnh Bình Dương) |
Số hiệu: | 68/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 03/07/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | bà K yêu cầu chia tài sản sau ly hôn với ông H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ TÂN UYÊN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Số: 68/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 03-7-2024
V/v tranh chấp chia tài sản sau
khi ly hôn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Phạm Ngọc Trung
Các Hội thẩm nhân dân:
Ông Nguyễn Văn Thảo
Bà Võ Thị Hồng Tươi
- Thư ký phiên tòa: bà Đỗ Thị Phương Hiền - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tân Uyên tham gia phiên
tòa: bà Lê Thị Ngọc Trinh - Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Tân
Uyên, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân
và gia đình thụ lý số: 329/2023/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 10 năm 2023 về
việc tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số: 32/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1967.
Địa chỉ: thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. (có mặt)
- Bị đơn: ông Vũ Đức H (tên gọi khác: Vũ Đức H1), sinh năm 1970.
Địa chỉ thường trú: thôn E, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông. Địa chỉ tạm
trú: nhà trọ Đổng Văn T, tổ D, khu phố H, phường U, thành phố T, tỉnh Bình
Dương. (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Vũ Thị Kim O, sinh năm 1994;
2. Ông Vũ Ngọc A, sinh năm 1995;
3. Bà Vũ Thị Hải Y, sinh năm 2002;
Cùng địa chỉ: thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
2
Người đại diện hợp pháp của bà Y, bà O: ông Vũ Ngọc A, sinh năm 1995;
địa chỉ: thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, là người đại diện theo uỷ quyền
(giấy ủy quyền ngày 24/7/2023, 20/5/2024). (có mặt)
4. Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1945 và bà Tạ Thị H2, sinh năm 1956;
Địa chỉ: số A đường Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện hợp pháp: ông Nguyễn Quốc C1, sinh năm 1990; nơi cư
trú: số A đường Y, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, là người đại diện theo
uỷ quyền (văn bản uỷ quyền ngày 17/6/2024). (có mặt)
5. Ông Lữ Xuân N, sinh năm 1947 (chết năm 2023).
Những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông N:
5.1. Bà Lữ Thị T1, sinh năm 1949;
5.2. Bà Lữ Thị K1, sinh năm 1977;
5.3. Bà Lữ Thị H3, sinh năm 1987;
5.4. Ông Lữ Trung H4, sinh năm 1988.
Cùng địa chỉ: số A, thôn T, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Nông. (có đơn yêu
cầu giải quyết vắng mặt)
6. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.
Địa chỉ: khu T huyện C, tỉnh Đắk Lắk. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn trình bày:
Bà Nguyễn Thị K và ông Vũ Đức H kết hôn vào năm 1993 đến năm 2009
do mâu thuẫn vợ chồng nên bà K và ông H đã ly hôn theo Quyết định công nhận
thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 31/2009/QĐST-HNGĐ
ngày 22/07/2009 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Khi ly hôn
vấn đề tài sản chung, bà K và ông H đề nghị tự thỏa thuận nên không yêu cầu
Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung bao gồm: Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất
thuộc thửa đất số 6427, diện tích 5.910m
2
đất màu và thửa đất số 6426, diện tích
1.170m
2
đất ao, cùng tờ bản đồ số 29, tại xã E, huyện C, theo giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số U 096308 Ủy ban nhân dân (UBND) huyện
K cấp ngày 24/05/2002 mang tên hộ bà Nguyễn Thị K. Tháng 04/2014, bà K
làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng 75m
2
đất ở và 5.835m
2
đất màu. Vị trí
phía phía Đông: giáp thửa đất số 7545; phía Tây: giáp đường đi, phía Nam: giáp
đất ông Đặng Văn T2, thửa đất số 6642, phía Bắc: giáp thửa đất 6456a.
Nguồn gốc của các thửa đất số 6427, 6426 do bà K mua một phần diện
tích đất của ông Y Tuôl K2 vào tháng 4/2000, với giá chuyển nhượng là
3.600.000 đồng và có làm giấy tờ tay, thời điểm mua đất thì chỉ có một mình bà
K đứng ra mua của ông Y T3, ông H không biết và cũng không đóng góp công
3
sức cùng bà K để mua diện tích đất trên; một phần bà K mua của gia đình ông Y
Pil K3 vào tháng 3/2000, với giá chuyển nhượng là 02 chỉ vàng và có làm giấy
tờ tay, có xác nhận của ban tự quản thôn, thời điểm mua đất thì chỉ có một mình
bà K đứng ra mua đất và ông H không biết và cũng không đóng góp công sức
cùng bà K để mua diện tích đất trên. Bà K đã giao tiền cho ông Y Tuôl K2 và
ông Y Pil K3, sử dụng và quản lý tổng diện tích đất khoảng 7 sào từ năm 2000
cho đến nay không có tranh chấp với ai. Đến năm 2002, bà K được UBND
huyện K cấp GCNQSDĐ. Tại thời điểm được cấp, do không am hiểu về pháp
luật nên trong GCNQSDĐ có ghi tên “Hộ” nhưng thực tế, công sức đóng góp
cũng như tôn tạo tài sản trên là do bà K xây dựng, chỉnh sửa, tôn tạo, các con bà
K gồm Vũ Ngọc A, Vũ Thị Kim O, Vũ Thị Hải Y đều là người sinh sống cùng
bà K trên diện tích đất được Nhà nước cấp GCNQSDĐ, khi các con bà K đủ tuổi
đều góp một phần công sức để trùng tu, chỉnh sửa các tài sản trên đất.
Năm 1993, bà K và ông H kết hôn nhưng trên thực tế ông H sinh sống tại
thôn E, xã C, huyện C, tỉnh Đắk Nông và làm bảo vệ tại một trường trên địa bàn
huyện C, tỉnh Đắk Nông, thỉnh thoảng ông H mới về thăm các con một thời gian
rồi lại tiếp tục đi, bà K và ông H về pháp lý là vợ chồng nhưng thực tế bà K và
ông H sống ly thân từ năm 2005. Đến năm 2009, bà K và ông H chính thức ly
hôn nên đa phần những công việc trong gia đình về vay ngân hàng, các thủ tục
về đất đai, đóng các khoản thuế phí về đất đai đều do một mình bà K làm, còn
ông H không có công sức đóng góp gì đối với tài sản này. Ông H cũng đã thừa
nhận những tài sản trên đều là của bà K và các con, còn ông H không có công
sức đóng góp gì. Đối với khối tài sản gắn liền trên toàn bộ diện tích đất bao gồm
các công trình xây dựng trên đất, cây trồng, vật nuôi là do công sức, tiền bạc của
bà K và các con đóng góp xây dựng, cải tạo sau khi vợ chồng bà K đã ly hôn,
ông H không sinh sống, đóng góp tiền bạc, công sức gì trên toàn bộ khối tài sản
gắn liền trên.
Đối với thành viên hộ gia đình được cấp quyền sử dụng đất: trong thời kỳ
hôn nhân bà K và ông H sinh được 03 người con là con là Vũ Thị Kim O, Vũ
Ngọc A và Vũ Thị Hải Y. Ông O, ông A, bà Y đều sinh sống và có công sức
đóng góp trên khối tài sản chung. Đối với con gái út là Vũ Thị Hải Y, sinh ngày
19/9/2002 tuy rằng không có trong hộ khẩu tại thời điểm cấp đất nhưng lại có
quan hệ huyết thống, được bà K nuôi dưỡng và cùng sống chung trên thửa đất
này hơn 20 năm. Vì vậy, để bảo vệ quyền và lợi ích của các con, bà K mong Tòa
xem xét cho các con bà K được quyền phân chia tài sản chung theo quy định của
pháp luật.
Toàn bộ tài sản trên đều do bà K và các con có công sức tạo lập các công
trình trên đất, cây trồng trên các thửa đất từ trước đến nay, ông H không có công
sức đóng góp các công trình trên đất, cây trồng trên các thửa đất, nên bà K đề
nghị Tòa án phân chia quyền sử dụng các thửa đất 6426, 6427 làm 05 phần bằng
nhau (bà K, ông H, anh A, chị Y, chị O), còn các công trình trên đất, cây trồng
trên các thửa đất chia làm 04 phần bằng nhau (bà K, anh A, chị Y, chị O). Bà K
và các con yêu cầu được quyền quản lý, sử dụng toàn bộ phần đất và tài sản trên
đất và thanh toán bằng tiền cho ông H.
4
Theo kết quả đo đạc thực tế xác định: phần đất tại thửa đất số 6426, 6427,
tờ bản đồ số 29 có diện tích 6.538,2m
2
, tài sản trên đất gồm có: 01 nhà xây cấp
4, kết cấu móng đá hộc, nền lát gạch men, tường xây gạch ống có tô trát, mái lợp
tôn, có đóng trần tôn lạnh, sơn tường có bả matit, diện tích 129,7 m
2
, xây dựng
năm 2016 và 2021; 01 nhà xây cấp 4, kết cấu móng đá hộc, tường xây gạch ống
có tô trát, mái lợp tôn, không đóng trần, tường quét vôi diện tích 39,6 m
2
xây
năm 2000, 01 chuồng chăn nuôi dê gồm nhà mái lợp tôn, khung sắt, diện tích
69,1 m
2
, xây dựng năm 2021, 01 mái che cột sắt tròn, khung thép hình diện tích
91,1m
2
, 01 giếng khoan sâu 50m, khoan năm 2016, 01 sân xi măng diện tích
130m
2
xây dựng năm 2016, 01 tường rào móng đá hộc, xây gạch ống dày 10cm,
không tô trát cao 1,5m dài 32m, 01 chuồng nuôi bò, heo và nhà kho, kết cấu
móng đá hộc, xây tường gạch ống, không tô trát, mái lợp tôn, diện tích 84,3 m
2
,
xây dựng năm 2021, 01 nhà vệ sinh diện tích 7,8m
2
, 01 bể nước diện tích 3,7m
2
,
300 cây cà phê trồng năm 2016 và 50 cây cà phê trồng năm 2021, 81 cây điều
trồng năm 2012, 70 cây tiêu trồng năm 2020, 50 cây tiêu trồng năm 2016; 81
cây điều trồng năm 2012, 05 cây điều trồng năm 2020, 01 cây bơ trồng năm
2019, 04 cây bơ trồng năm 2020; 01 cây mận trồng năm 2012, 01 cây mận trồng
năm 2019, 04 cây mãng cầu trồng năm 2012, 06 cây dừa trồng năm 2019, 01 cây
dừa trồng năm 2012, 01 cây me trồng năm 2017, 15 cây mít trồng năm 2015, 01
cây nhãn trồng năm 2019, 03 cây xoài trồng năm 2019 và 03 cây xoài năm 2012,
03 cây ổi trồng năm 2012, 01 cây bưởi trồng năm 2019, 01 cây sapôche trồng
năm 2016, 12 cây cau trồng năm 2021 và 26 cây cau trồng năm 2020, 01 cây
chùm ruột trồng năm 2019, 130 cây muồng làm trụ tiêu. Giá trị quyền sử dụng
đất nêu trên là 980.730.000 đồng. Bà K thống nhất với kết quả định giá, đo đạc,
thẩm định thực tế nêu trên.
Do đó, bà K yêu cầu Toà án chia các tài sản gồm: quyền sử dụng phần đất
số 6426, 6427 có diện tích 6.538,2m
2
theo quy định pháp luật làm 05 phần bằng
nhau. Bà K yêu cầu được nhận giá trị bằng đất và thanh toán giá trị cho phía ông
H. Đối với các tài sản trên đất do mẹ con bà K tạo lập sau khi ly hôn với ông H
nên là tài sản riêng của bà K và 03 con là anh A, chị Y, chị O.
Về phần nợ của ông H: Sau khi chia xong thì ông H sẽ có trách nhiệm thi
hành theo các khoản nợ của những người liên quan bằng phần tài sản được chia,
bà K và các con không có liên quan đến khoản nợ của ông H.
- Bị đơn trình bày:
Ông Vũ Đức H và bà Nguyễn Thị K kết hôn từ năm 1993, đăng ký kết
hôn tại UBND xã N, huyện C, tỉnh Đăk Lắk (nay là tỉnh Đăk Nông). Sau khi kết
hôn, ông H và bà K sinh sống tại xã N từ năm 1993 đến năm 1999 thì bà K
chuyển công việc lên tỉnh Đắk Lắk, chỉ thỉnh thoảng về nhà. Đến năm 2004 thì
ông H và bà K không còn chung sống với nhau nữa. Quá trình chung sống, ông
H và bà K có 03 người con chung gồm: Vũ Ngọc A, sinh năm 1995, Vũ Thị
Kim O, sinh năm 1994 và Vũ Thị Hải Y, sinh năm 2002. Năm 2009, bà K và
ông H giải quyết ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thoả
thuận của các đương sự số 31/2009/QĐST-HNGĐ ngày 22/7/2009 của TAND
5
huyện Cư Jut, tỉnh Đắk Nông. Khi giải quyết ly hôn về phần tài sản thì ông H và
bà K không yêu cầu Toà án giải quyết.
Đối với quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số
6427 diện tích 5.910m
2
và thửa đất số 6426 diện tích 1.170m
2
có nguồn gốc do
bà K tự tạo lập mà có, không liên quan đến ông H. Ông H không có đóng góp
hay liên quan gì đến phần tài sản này, ông H cũng chưa bao giờ đến phần đất
này.
Do đó, đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K yêu cầu Tòa án
phân chia các tài sản chung theo quy định pháp luật bao gồm: quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 6427 diện tích 5.910m
2
và thửa đất
số 6426 diện tích 1.170m
2
theo GCNQSDĐ số 334418QSDĐ/KH do Ủy ban
nhân dân huyện K cấp ngày 24/5/2002 mang tên hộ bà Nguyễn Thị K. Tài sản
trên đất gồm có: 01 căn nhà cấp IV diện tích 130m
2
, 01 căn nhà cấp IV diện tích
60m
2
, 01 chuồng chăn nuôi dê diện tích 80m
2
, 01 mái che diện tích 67m
2
, 01
giếng khoan, 01 sân xi măng, 01 tường rào cao 1,5m, dài 32m, 01 chuồng chăn
nuôi bò diện tích 100m
2
, 350 cây cà phê, 120 cây tiêu, 86 cây điều, 05 cây bơ,
02 cây mận, 04 cây mãng cầu, 07 cây dừa, 01 cây me, 15 cây mít, 01 cây nhãn,
06 cây xoài, 01 cây bưởi, 01 cây sampoche, 01 cây chùm ruột, 38 cây cau thì
ông H đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Vũ Ngọc A, Vũ Thị Kim O, Vũ
Thị Hải Y thống nhất trình bày: Thống nhất với ý kiến của bà K, không có ý
kiến gì khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn C, Tạ Thị H2 thống
nhất trình bày:
Tại Bản án số 39/2015/DSPT ngày 08/10/2015 của Toà án nhân dân tỉnh
Đắk Nông, Bản án số 15/2015/DSST ngày 21/7/2015 của Toà án nhân dân
huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông và Quyết định thi hành án số 513/QĐ-CCTHADS
ngày 16/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
thì ông Vũ Đức H1 còn phải trả cho vợ chồng ông Nguyễn Văn C và bà Tạ Thị
H2 số tiền còn lại là 607.931.328 đồng, trong đó tiền gốc 260.128.111 đồng, số
tiền lãi chậm thi hành án tính đến ngày 28/5/2021 là 347.803.217 đồng. Áp dụng
khoản 2 Điều 357 Bộ Luật dân sự để tính lãi suất trong giai đoạn thi hành án cho
đến khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ.
Ông H1 có tài sản chung với bà K nhưng chưa phân chia gồm: Quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 6427 diện tích 5.910 m
2
đất màu và thửa đất số 6426, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.170 m
2
đất ao tại xã E,
huyện C và đã được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số U 096308 ngày
24/5/2002 mang tên hộ bà Nguyễn Thị K. Tháng 4/2019, hộ bà Nguyễn Thị K
làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng 75 m
2
đất ở và 5.835 m
2
đất trồng cây
hàng năm khác đối với với thửa đất số 6427, tờ bản đồ số 29, diện tích 5.910 m
2
đất màu. Trên đất đã xây dựng nhà ở khoảng 100 m
2
và trồng cà phê và các loại
cây trồng khác. Thửa đất trên hiện nay tại địa phương có giá trị chuyển nhượng
theo giá thị trường rất lớn, đất có chiều dài theo đường liên thôn khoảng 170 m,
6
chiều rộng khoảng 45 m. Toàn bộ tài sản chung trên của ông H1 và bà K, tọa lạc
tại vị trí thuận lợi, bảo đảm việc phân chia cho ông H1 và bà K mỗi người được
sở hữu một phần diện tích đất và tài sản trên đất mà không ảnh hưởng đến tài
sản của người được phân chia. Do đó, bà H2, ông C đề nghị Tòa án nhân dân
thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương giải quyết phân chia cho ông H1 được sở
hữu 1/2 diện tích đất và tài sản trên đất, để đảm cho việc ông H1 thực hiện nghĩa
vụ thi hành án cho vợ chồng bà H2, ông C.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lữ Thị T1, Lữ Thị K1, Lữ Thị
H3, Lữ Trung H4 trình bày:
Năm 2014, ông Vũ Đức H có vay của ông Lữ Xuân N số tiền 30.000.000
đồng và giải quyết bằng Bản án dân sự sơ thẩm số 01/2012/DS-ST ngày
15/02/2012 của Tòa án nhân dân huyện Cư Jut, tỉnh Đắk Nông. Thời điểm ông
H vay tiền của ông N thì ông H có vợ là bà Nguyễn Thị K. Ông N đã làm đơn
thi hành án đối với khoản vay trên của ông H đến Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Cư Kuin vào ngày 04/4/2012. Đến tháng 5/2023 thì ông N chết vì bị
bệnh, cho đến nay Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin vẫn chưa thi hành
được khoản vay của ông H với lý do vì sao đến nay vẫn chưa thi hành được thì
không rõ. Ông Lữ Xuân N (sinh năm 1947 – chết năm 2023) và bà Lữ Thị T1 có
03 người con: Lữ Thị K1, Lữ Thị H3 và Lữ Trung H4.
Nay bà K vợ của ông H yêu cầu Tòa án phân chia các tài sản chung bao
gồm: quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thuộc thửa đất số 6427, diện
tích 5.910m
2
và thửa đất số 6426, diện tích 1.170m
2
, cùng tờ bản đồ số 29 do
UBND huyện K cấp ngày 24/5/2002 cho hộ bà Nguyễn Thị K. Tài sản trên đất
gồm có: 01 căn nhà cấp IV, diện tích 130m
2
; 01 căn nhà cấp IV, diện tích 60m
2
;
01 chuồng chăn nuôi dễ, diện tích 80m
2
; 01 mái che cột sắt, diện tích 67m
2
; 01
giếng khoan; 01 sân xi măng; 01 tường rào cao 1,5m
2
, dài 32m; 01 chuồng chăn
nuôi bò, diện tích 100m
2
. Cây trồng trên đất gồm có: 350 cây cà phê; 120 cây
tiêu; 86 cây điều; 05 cây bơ; 02 cây mận; 04 cây mãng cầu; 07 cây dừa; 01 cây
me; 15 cây mít; 01 cây nhãn; 06 cây xoài; 01 cây bưởi; 01 cây sampoche; 01 cây
chùm ruột; 38 cây cau thì bà T1, bà K1, bà H3, ông H4 có ý kiến như sau: Đối
với khoản nợ ông N và ông H đã được giải quyết bằng các bản án trên nên
không yêu cầu giải quyết trong vụ án này nữa. Đối với yêu cầu của bà K về phân
chia tài sản thì đề nghị Tòa án bảo vệ quyền lợi cho thi hành đầy đủ khoản nợ
của ông H rồi mới đến việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, còn về việc
phân chia như thế nào thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Cư Kuin trình bày:
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk đang tổ chức thi
hành Bản án số 01/2012/DSST ngày 15/02/2012 của Toà án nhân dân huyện Cư
Jút, tỉnh Đắk Nông và Bản án số 39/2015/DSPT ngày 08/10/2015 của Toà án
nhân dân tỉnh Đắk Nông; Quyết định thi hành án số 513 và 514/QĐ-CCTHADS
củng ngày 16/8/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk
Lắk đối với ông Vũ Đức H1.
7
Theo Bản án, quyết định trên, ông Vũ Đức H1 có nghĩa vụ phải thi hành
án các khoản nợ sau: Trả nợ cho ông Nguyễn Văn C và bà Tạ Thị H2 số tiền
607.931.328 đồng, trong tiền gốc 260.128.111 đồng, số tiền lãi chậm thi hành án
tính đến ngày 28/5/2021 là 347.803.217 đồng. Áp dụng khoản 2 Điều 357 Bộ
Luật dân sự để tính lãi suất trong giai đoạn thi hành án. Trả nợ cho ông Lữ Xuân
N số tiền 29.861.862 đồng, trong tiền gốc 8.727.889 đồng, số tiền lãi chậm thi
hành án tính đến ngày 28/5/2021 là 21.133.973 đồng. Áp dụng khoản 2 Điều
357 Bộ Luật dân sự để tính lãi suất trong giai đoạn thi hành án.
Qua kết quả xác minh của Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk, ông Vũ Đức H1 có vợ là bà Nguyễn Thị K đã ly
hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các
đương sự số 31/2009/QĐST-HNGĐ ngày 22/7/2009 của Tòa án nhân dân huyện
Cư Jút, tỉnh Đắk Nông. Trong thời kỳ hôn nhân có các con là Vũ Thị Kim O,
sinh ngày 19/4/1994, Vũ Ngọc A, sinh ngày 05/9/1995 và Vũ Thị Hải Y, sinh
ngày 19/9/2002, tài sản chung của hộ gia đình chưa phân chia gồm: Quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 6427, tờ bản đồ số 29,
diện tích 5.910 m
2
đất màu và thửa đất số 6426, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.170
m
2
đất ao tại xã E, huyện C; đất đã được UBND huyện K cấp giấy CNQSD đất
số U 096308 ngày 24/5/2002 mang tên hộ bà Nguyễn Thị K. Tháng 4/2019, hộ
bà Nguyễn Thị K làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng 75 m
2
đất ở và 5.835 m
2
đất trồng cây hàng năm khác đối với với thửa đất số 6427, tờ bản đồ số 29, diện
tích 5.910 m
2
đất màu.
Chấp hành viên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk
đã thực hiện xác định và phân chia quyền sở hữu, sử dụng cho ông Vũ Đức H1
và bà Nguyễn Thị K, Vũ Thị Kim O và Vũ Ngọc A theo Thông báo số 195/TB-
CCTHADS ngày 27/4/2022, theo đó: Phân chia cho ông Vũ Đức H1 được quyền
sở hữu, sử dụng một phần Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với
thửa đất số 6427, tờ bản đồ số 29, diện tích khoảng 1770 m
2
đất trồng cây hàng
năm khác. Vị trí thửa đất được phân chia: Phía Đông giáp thửa đất số 7545, cạnh
dài khoảng 41 m; Phía Tây giáp đường đi, cạnh dải khoảng 41 m; Phía Nam
giáp thửa đất số 6427, cạnh dài khoảng 43 m; Phía Bắc giáp thửa đất số 6456a,
cạnh dài khoảng 43 m. Phân chia cho bà Nguyễn Thị K, Vũ Thị Kim O và Vũ
Ngọc A được quyền sở hữu, sử dụng đối với một phần Quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất đối với thửa đất số 6427, tờ bản đồ số 29 và thửa đất số
6426, tờ bản đồ số 29 có tổng diện tích khoảng 5310 m
2
, trong đó có 75 m
2
đất
ở, 4065 m
2
đất trồng cây hàng năm khác và 1170 m
2
đất ao. Vị trí thửa đất số
6427 số 6426 được phân chia: Phía Đông giáp thửa đất số 7545, cạnh dài
khoảng 67 m và 51 m; Phía Tây giáp đường đi, cạnh dải khoảng 127 m; Phía
Nam giáp thửa đất số 6642a, cạnh dài khoảng 20 m và 31 m; Phía Bắc giáp thửa
đất số 6427, cạnh dài khoảng 43 m.
Để đảm bảo việc thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin,
tỉnh Đắk Lắk đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
phân chia cho ông Vũ Đức H1 được sở hữu, sử dụng một phần tài sản trong khối
8
tài sản chung vợ chồng để Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk
Lắk có cơ sở kê biên, xử lý để thi hành án cho những người được thi hành án.
Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị K giữ nguyên yêu cầu khởi
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan giữ nguyên quan điểm.
- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai
mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng đúng quy định
của pháp luật. Vụ án được đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định tại Điều
203 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên
tòa đã thực hiện đầy đủ thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định tại chương
XIV về phiên tòa sơ thẩm. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ
được quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73 Bộ luật tố tụng dân sự. Những yêu
cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: không có.
+ Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã
được Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhận thấy
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận một phần.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị K khởi kiện đối với ông Vũ Đức H yêu cầu chia tài
sản sau khi ly hôn. Bị đơn ông H đang cư trú tại phường U, thành phố T, tỉnh
Bình Dương. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là vụ án tranh chấp về chia
tài sản sau khi ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành
phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
[2] Về nội dung vụ án: nguyên đơn bà K cho rằng phần đất và tài sản trên
đất do bà K và các con là Vũ Thị Kim O, Vũ Ngọc A và Vũ Thị Hải Y cùng có
công sức tôn tạo, tạo lập tài sản trên đất. Ông H không sinh sống, đóng góp tiền
bạc, công sức gì đối với tài sản tranh chấp nêu trên. Do đó, bà K yêu cầu phân
chia quyền sử dụng các thửa đất 6426, 6427 làm 05 phần bằng nhau cho bà K,
ông H và 03 con, còn các công trình trên đất, cây trồng trên các thửa đất chia
làm 04 phần bằng nhau cho bà K và 03 con. Bà K và ông A, bà O, bà Y yêu cầu
được quyền quản lý, sử dụng toàn bộ phần đất, tài sản trên đất và thanh toán
bằng tiền cho ông H. Ông H xác định phần đất và tài sản tranh chấp có nguồn
gốc do bà K tự tạo lập mà có, không liên quan đến ông H. Ông H không có đóng
góp hay liên quan gì đến phần tài sản này, ông H cũng chưa bao giờ đến phần
đất này. Do đó, ông H đề nghị Toà án giải quyết theo quy định pháp luật.
[2.1] Quá trình giải quyết vụ án các đương sự thống nhất thừa nhận: Bà
Nguyễn Thị K và ông Vũ Đức H kết hôn vào năm 1993 và có đăng ký kết hôn
tại UBND xã N, huyện C, tỉnh Đăk Lắk (nay là tỉnh Đăk Nông). Năm 2009, bà
K và ông H đã giải quyết ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và
sự thỏa thuận của các đương sự số 31/2009/QĐST-HNGD ngày 22/07/2009 của
9
Tòa án huyện C, tỉnh Đắk Nông. Khi ly hôn, về phần tài sản chung thì bà K và
ông H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đây là những tình tiết không cần phải
chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: bà K cho rằng phần đất tranh
chấp có nguồn gốc do bà K nhận chuyển nhượng từ năm 2000, đến năm 2002 thì
được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số U 096308 ngày 24/05/2002 mang tên
hộ Nguyễn Thị K. Bị đơn ông H thừa nhận phần đất trên do bà K nhận chuyển
nhượng. Ông H không có đóng góp hay liên quan gì đến phần tài sản này, ông H
cũng chưa bao giờ đến phần đất này. Xét thấy, nguồn gốc phần đất trên do bà K
nhận chuyển nhượng mà có, tại thời điểm chuyển nhượng và được cấp
GCNQSDĐ thì giữa bà K và ông H vẫn đang tồn tại quan hệ hôn nhân, các con
của ông H, bà K gồm có Vũ Thị Kim O, sinh năm 1994 (08 tuổi) và Vũ Ngọc A,
sinh năm 1995 (07 tuổi). Tại khoản 29 Điều 3 Luật Đất đai quy định: “Hộ gia
đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng
theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có
quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất,
công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Do đó, bà Vũ
Thị Kim O, ông Vũ Ngọc A không thuộc thành viên hộ gia đình có quyền sử
dụng đất chung. Quá trình giải quyết vụ án, bà K cũng thừa nhận phần đất trên là
tài sản chung hình thành trong thời kỳ hôn nhân với ông H. Tại khoản 1 Điều 27
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “1. Tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những
tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng
đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài
sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận...”. Do đó, có cơ sở xác định phần quyền
sử dụng đất trên là tài sản chung của vợ chồng bà K và ông H.
[2.3] Qua đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ xác định: phần đất tại thửa
đất số 6426, 6427, tờ bản đồ số 29 có diện tích 6.538,2m
2
, tài sản trên đất gồm
có: 01 nhà xây cấp 4, kết cấu móng đá hộc, tường xây gạch ống có tô trát, mái
lợp tôn, không đóng trần, tường quét vôi diện tích 39,6 m
2
xây năm 2000; 01
nhà xây cấp 4, kết cấu móng đá hộc, nền lát gạch men, tường xây gạch ống có tô
trát, mái lợp tôn, có đóng trần tôn lạnh, sơn tường có bả matit, diện tích 129,7
m
2
, xây dựng năm 2016 và 2021; 01 chuồng chăn nuôi dê gồm nhà mái lợp tôn,
khung sắt, diện tích 69,1 m
2
, xây dựng năm 2021, 01 mái che cột sắt tròn, khung
thép hình diện tích 91,1m
2
, 01 giếng khoan sâu 50m, khoan năm 2016, 01 sân xi
măng diện tích 130m
2
xây dựng năm 2016, 01 tường rào móng đá hộc, xây gạch
ống dày 10cm, không tô trát cao 1,5m dài 32m, 01 chuồng nuôi bò, heo và nhà
kho, kết cấu móng đá hộc, xây tường gạch ống, không tô trát, mái lợp tôn, diện
tích 84,3 m
2
, xây dựng năm 2021, 01 nhà vệ sinh diện tích 7,8m
2
, 01 bể nước
diện tích 3,7m
2
, 300 cây cà phê trồng năm 2016 và 50 cây cà phê trồng năm
2021, 81 cây điều trồng năm 2012, 70 cây tiêu trồng năm 2020, 50 cây tiêu
10
trồng năm 2016; 81 cây điều trồng năm 2012, 05 cây trồng năm 2020, 01 cây bơ
trồng năm 2019, 04 trồng năm 2020; 01 cây mận trồng năm 2012, 01 cây mận
trồng năm 2019, 04 cây mãng cầu trồng năm 2012, 06 cây dừa trồng năm 2019,
01 cây dừa trồng năm 2012, 01 cây me trồng năm 2017, 15 cây mít trồng năm
2015, 01 cây nhãn trồng năm 2019, 03 cây xoài năm 2019 và 03 cây xoài năm
2012, 03 cây ổi trồng năm 2012, 01 cây bưởi trồng năm 2019, 01 cây sapôche
trồng năm 2016, 12 cây cau năm 2021 và 26 cây cau trồng năm 2020, 01 cây
chùm ruột trồng năm 2019, 130 cây muồng làm trụ tiêu. Như vậy, chỉ có 01 nhà
xây cấp 4 diện tích 39,6 m
2
xây năm 2000 được hình thành trong thời kỳ hôn
nhân của bà K, ông H nên là tài sản chung của vợ chồng, đối với các tài sản, cây
trồng khác được xây dựng, trồng sau thời điểm bà K và ông H ly hôn nên không
phải là tài sản chung của vợ chồng.
[2.4] Về việc phân chia tài sản chung: Tài sản chung của bà K, ông H gồm
có: phần đất tại thửa đất số 6426, 6427, tờ bản đồ số 29 có diện tích 6.538,2m
2
,
tài sản trên đất gồm có: 01 nhà xây cấp 4, kết cấu móng đá hộc, tường xây gạch
ống có tô trát, mái lợp tôn, không đóng trần, tường quét vôi diện tích 39,6 m
2
xây năm 2000. Giá trị quyền sử dụng đất nêu trên là 980.730.000 đồng, tài sản
trên đất là 33.133.400 đồng, tổng giá trị là 1.013.863.400 đồng. Bà K yêu cầu
chia quyền sử dụng đất làm 5 phần cho bà K, ông H, ông A, bà O, bà Y. Xét
thấy, phần đất tranh chấp là tài sản chung của bà K và ông H, tại thời điểm được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các con của ông H, bà K đều còn
nhỏ, chưa đủ tuổi lao động. Do đó, việc bà K yêu cầu chia phần quyền sử dụng
đất làm 05 phần là không có cơ sở. Tuy nhiên, bà K và ông H kết hôn từ năm
1993, bà K và ông H đều xác định ông H sinh sống tại tỉnh Đắk Nông, bà K thì
sinh sống tại phần đất tranh chấp tại tỉnh Đắk Lắk. Từ năm 2005 thì hai vợ
chồng đã sống ly thân và năm 2009 thì giải quyết ly hôn. Bà K nhận chuyển
nhượng đất từ năm 2000 và quản lý sử dụng đến nay trên 20 năm. Ông H thừa
nhận không biết vị trí đất tranh chấp và hoàn toàn không liên quan đến phần đất.
Do đó, có cơ sở xác định bà K là người có công sức chính trong việc tạo lập,
duy trì và phát triển khối tài sản chung. Do đó, cần tính công sức đóng góp cho
bà K với tỷ lệ 30%, với số tiền 354.852.190 đồng, phần còn lại ông H, bà K mỗi
người được chia 50%. Qua kết quả đo đạc, xem xét, thẩm định tại chỗ, nhận
thấy trên phần đất tranh chấp, bà K đã cùng các con xây dựng nhà cấp 4 vào
năm 2016, 2021 và trồng nhiều loại cây dài ngày từ năm 2012, năm 2014, bà K
chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang đất ở 75m
2
(sau thời điểm bà K và ông H
ly hôn năm 2009). Do đó, đối với các tài sản gắn liền với đất thì không phải là
tài sản chung của ông H và bà K. Bà K cũng có yêu cầu được nhận tài sản là đất
để ổn định cuộc sống. Xét thấy, hiện trạng phần tài sản tranh chấp do bà K cùng
03 con đang quản lý, sử dụng để sản xuất nông nghiệp, ông H hiện đang sinh
sống tại phường U, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Do đó, để đảm bảo các bên
có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập cần chia cho bà K được quản lý, sử
dụng toàn bộ phần đất tại thửa đất số 6426, 6427, tờ bản đồ số 29 có diện tích
6.538,2m
2
. Như vậy, bà K có trách nhiệm thanh toán lại phần trị giá tài sản ông
H được hưởng tương ứng với số tiền 329.505.605 đồng.
11
[2.5] Từ những phân tích trên, có cơ sở chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị K đối với bị đơn ông Vũ Đức H.
[3] Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Tân Uyên là phù hợp một phần.
[4] Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá
tài sản là 7.663.000 đồng. Bà Nguyễn Thị K, ông Vũ Đức H phải chịu phần chi
phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá theo tỷ lệ giá trị phần tài sản được chia,
theo đó bà K phải chịu số tiền 5.172.500 đồng được trừ vào số tiền đã nộp tại
Toà án, ông H phải chịu số tiền 2.490.500 đồng để hoàn trả cho bà K.
[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật
Tố tụng dân sự; Điều 26, điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án: Bà Nguyễn Thị K phải chịu số tiền 31.674.312 đồng, ông Vũ Đức H
phải chịu số tiền 16.475.280 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 91, Điều 92, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 227, Điều 228, Điều
235, Điều 244, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
- Căn cứ các Điều 33, 59, 62 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Điều 26, điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa
14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị
K đối với bị đơn ông Vũ Đức H về việc tranh chấp chia tài sản sau khi ly hôn.
1.1. Xác định quyền sử dụng đất đối với phần đất diện tích 6.538,2m
2
, tại
thửa đất số 6426, 6427, tờ bản đồ số 29 tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk là tài
sản chung của bà Nguyễn Thị K và ông Vũ Đức H.
1.2. Phân chia tài sản chung của bà Nguyễn Thị K và ông Vũ Đức H như
sau:
Chia, giao cho bà Nguyễn Thị K được quyền quản lý, sử dụng phần đất có
diện tích 6.538,2m
2
, tại thửa đất số 6426, 6427, tờ bản đồ số 29 tại xã E, C, tỉnh
Đắk Lắk. Phần đất có tứ cận như sau:
Hướng Đông giáp thửa đất số 7545, 7627, 7615;
Hướng Tây giáp thửa đất số đường đất;
12
Hướng Nam giáp thửa đất số 6642a;
Hướng Bắc giáp thửa đất số 7541;
(có sơ đồ bản vẽ kèm theo)
Bà Nguyễn Thị K có nghĩa vụ thanh toán cho ông Vũ Đức H số tiền
329.505.605 đồng (Ba trăm hai mươi chín triệu năm trăm lẻ năm nghìn sáu trăm
lẻ năm đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho
đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Bà Nguyễn Thị K có quyền và nghĩa vụ liên hệ đến cơ quan có thẩm
quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất bà K
được chia, giao theo quyết định của bản án.
Bà Nguyễn Thị K, ông Vũ Ngọc A, bà Vũ Thị Kim O, bà Vũ Thị Hải Y
được quyền sở hữu toàn bộ tài sản gắn liền với đất tại các thửa đất số 6426,
6427, tờ bản đồ số 29 tại xã E, C, tỉnh Đắk Lắk.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà
Nguyễn Thị K đối với bị đơn ông Vũ Đức H về việc chia phần quyền sử dụng
đất tại các thửa đất số 6426, 6427, tờ bản đồ số 29 tại xã E, C, tỉnh Đắk Lắk
thành 05 phần.
3. Về chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị K phải chịu số tiền 5.172.500 đồng
(Năm triệu một trăm bảy mươi hai nghìn năm trăm đồng) được trừ vào số tiền đã
nộp tại Toà án, ông H phải chịu số tiền 2.490.500 đồng (Hai triệu bốn trăm chín
mươi nghìn năm trăm đồng) để hoàn trả cho bà K.
4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị K phải chịu số
tiền 31.674.312 đồng (Ba mươi mốt triệu sáu trăm bảy mươi tư nghìn ba trăm
mười hai đồng), được trừ vào số tiền 13.000.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2021/0017646 ngày 30/5/2023 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk. Bà K phải tiếp tục nộp số tiền
18.674.312 đồng (Mười tám triệu sáu trăm bảy mươi tư nghìn ba trăm mười hai
đồng). Ông Vũ Đức H phải chịu số tiền 16.475.280 đồng (Mười sáu triệu bốn
trăm bảy mươi lăm nghìn hai trăm tám mươi đồng).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều
30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong
hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền
13
kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc
kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bình Dương;
- VKSND thành phố Tân Uyên;
- CC THADS thành phố Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Ngọc Trung
Tải về
Bản án số 68/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 68/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 12/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm