Bản án số 63/2021/HNGĐ-ST ngày 26/08/2021 của TAND huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 63/2021/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 63/2021/HNGĐ-ST ngày 26/08/2021 của TAND huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lục Nam (TAND tỉnh Bắc Giang)
Số hiệu: 63/2021/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/08/2021
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 63/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH V

Ngày 26 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 228/2021/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp “ Ly hôn, con chung”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2021/QĐXX-ST ngày 08 tháng 6 năm 2021, giữa:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1986 (có mặt).

Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1986 (có mặt)

Địa chỉ: Thôn A, xã V, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 19/7/2021 và trong các lời khai và tại phiên tòa hôm nay chị Nguyễn Thị Th là nguyên đơn trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn V năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vô Tranh, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, trước khi kết hôn hai bên được tự do tìm hiểu, cưới xong chị và anh V về chung sống với nhau ở thôn Ao Sen, xã Vô Tranh, huyện Lục Nam. Đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng không hiểu nhau thường xuyên xảy ra xô xát cãi chửi nhau cuộc sống không có hạnh phúc. Chị đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống từ năm 2016 cho đến nay không sống cùng anh V nữa. Chị và anh V đã sống ly thân từ đầu năm 2016 cho đến nay không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không xây dựng hạnh phúc được với nhau chi đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung, Nguyễn Thị Viết X, sinh năm 2011 và Nguyễn Tùng B, sinh năm 2013 chị đề nghị được nuôi con Nguyễn Tùng B và để con Nguyễn Thị Viết X cho anh V nuôi, cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bị đơn anh Nguyễn Văn V trình bày trong bản tự khai: Lời khai của chị Th nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng và về con chung là hoàn toàn đúng Nay chị Th yêu cầu ly hôn anh nhất trí ly hôn vì anh không còn tình cảm với chị Th.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung. Hiện nay các con đang ở với anh nếu ly hôn anh đề nghị được nuôi cả 2 con. Anh đang được hưởng chế độ chính sách chất độc da cam mỗi tháng 2 triệu đồng đủ cho 3 bố con sinh sống. Cấp dưỡng nuôi anh không đề nghị tòa án giải quyết.

Về tài sản, công nợ, ruộng canh tác: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lục Nam tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, chấp hành nghiêm chỉnh quyền và nghĩa vụ của mình chị Th, anh V có mặt tại phiên tòa.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:

Về quan hệ vợ chồng: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn V.

2. Về nuôi con chung: Giao chị Nguyễn Thị Th nuôi con Nguyễn Tùng B, sinh năm 2013. Giao cho anh Nguyễn Văn V nuôi con Nguyễn Thị Viết X, sinh năm 2011. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn chị Th anh V được quyền thăm nom con chung, không được cản trở anh chị thực hiện quyền này.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, HĐXX nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th và các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện là hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức nội dung đơn khởi kiện. Chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn V có hộ khẩu thường trú tại xã Chu Điện và xã Trường Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Do đó Tòa án nhân dân huyện Lục Nam thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền Tòa án nhân dân huyện Lục Nam đã tống đạt theo đúng quy định pháp luật các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho các đương sự. Tại phiên tòa chị Th anh V có mặt. Căn cứ vào Điều 227 BLTTDS, HĐXX đưa vụ án ra xét xử.

[2] Về nội dung: Chị Nguyễn Thị Th kết hôn với anh Nguyễn Văn V năm 2009, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vô Tranh, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Do đó xác định hôn nhân giữa chị Th và anh V là hôn nhân hợp pháp trước khi kết hôn hai bên được tự do tìm hiểu, cưới xong chị Th và anh V về chung sống với nhau ở thôn Ao Sen, xã Vô Tranh, huyện Lục Nam. Đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do vợ chồng không hiểu nhau thường xuyên xảy ra xô xát cãi chửi nhau cuộc sống không có hạnh phúc. Chị Th đã bỏ về nhà mẹ đẻ sống từ năm 2016 cho đến nay không sống cùng anh V nữa. Chị Th và anh V đã sống ly thân từ đầu năm 2016 cho đến nay không còn quan hệ gì về tình cảm và kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không xây dựng hạnh phúc được với nhau chi Th đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Anh V nhất trí ly hôn và cho rằng anh đã hết tình cảm với chị Th. Do đó công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Th và anh V là phù hợp tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung, chị Th đề nghị được nuôi con Nguyễn Tùng B chị để anh V nuôi con Nguyễn Thị Viết X, chị Th hiện nay làm công nhân thu nhập từ 6-7 triệu đủ điều kiện nuôi con. Anh V không nhất trí để chị Th nuôi con vì các con đang ở với anh các cháu vẫn khỏe mạnh và phát triển bình thường và tại biên bản ghi lời khai của các cháu có nguyện vọng là được ở với anh V, nhưng xét thấy yêu cầu của chị Th là phù hợp và chính đáng nên cần giao cho chị Th và anh V mỗi người nuôi 1 con là phù hợp với quy định của pháp luật. Chị Th anh V không yêu cầu vấn đề cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Xét thấy là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Sau khi ly hôn chị Th anh V được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị Th anh V thực hiện quyền này.

[4] Về tài sản, công nợ: Chị Th anh V không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Th phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào các Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2015, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý án phí, lệ phí, tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn V.

2. Về nuôi con chung: Giao chị Nguyễn Thị Th nuôi con Nguyễn Tùng B, sinh năm 2013, giao anh Nguyễn Văn V nuôi con Nguyễn Thị Viết X, sinh năm 2011. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết. Sau khi ly hôn chị Th anh V được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh chị thực hiện quyền này.

3.Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại chi cục thi hành án dân sự huyện Lục Nam ngày 23/7/2021 theo biên lai thu số AA/2017/0005452 xác nhận chị Th đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 63/2021/HNGĐ-ST Bản án số 63/2021/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất