Bản án số 78/2025/DS-PT ngày 09/08/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 78/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 78/2025/DS-PT ngày 09/08/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai về đòi đất cho mượn, cho sử dụng nhờ, lấn chiếm...
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 78/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 09/08/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bà Ú yêu cầu bà Mã Thị Tâm G1 trả căn nhà và đất chiều ngang một cạnh 5,1m, một cạnh 5,0m; chiều dài một cạnh 4,6m, một cạnh 4,0m, diện tích khoảng 20,5m2 tọa lạc tại ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Bà Ú đồng ý giao trả giá trị căn nhà cho bà T1 theo biên bản định giá ngày 12/12/2023.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BẠC LIÊU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 78/2024/DS-PT
Ngày 09 5 2024
V/v tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trương Thanh Dũng
Các Thẩm phán: Ông Lê Phan Công Trí
Bà Giang Thị Cẩm Thúy
- Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Công Hậu – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu.
- Đại diện Viện Kiểm t nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Nguyệt Hân - Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 24/2024/TLPT-DS, ngày 16
tháng 02 năm 2024, về việc tranh chấp đòi lại quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số: 79/2023/DS-ST ngày 28 tháng 12 năm
2023, của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 51/2024/QĐ-PT ngày
21 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Thị Ú, sinh năm 1983; Địa chỉ: ấp X, xã C, huyện
V, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo ủy quyền cho bà Mã Thị Ú theo Văn bản ủy quyền
ngày 13/7/2022: Ông Minh T, sinh năm 1962; Địa chỉ: Khóm A, phường A,
thành phố B, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Thị Ú: Cao Thị
Túy G - Luật sư Văn phòng L và cộng sự, thuộc Đoàn luật sư tỉnh B.
- Bị đơn: ThT1, sinh năm 1973; Địa chỉ: ấp D, thị trấn G, huyện
Đ, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Thị T1: Ông Phạm
Đăng K Luật sư của văn phòng L1, thuộc đoàn luật tỉnh Bạc Liêu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Minh T2, sinh năm 1969;
Địa chỉ: ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).
2
- Người kháng cáo:Mã Thị T1 là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 28/11/2022 và đơn khởi kiện bổ sung ngày
03/01/2023 cùng các lời khai trong quá trình tố tụng đại diện theo ủy quyền của
nguyên đơn trình bày: Vào ngày 02/8/2017 Ú nhận chuyển nhượng căn nhà
gắn liền với phần đất của ông Trần Thanh T3 vợ Huỳnh Thị Kiều N, tọa
lạc tại ấp D, th trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Giá chuyển nhượng
280.000.000đ. Ú đã trả tiền cọc trước 30.000.000đ (có biên nhận), sự
chứng kiến của ông H ông Nguyễn Văn C (hiện không biết địa chỉ cụ
thể). Còn lại số tiền 250.000.000đ thỏa thuận 10 ngày sau sẽ trả. Sau đó không
nhớ ngày nào, Ú nhờ chị ruột Thị Tâm G1 cho ông Trần Thanh
T3 số tiền 250.000.000đ. Khi Tâm G1 tiền cho ông T3 thì T1 làm tờ
giấy biên nhận với ông Trần Thanh T3, tờ biên nhận cũng đề ngày 02/8/2017,
nội dung biên nhận thể hiện bà là Thị Ú bên mua đất, còn người trả tiền là
Thị T1 trả, người chứng kiến ông Trương Văn V. Ú xác định tờ
biên nhận này không chứng kiến cũng không tên. Ú và ông
Trần Thanh T3 chỉ làm duy nhất một tờ giấy “giấy sang nhà” đề ngày 02/8/2017
do bà cung cấp. Ngoài ra không còn giấy tờ nào khác. Những giấy tờ khác bà T1
cung cấp cho Tòa án là do bà T1 tự làm, bà không thừa nhận.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất, do thấy T1 khổ nên cho T1
mượn chỗ làm ăn. Khi bà định làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mà bà T1 ngăn cản nên phát sinh tranh chấp.
Nay bà Ú yêu cầu bà Thị Tâm G1 trả căn nhà và đất chiều ngang một
cạnh 5,1m, một cạnh 5,0m; chiều dài một cạnh 4,6m, một cạnh 4,0m, diện tích
khoảng 20,5m
2
tọa lạc tại ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Bà Ú đồng ý
giao trả giá trị căn nhà choT1 theo biên bản định giá ngày 12/12/2023.
Bị đơn Thị T1 trình bày: Vào ngày 02/8/2017 nhận chuyển
nhượng đất của ông Trần Thanh T3, địa chỉ ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc
Liêu. Giá chuyển nhượng 280.000.000đ. Tuy nhiên, do thời điểm đó
chồng tôi chuẩn bị ly n, sợ chia tài sản, nên ghi tên Thị Ú người
người mua. Nên trong giấy sang bán đề ngày 02/8/2017 đề tên bên mua
Thị Ú nhưng người trả tiền do trả. Tờ biên nhận đề ngày 02/8/2017 đã
cung cấp cho Tòa án. Đây tgiấy đầu tiên lập khi giao dịch mua bán giữa
ông T3. Sau đó, vào ngày 18/9/2017 ông Trần Thanh T3 tiếp tục làm
giấy sang nhượng nhà đất, nhưng lúc này ghi giá chuyển nhượng
50.000.000đ, mục đích để đóng thuế thấp. Trong giấy sang nhượng này
vẫn ghi tên người nhận chuyển nhượng nhà và đất là Thị Ú, tên Mã Thị Ú
do bà ghi, Ú không mặt người trả tiền cho ông T3 là bà. Khi trả tiền
cho ông T3 thì ông Trương Văn V chứng kiến. Từ đầu tới khi kết thúc giao
dịch sang bán thì chỉ ông T3, chứ không mặt Ú. Trong tờ giấy
3
sang nhượng người lân cận tên gồm ông Nguyễn Ngọc M ông Trần
Văn T4.
Ngoài ra, xác định khi nhận chuyển nhượng phần đất của ông Trần
Thanh T3 thì nhà nước đã giải tỏa toàn bộ căn nhà, nên chỉ nhận chuyển nhượng
phần đất chứ không có căn nhà. Sau đó, bà xây dựng căn nhà có giá trị
500.000.000đ. Bà có yêu cầu phản tố, yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất cho
bà.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh T2 trình bày:
Ông thống nhất với lời trình bày của bà T1, ông không có ý kiến gì bổ sung.
Từ nội dung trên, tại Bản án dân sự thẩm số: 79/2023/DS-ST ngày 28
tháng 12 năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu đã
quyết định:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 95, điểm b khoản 2
Điều 203 Luật đất đai; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mã Thị Ú đối với bà Mã Thị T1.
Buộc bà Thị T1 ông Nguyễn Minh T2 giao trả cho Thị Ú
căn nhà gắn liền với phần đất diện tích 20,5m
2
, nằm tại thửa số 67 tbản đồ số
37, phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ai, tọa lạc tại ấp
D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu, có vị trí cụ thể như sau:
+ Cạnh hướng Đông giáp phần đất ông Trần Văn T4, cạnh dài 4,0m;
+ Cạnh hướng Tây giáp phần đất ông Nguyễn Ngọc M, cạnh dài 4,6m;
+ Cạnh hướng Nam giáp đường A có cạnh dài 5,1m;
+ Canh hướng Bắc giáp phần đất ông Trần Văn T4, có số đo 5,0m.
2. Buộc Thị Ú có trách nhiệm giao trả cho Thị T1 số tiền
103.045.230 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Thị T1, yêu cầu công nhận
quyền sử dụng đất cho bà.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, ván phí, về áp
dụng pháp luật thi hành án dân sự và quyền kháng cáo của các đương sự theo
quy định pháp luật.
Ngày 12 tháng 01 năm 2024, Thị Ú kháng cáo không đồng ý trả
giá trị căn nhà trên đất, yêu cầu T1 tháo ddi dời căn nhà để trả đất cho bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Mã Thị Ú rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo.
Ngày 12 tháng 01 m 2024, Thị T1 ông Nguyễn Minh T2
kháng cáo cùng nội dung yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu
4
cầu khởi kiện của Thị Ú chấp nhận yêu cầu phản tố của ông, bà. Tại
phiên tòa phúc thẩm, bà Mã Thị T1 và ông Nguyễn Minh T2 giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho Thị T1 trình bày:
Lời khai của ông Trần Thanh T3 rất nhiều mâu thuẫn, nhưng không được Tòa án
cho đối chất để làm lời khai ông T3 không phù hợp với tờ sang nhượng
đất. Ngoài ra, năm 2019 T1 bán cho Ú 01 nền tái định ngang 4,2m
dài 20m giá 350.000.000 đồng, khi đó Ú xuống coi đất nên biết T1 đã
cất nhà kiên cố trên đất nhận chuyển nhượng từ ông T3, đồng thời Ú đến nhà
T1 dự tiệc nhiều lần nhưng bà Ú không phản ứng gì. Quá trình giao dịch
T1 là người trả tiền cho ông T3; bà Ú xác định đưa tiền cho bà T1 trả tiền cho
ông T3, nhưng bà Ú không có chứng cứ chứng minh. Phần đất là do T1 nhận
chuyển nhượng của ông T3; nên đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ yêu cầu
khởi kiện của Ú, chấp nhận yêu cầu của bà T1.
Luật bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà Mã Thi Ú1 trình bày:
Nguồn gốc đất của ông T3, N; các giấy mua bán cả nguyên đơn và bị đơn
cung cấp đều thể hiện ông T3 bán đất cho Ú1; bà Ú1 đặt cọc trước
30.000.000 đồng và bà Ú1 nhờ bà T1 là chị ruột trả tiền cho ông T3 250.000.000
đồng còn lại. Lời trình bày ông T3 xác định chỉ bán đất cho bà Ú1. do vì sao
T1 nhà này là do Ú1 sinh sống tại thành phố B, còn T1 G, nên
Ú1 cho T1 mượn để mua bán. Khi Ú1 tiến hành đo đạc để đăng cấp
quyền sử dụng đất thì T1 ngăn cản, nên phát sinh tranh chấp. Tại file ghi âm
thể hiện bà T1 thừa nhận đất do Ú1 nhận chuyển nhượng tại phiên tòa
phúc thẩm T1, ông T2 đều thừa nhận giọng nói trong file ghi âm giọng nói
của mình. Việc định giá lần đầu không đúng quy định pháp luật, mà chỉ ghi nhận
lời trình bày của T1. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng
cáo của bà T1, ông T2; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến: Về thủ
tục tố tụng, từ khi thụ vụ án đến xét xử phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét
xử, Thư các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút yêu cầu kháng
cáo của Ú1; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của T1, ông T2; Giữ
nguyên Bản án dân sự thẩm số: 79/2023/DS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2023,
của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ lưu trong hồ
vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến trình bày của các đương sự
ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu, sau khi thảo
luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Thị
5
T1 rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo của Thị T1. Xét thấy, việc rút yêu cầu
kháng cáo của T1 hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc; nên được chấp
nhận đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của T1.
[3] Phần đất tranh chấp diện tích 20,5m
2
, thuộc thửa s67, tờ bản đồ
số 37, đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho nhân hay tổ
chức nào, đất tọa lạc tại ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu; vị trí số
đo cụ thể như sau:
Cạnh hướng Đông giáp phần đất ông Trần Văn T4, cạnh dài 4,0m;
Cạnh hướng Tây giáp phần đất ông Nguyễn Ngọc M, cạnh dài 4,6m;
Cạnh hướng Nam giáp đường A có cạnh dài 5,1m;
Canh hướng Bắc giáp phần đất ông Trần Văn T4, có số đo 5,0m.
Hiện trạng trên phần đất tranh chấp 01 căn nhà cấp 3, hai tầng (gác
lửng).
[4] Nguyên đơn Thị Ú bị đơn Thị T1 đều xác định phần
đất tranh chấp do mình nhận chuyển nhượng từ ông Trần Thanh T3. Quá trình
tham gia tố tụng nguyên đơn Thị Ú cung cấp chứng Giấy sang
nhà” đề ngày 02/8/2017, nội dung thể hiện Ú nhận chuyển nhượng của
ông Trần Thanh T3 phần đất ngang 5,1m, dài 4,5m, diện tích 22,95m
2
, với số
tiền 280.000.000 đồng, đưa tiền cọc 30.000.000 đồng; còn lại 250.000.000
đồng hẹn đến ngày 17/9/2017 giao giấy sang bán sẽ trả đủ. Còn bị đơn
Thị T1 cung cấp “Biên nhận” đề ngày 02/8/2017, nội dung thể hiện bên A: Trần
Thanh T3 bên bán; bên B: Thị Ú bên mua, giá 280.000.000 đồng, trả
tiền cọc 30.000.000 đồng; còn lại số tiền 250.000.000 đồng, hẹn ngày 17/9/2017
sẽ trả đủ. “Đơn xin sang nhượng nhà đất” ngày 18/9/2017, nội dung th
hiện ông Trần Thanh T3 vợ Huỳnh Thị Kiều N chuyển nhượng căn nhà
cho Thị Ú, cạnh hướng Đông dài 3,8m, cạnh hướng Tây dài 5,2m,
hướng Nam 5,5m, cạnh hướng Bắc dài 5,1m, với giá chuyển nhượng 50.000.000
đồng, chữ giáp ranh của ông Nguyễn Ngọc M, Trần Văn T4, xác nhận
của T5 ấp ông Trương Văn Q.
[5] Xét thấy, chứng cứ do nguyên đơn bà Ú bị đơn T1 cung cấp đều
thể hiện người chuyển nhượng đất ông Trần Thanh T3, người nhận chuyển
nhận đất là bà Mã Thị Út . Theo ông Trần Thanh T3 xác định vào ngày
02/8/2017 ông chuyển nhượng phần đất nói trên cho bà Thị Ú với số tiền
280.000.000 đồng, Ú trả trước cho ông 30.000.000 đồng, còn lại
250.000.000 đồng, hẹn đến ngày 17/9/2017 trả đủ hiện Ú đã trả đủ số tiền
cho ông.
[6] Mã Thị T1 trình bày, bà người nhận chuyển nhượng đất của ông
Trần Thanh T3, do thời điểm đó sống ly thân với chồng, sợ khi ly hôn phải
chia tài sản với chồng, nên nhờ em ruột Thị T1 đứng tên nhận
chuyển nhượng. Tuy nhiên, bà Thị Ú xác định không việc đứng tên
6
nhận chuyển nhượng đất dùm Thị T1. Ngoài ra, Thị T1 cũng
không văn bản thỏa thuận đất do nhận chuyển nhượng, nhưng nhờ
Thị Ú đứng tên nhận chuyển nhượng hộ. Do đó, lời trình bày của Thị T1
là không có cơ sở chấp nhận.
[7] Quá trình tham gia tại Tòa án cấp thẩm tại phiên tòa phúc thẩm,
Thị T1 ông Nguyễn Minh T2 đều thừa nhận giọng nói trong file ghi
âm của ông, bà. Nội dung file ghi âm thể hiện: “Ở dưới á, hồi đó út mua
cho con cái nhà lúc làm lúa á… Gành Hào, căn nhà 20m
2
, chỗ con đang
làm tiệm đó, bây giờ đó, mua lâu rồi…Ý mày bây giờ sao, thí dụ như chế nói
mày, hồi đó giờ tao với mầy có hai chị em mà sao, con nói á, bây giờ á nó đòi
dưới á làm bằng khoán, rồi chế nói mày m băng khoán chi, bây giờ mày
muốn lấy tiền tthôi để hàng tháng chế trả cho mày. Mày muốn nhiêu chế trả
lại cho mày trả lần lần cũng dứt cũng hết. Chớ mầy thưa gửi gì, trời ơi… Đó tao
thương lượng là đặng trả lại cho mày hàng tháng dị đó, chừng nào hết thì thôi,
rồi chớ để chi tự nhiên bây giờ làm bằng khoán làm chi…”. Như vậy, sở
xác định phần đất tranh chấp là của bà Mã Thị Ú,
[8] Về yêu cầu định giá lại cấu trúc tài sản trên đất, Hội đồng xét xử, xét
thấy: Theo Biên bản định g ngày 16/6/2023, Hội đồng định giá không tiến
hành định giá kết cấu căn nhà, chghi nhận lời trình bày của bà Thị T1
xác định giá trị căn nhà 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, Thị Ú không
đồng ý với ý kiến do bà Mã Thị T1 đưa ra. Tại Biên bản định giá ngày
12/12/2023, Hội đồng định giá tiến hành định giá kết cấu căn nhà và toàn bộ
tài sản trên đất có tổng giá trị là 103.054.230 đồng. Xét thấy, việc tiến hành định
giá tài sản đúng quy định pháp luật; T1, ông T2 cũng không đưa ra được
chứng cứ xác định việc định giá chưa phù hợp. vậy, việc Thị T1
ông Nguyễn Minh T2 yêu cầu định giá lại căn nhà và tài sản gắn liền với đất
không có cơ sở chấp nhận.
[9] Từ nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử có căn xác định phần đất tranh
chấp do ông Trần Thanh T3 chuyển nhượng cho Thị Út . Do đó, Bản án
thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Thị Ú căn cứ, đúng quy
định của pháp luật.
[10] Tại cấp phúc thẩm, Thị T1 không chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu kháng cáo của mình, nên Hội đồng xét xkhông căn cứ chấp
nhận kháng cáo của Thị T1 lời trình bày của Luật bảo vquyền
lợi ích hợp pháp cho T1. căn cứ chấp nhận ý kiến của Luật bảo vệ
quyền lợi ích hợp pháp cho Thị Ú ý kiến phát biểu của đại diện
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu đề nghị giữ nguyên Bản án dân sự
thẩm số: 79/2023/DS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2023, của Tòa án nhân dân
huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
[11] Án phí dân sự phúc thẩm Thị Ú, Thị T1, ông Nguyễn
Minh T2, mỗi người phải chịu 300.000 đồng.
7
[12] Các phần quyết định khác của bản án thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật; Hội đồng xét xphúc thẩm không
đặt ra xem xét, giải quyết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 khoản 5 Đều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bà Mã Thị Út .
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Thị T1 ông Nguyễn
Minh T2.
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số: 79/2023/DS-ST ngày 28 tháng 12
năm 2023, của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1
Điều 39; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 95, điểm b khoản 2
Điều 203 Luật đất đai; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mã Thị Ú đối với bà Mã Thị T1.
Buộc Thị T1 ông Nguyễn Minh T2 giao trả cho Thị Ú
căn nhà gắn liền với phần đất diện tích 20,5m
2
, thuộc thửa số 67, tờ bản đồ số
37, phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ai, tọa lạc tại ấp
D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu, có vị trí cụ thể như sau:
Cạnh hướng Đông giáp phần đất ông Trần Văn T4, cạnh dài 4,0m;
Cạnh hướng Tây giáp phần đất ông Nguyễn Ngọc M, cạnh dài 4,6m;
Cạnh hướng Nam giáp đường A có cạnh dài 5,1m;
Canh hướng Bắc giáp phần đất ông Trần Văn T4, có số đo 5,0m.
2. Buộc Thị Ú trách nhiệm giao trả cho Thị T1 số tiền
103.045.230 đồng.
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của Thị T1, yêu cầu công
nhận quyền sử dụng đất cho bà.
4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, bản vẽ số tiền
4.379.417 đồng, Thị T1 phải chịu. Thị Ú đã nộp tạm ứng số tiền
trên, nên buộc bà Mã Thị T1 có trách nhiệm giao lại cho bà Mã Thị Út .
5. Về án phí:
Án phí dân sự thẩm không giá ngạch 300.000 đồng, bà Thị Ú
không phải chịu. Thị Ú đã nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng theo biên
lai thu số 0009804 ngày 03/01/2023 được hoàn lại đủ tại Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Đông Hải. Bà Mã Thị T1 phải nộp án phí số tiền 300.000 đồng,
T1 đã nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0000024 ngày
20/3/2023 được chuyển thu án phí.
8
Án phí dân sự phúc thẩm: Án phí dân sphúc thẩm Thị Ú,
Thị T1, ông Nguyễn Minh T2, mỗi người phải chịu 300.000 đồng. Bà Mã Thị Ú,
Mã Thị T1, ông Nguyễn Minh T2, mỗi người đã nộp tạm ứng án phí 300.000
đồng theo các Biên lai thu số 0009897, 0009893, 0009894 cùng ngày
12/01/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu được
chuyển thu án phí dân sự phúc thẩm.
6. Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TANDCC tại TP. Hồ Chí Minh; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND huyện Đông Hải;
- CCTHADS huyện Đông Hải;
- Đương sự;
- Lưu, Tổ HCTP.
Trương Thanh Dũng
Tải về
Bản án số 78/2025/DS-PT Bản án số 78/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 78/2025/DS-PT Bản án số 78/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất