Bản án số 62/2025/DS-ST ngày 19/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 7 - Cần Thơ, TP. Cần Thơ về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 62/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 62/2025/DS-ST ngày 19/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 7 - Cần Thơ, TP. Cần Thơ về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm...
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 7 - Cần Thơ, TP. Cần Thơ
Số hiệu: 62/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Cha của ông Lê Trung K là ông Lê Văn H, được Ủy ban nhân dân huyện T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22-01-2025, tại thửa đất số 420, tờ bản đồ số 10, tổng diện tích 2.407 m2, mục đích sử dụng là đất ở nông thôn và trồng cây lâu năm. Ngày 14-5-2013, ông H tặng cho ông K một phần đất cắt ra từ thửa 420, hiện tại là thửa số 995, tờ bản đồ số 10, diện tích 583 m2, đất được quyền sử dụng có chiều dài là 45,3 m và ngang là 10 m, mục đích sử dụng đất ở nông thôn 100 m2, đất trồng cây lâu năm 353 m2, diện tích đất lộ giới là 130 m2, hạn sử dụng đến tháng 10/2043.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THỊ XÃ NGÃ NĂM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 62/2025/DS-ST
Ngày 19 6 2025
V/v tranh chấp đòi lại quyền s
dụng đất lấn chiếm (ranh đất)
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Lâm.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nguyễn Văn Tân.
2. Ông Trần Văn Hồng.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Minh Tân Thư Tòa án nhân dân thị
xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng tham
gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thúy Hằng Kiểm sát viên.
Trong các ngày 12 và 19 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị
Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, xét xử thẩm công khai vụ án thụ số:
116/2023/TLST-DS ngày 08 tháng 5 năm 2023 về “Tranh chấp đòi lại quyền sử
dụng đất bị lấn chiếm (ranh đất)”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
108/2025/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 5 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trung K, sinh năm 1969. Địa chỉ: Khóm V, Phường
C, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
- Bị đơn: Ông Lê Văn S, sinh năm 1944. Địa chỉ: ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh
Sóc Trăng (có mặt).
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Trần Thị T, sinh năm 1949. Địa
chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc Trăng (theo n bản y quyền ngày 29-7-2024,
có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Văn H, sinh năm 1934. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp của ông Văn H: Ông Trung K, sinh năm
1969. Địa chỉ: Khóm V, Phường C, thị N, tỉnh Sóc Trăng (theo n bản ủy
quyền ngày 14-02-2025, có mặt).
2. Ông Văn S1, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc
Trăng (có mặt).
2
3. Trần Thị T, sinh năm 1949. Địa chỉ: Ấp M, L, thị xã N, tỉnh Sóc
Trăng (có mặt).
4. Ông Lê Văn K1, sinh năm 1972. Địa chỉ: Ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc
Trăng (có mặt).
5. Đinh Thị Út L, sinh năm 1979. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc
Trăng (có mặt).
6. Anh Văn P, sinh năm 2000. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
7. Chị Thị P1, sinh năm 2002. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Ông Văn D, sinh năm 1944. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc
Trăng (có mặt).
2. Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1974. Địa chỉ: Ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
3. Trần Thị Hồng T1, sinh năm 1968. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N,
tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).
4. Ông Trần Quốc N, sinh năm 1962. Địa chỉ: Ấp M, L, thị N, tỉnh
Sóc Trăng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu trong hồ vụ án tại phiên tòa, nguyên
đơn ông Lê Trung K trình bày và yêu cầu như sau:
Cha của ông Trung K ông Văn H, được Ủy ban nhân dân huyện T
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 22-01-2025, tại thửa đất số 420, tờ
bản đồ số 10, tổng diện tích 2.407 m
2
, mục đích sdụng đất nông thôn
trồng cây lâu m. Ngày 14-5-2013, ông H tặng cho ông K một phần đất cắt ra từ
thửa 420, hiện tại thửa số 995, tờ bản đồ số 10, diện tích 583 m
2
, đất được quyền
sử dụng chiều dài 45,3 m ngang 10 m, mục đích sử dụng đất nông
thôn 100 m
2
, đất trồng cây lâu năm 353 m
2
, diện tích đất lộ giới là 130 m
2
, hạn sử
dụng đến tháng 10/2043.
Thửa đất số 995 của ông Trung K giáp ranh với đất của bị đơn ông
Văn S tại thửa số 380, tờ bản đồ số 10. Ông H trồng hàng cây xương rồng cách
ranh đất của ông khoảng hơn 01 m, chạy dài theo ranh đất và 01 cây dừa dưới
sông gần với ranh đất. Ông S trồng 01 hàng dừa chặt phá một số cây dừa
(còn gốc dừa mục) ngày phần ranh đất giữa hai bên. Khi ông K nhu cầu sử
dụng đấtyêu cầu ông S ra xác nhận ranh giới để đóng trụ đá thì ông S nói rằng
phần ranh đất hai bên ngay hàng xương rồng trước kia ông Văn H đã
trồng. Tuy nhiên, lúc trước ngay hàng xương rồng là cái đìa n phần đất của ông
H, sau này ông hiền lấp lại, phía hàng dừa trên bờ đìa do ông S trồng mới đúng
sự thật là ranh đất.
3
Ông đã nhiều lần khuyên ông S nên xác định lại đúng ranh đất giữa hai bên
nhưng vợ chồng ông Lê Văn S, bà Trần Thị Thanh V cương quyết xác định ranh
đất ngay hàng xương rồng ông H trồng. Dựa trên thực tế và theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất từ lúc ông H chưa tặng cho ông đến hôm nay thì đó
phần đất nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông. Vụ việc đã hòa
giải ở cơ sở nhưng không thành.
Do đó, nguyên đơn ông Trung K yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông
Văn S trả lại cho ông Lê Trung K phần đất lấn chiếm ngang hơn 01 m x dài 45,3
m trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ông K được cấp tại thửa 995, tờ
bản đồ số 10, tổng diện tích 583m
2
đủ chiều ngang thửa đất 10 m chiều
dài thửa đất là 45,3 m, tọa lạc tại ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn ông Văn S đồng thời người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị T trình bày:
Trần Thị T và ông Lê Văn S có phần đất thuộc thửa số 380, tờ bản đồ số
10, tọa lạc tại ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, giáp ranh với thửa đất số 420
của ông Văn K2. Nguồn gốc phần đất của do sau tiếp thu (1975), vợ
chồng về sinh sống, sử dụng ổn định nên được nhà nước công nhận quyền sử
dụng đất. Khi bà về đây thì phần đất của ông K2 do cha ông K2 là ông Lê Văn H
sử dụng. Ranh đất giữa hai bên có cái mương làm ranh, do ông H đào. Khi đó,
có trồng 01 hàng dừa từ trước ra sau giáp với con mương của ông Lê Văn H.
Sau này, khoảng trước năm 1988, ông H đã múc đất lấp một đoạn mương ở
phía trước (khoảng ½ con mương). Sau khi lấp mương, ông H làm hàng rào
bằng cây lục bình trên đoạn mương đã lấp; đến khi Nhà nước làm lộ tông thì
ông H tháo dỡ hàng rào và trồng cây xương rồng làm ranh đất. Do đó, giữa bà T,
ông S với ông H đều sử dụng đúng diện tích đất, không tranh chấp gì với nhau.
Hiện nay, hàng dừa của bên ông S đã được chặt bỏ một nửa nhưng vẫn còn một
vài cây giáp với phần mương còn lại ở phía sau.
Đến năm 2013, ông H bán đất cho ông Trung K một phần của thửa
420, vị trí giáp ranh với đất của ông S. Từ khi ông K sử dụng đất thì ½ con
mương còn lại hàng xương rồng vẫn giữ nguyên cho đến nay. Khoảng năm
2020, có đoàn đo đạc trung ương xuống đo để cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho người dân, yêu cầu cặm trụ đá làm ranh thì gia đình ông Văn S
cặm trụ đá theo đúng ranh đất. Đến khoảng đầu năm 2024, ông K đã chặt bỏ
các cây dừa ông S mới trồng giáp với con mương ranh đất. Ông K cho rằng
ông S, T lấn chiếm đất nên nhổ hết các trụ đá, chỉ còn sót lại 01 trụ đá ở đoạn
giữa của ranh như hiện trạng.
Nay ông Lê Trung K khởi kiện yêu cầu ông S, bà T trả đất lấn chiếm, bị đơn
không đồng ý phần đất gia đình ông, sử dụng là sử dụng đúng với ranh
giới trước đây ông Văn H xác lập, đúng với giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được cấp. Do đó, yêu cầu Tòa án xử bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Lê Trung K
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn S1 trình bày:
4
Ông con của ông Văn H, đang sống trên phần đất thuộc thửa đất s
420, kế cận với phần đất ở thửa đất số 995 mà ông H đã tặng cho ông K vào năm
2013. Ông được biết phần đất này sau khi được ông H cho thì ông K sử dụng ổn
định đến nay. Về ranh giới giữa đất của ông K và đất của ông S theo ông biết như
sau: Phía ngoài, giáp sông M trước đây có trồng 01 cây dừa làm ranh; hiện nay đã
bị chặt phá đi nhưng vẫn còn gốc. Ngoài ra, ranh giới giữa hai bên 01 cái
mương nước chạy dài hết phần đất của ông K; bên ông K đã lấp lại để sử dụng
phía trước, phần phía sau vẫn còn. Đây là ranh giới đất giữa phần 02 phần đất của
ông K và ông S.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Văn K1 trình bày:
Ông là con của ông Lê Văn S, bà Trần Thị T, đang cùng sinh sống trên thửa
đất số 380, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp M, L, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, giáp
ranh với thửa đất số 420 của ông Văn K2. Ranh giới giữa phần đất của gia đình
ông bên ông K2 trước đây đều do ông Văn H tạo lập, đào ơng, trồng
xương rồng hai bên sử dụng đất ổn định. Đến khi ông Trung K được cho
đất vẫn sử dụng ranh cũ, chỉ khi đo đạc cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mới phát sinh tranh chấp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị Út L trình bày:
con dâu của ông Văn S, Trần Thị T, đang cùng sinh sống trên
thửa đất số 380, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng,
giáp ranh với thửa đất số 420 của ông Văn K2. thống nhất với ý kiến và
yêu cầu của ông S, bà T, ông K1 đã trình bày, không ý kiến hay yêu cầu
khác.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn P, chị Lê Thị P1: Trong
quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, thông
báo nội dung yêu cầu khởi kiện và kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ cho các đương sự này, nhưng họ không có văn bản trình bày ý kiến
đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có ý kiến phản đối các tài liệu,
chứng cứ do các đương sự khác cung cấp không cung cấp tài liệu, chứng cứ
nào cho Tòa án.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, các đương sự không thỏa thuận
được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, về việc
chấp hành quy định của pháp luật tố tụng đối với những người tiến hành tố tụng
người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội
đồng xét xử (HĐXX): Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về
việc buộc bị đơn ông Văn S trả một phần 25,7 m
2
trong diện tích đất tranh chấp
55 m
2
đất thuộc thửa số 995, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh
Sóc Trăng; không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
buộc bị đơn ông Lê Văn S trả phần đất lấn chiếm có diện tích 29,3 m
2
thuộc thửa
đất số 380, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thẩm quyền quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết buộc bị đơn trả lại quyền sử dụng đất do lấn chiếm ranh, đất tọa lạc
tại ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc Trăng. Tòa án nhân dân thị Ngã Năm, tỉnh
Sóc Trăng thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án quan hệ pháp luật cần giải
quyết được xác định lại theo yêu cầu cụ thể của đương sự, về việc Tranh chấp
đòi lại quyền sử dụng đất lấn chiếm (ranh đất)”, là đúng theo quy định tại khoản
9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố
tụng dân sự.
[2] Về việc vắng mặt đương sự: Tại phiên tòa thẩm, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan anh Văn P, chị Thị P1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ
để tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vắng mặt không do. HĐXX căn cứ
quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Ttụng dân sự, vẫn
tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về tình tiết, sự kiện không phải chứng minh: Trong quá trình giải quyết
vụ án tại phiên tòa thẩm, các bên đương sự thống nhất được với nhau về
nguồn gốc, diễn biến quá trình sử dụng 02 thửa đất liền kề là thửa số 420 và thửa
380, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc Trăng. Theo đó,
ông Văn H (là cha ruột của nguyên đơn ông Văn K2) tạo lập sử dụng
thửa số 420, ông Văn S tạo lập sử dụng thửa số 380. Giữa hai bên i
mương do ông Văn H đào làm ranh, trên 02 bờ mương này mỗi bên trồng 01
hàng dừa. Sau đó, ông H lấp 01 đoạn mương phía trước, giữ lại 01 đoạn ơng
phía sau tiếp tục là ranh đất giữa hai bên. Trên phần mương phía trước đã lấp lại,
vào năm 1997, ông Văn H trồng 01 hàng xương rồng từ lộ vào trong 19,3 m.
Đến năm 2013, ông Lê Văn H tặng cho ông Lê Văn K2 một phần đất của thửa số
420, đã đăng ký và được tách quyền sử dụng đất thuộc thửa số 995, tờ bản đồ số
10, diện tích 583 m
2
vị trí giáp ranh với thửa số 380 của ông Văn S. Khi Tòa
án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ thì vị trí hàng xương rồng, các gốc dừa
còn sống đã chết 02 bên đã trồng trước đó xác định đúng như hiện trạng.
Đây các tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2
Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[4] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thấy rằng:
[5] Về diện tích đất, theo đo đạc thực tế nguyên đơn ông Trung K chỉ
ranh phần đất ông đang sử dụng tại thửa số 995 diện tích 494,8 m
2
bị đơn
ông Văn S đang sử dụng tại thửa số 380 diện tích 1.589,4 m
2
. Do việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Văn S ông Văn H cấp
đại trà năm 1995, không có đo đạc nên diện tích không chính xác. Ngược lại, việc
cấp quyền sử dụng đất cho ông Lê Trung K có đo đạc vào năm 2013 nhưng khi
đo đạc thì đo và cấp luôn diện tích bờ kênh 45 m
2
(bút lục 52). Nay phần đất tranh
chấp ông K chỉ đo diện tích 55 m
2
, nếu tính cho bị đơn thì tổng diện tích đất
của bị đơn là 1.644,4 m
2
nhiều hơn diện tích đất được cấp trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là 1.600 m
2
; nếu tính cho nguyên đơn thì tổng diện tích đất của
nguyên đơn là 549,8 m
2
cũng nhiều hơn so với diện tích đất được cấp 538 m
2
(đã
6
trừ 45 m
2
đất bờ sông). Do đó, nguyên đơn ông Lê Trung K cho rằng diện tích đất
ông đang sử dụng thực tế thiếu, yêu cầu bị đơn trả lại 55 m
2
cho đủ 583 m
2
như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa có cơ sở.
[6] Về ranh giới, mốc giới giữa hai thửa đất: Trong quá trình sử dụng đất,
ông Văn H đào 01 con mương trên thửa đất số 420 để làm ranh. Trên bờ
mương bên phần đất của mình, mỗi bên đều trồng 01 hàng dừa thống nhất
ranh giới hết con mương là hết đất của ông H (thửa 420). Điều này được đại diện
bị đơn Trần Thị Thanh thừa N1 cũng phù hợp với lời trình bày của những
người làm chứng, ranh giới đã được ông Lê Văn H và ông Lê Văn S xác định
hình thành từ rất lâu. Quá trình sử dụng đất, ông Văn H đã san lấp một đoạn
mương ở phía trước, tự xóa đoạn ranh này và đến năm 1997 thì trồng trên đó một
hàng cây xương rồng dài 19,3 m tồn tại cho đến nay là 28 năm.
[7] Theo tập quán địa phương, người sử dụng đất (đối với đất hoặc đất
vườn) thường sử dụng cây xương rồng là loại cây thân nhỏ, gai mọc thẳng
để trồng thành hàng dài, vừa để làm rào vừa làm ranh giới với đất liền kề. Ngược
lại, cây dừa loại cây tán rộng và gốc cây phát triển theo thời gian nên thường
trồng cách ranh đất một khoảng cách nhất định. Trong vụ việc tranh chấp này, ông
Văn H trước đây đào mương nước làm ranh, sau đó lấp 01 đoạn mương
trồng 01 hàng xương rồng dài 19,3 m vào năm 1997. Từ thời điểm đó, ông
Văn H chỉ sử dụng phần đất từ hàng xương rồng trở về đất của mình; phía bên kia
hàng xương rồng do ông Lê Văn S sử dụng. Nay ông K cho rằng khi ông H trồng
xương rồng thì không trồng làm ranh chừa lại phần đất khoảng 01 m rồi
mới đến ranh đất, nhưng không cung cấp được do, chứng cứ nào để chứng minh
nên không có cơ sở, không phù hợp với thực tế sử dụng đất.
[8] Khoản 31 Điều 3 của Luật Đất đai quy định: Lấn đất việc người sử
dụng đất chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất
sử dụng không được quan nhà nước thẩm quyền cho phép hoặc không
được người sử dụng hợp pháp diện tích đất bị lấn đó cho phép”.
[9] Quá trình sử dụng đất tại hai thửa đất số 420 380 nêu trên, ông Văn
H người tạo lập, hình thành nên ranh giới để cho hai bên sử dụng ổn định, không
có tranh chấp về ranh. Đến năm 2013, ông Trung K được ông Lê Văn H tặng
cho một phần của thửa đất số 420, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang thửa mới 995, giáp ranh với thửa đất số 380 của gia đình ông Văn S
nhưng khi cấp thì cũng đo đạc trên cơ sở kế thừa các ranh giới, mốc giới tự nhiên
trước đó; không có cặm trụ đá hay thỏa thuận nào khác; không có cơ sở xác định
phía bị đơn ông Lê Văn S có hành vi lấn đất.
[10] Do đó, HĐXX căn cứ vào ranh giới, mốc giới tự nhiên đoạn mương
bị lấp hàng cây xương rồng, đoạn mương phía sau hiện trạng còn mương lạng
thì ranh giới xác định đến mép ngoài của các gốc dừa do phía bị đơn trồng. Đối
chiếu giữa ranh giới này và kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất khi xem xét, thẩm
định tại chỗ thì phần đất tranh chấp nguyên đơn bị đơn chỉ đo có tổng diện tích
55 m
2
, trong đó phần thuộc về thửa 995 của nguyên đơn 25,7 m
2
; phần thuộc về
thửa 380 của bị đơn là 29,3 m
2
.
7
[11] Từ những phân tích nêu trên, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là có cơ sở để chấp nhận một phần; đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên
tòa là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.
[12] Án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự thẩm
tương ứng với phần yêu cầu không được chấp nhận; bị đơn phải chịu án phí dân
sự thẩm tương ng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được chấp
nhận nhưng do bị đơn ông Văn S là người cao tuổi nên được miễn nộp án phí,
theo quy định tại khoản 1 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 4 Điều 26,
khoản 3 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[13] Chi phí tố tụng khác: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn sở
chấp nhận một phần nên chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản do
nguyên đơn và bị đơn mỗi bên phải chịu 50% là 10.666.608 đồng, theo quy định
tại khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 165,
Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự; khoản 31 Điều 3, Điều 45, Điều 236 của Luật Đất đai; điểm đ
khoản 1 Điều 12, khoản 3 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc bị đơn ông Lê Văn S và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trần Thị T, ông Văn K1, Đinh Thị Út L, anh Văn P, chị Thị P1
giao lại cho nguyên đơn ông Trung K phần đất có diện tích đo thực tế 25,7 m
2
thuộc thửa số 995, tờ bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp M, L, thị N, tỉnh Sóc Trăng,
có vị trí tứ cận như sau:
- H là một điểm (điểm số 10) giáp Đường H.
- Hướng Tây giáp lộ cũ (hiện trạng đất ruộng) có số đo 0,3 m.
- Hướng Nam giáp phần đất còn lại của ông Lê Trung K (thửa 995) có số đo
11,18 m + 44,68 m.
- Hướng Bắc giáp phần đất tranh chấp còn lại (phần ổn định cho bị đơn sử
dụng, thửa 380) có số đo 19,3 m + 3,11 m + 33,46 m.
(Sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo)
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
buộc bị đơn trả lại phần đất lấn chiếm có diện tích 29,3 m
2
thuộc thửa số 380, tờ
8
bản đồ số 10, tọa lạc tại ấp M, xã L, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng, có vị trí tứ cận như
sau:
- H là một điểm (điểm số 10) giáp Đường H.
- Hướng Tây giáp lộ cũ (hiện trạng đất ruộng) có số đo 0,34 m + 0,14 m.
- Hướng Nam giáp phần giao cho nguyên đơn (thửa số 995)số đo 19,3 m
+ 3,11 m + 33,46 m.
- Hướng Bắc giáp phần đất còn lại của bị đơn có số đo 11,23 m + 44,84 m.
(Sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo)
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn ông Lê Trung K phải chịu số tiền án
phí dân sự thẩm 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005305
ngày 08-7-2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng.
Bị đơn ông Văn S được miễn nộp án phí.
4. Chi phí tố tụng khác: Nguyên đơn ông Trung K phải chịu chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 10.666.608 đồng. Bị đơn ông Lê Văn
S phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ định giá tài sản 10.666.608
đồng. Do ông Trung K đã nộp tạm ứng trước toàn bộ chi phí tố tụng nên buộc
ông Lê Văn S giao lại cho ông Lê Trung K số tiền chi phí xem xét, thẩm định tại
chỗ định gtài sản 10.666.608 đồng. Phần nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng
khác của ông Lê Trung K đã thực hiện xong.
5. Các đương sự quyền m đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15
ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa không người
đại diện thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được
niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi hành án dân sự, thời
hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Sóc Trăng;
- VKSND thị xã Ngã Năm;
- Chi cục THADS thị xã Ngã Năm;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Thanh Lâm
Tải về
Bản án số 62/2025/DS-ST Bản án số 62/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 62/2025/DS-ST Bản án số 62/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất