Bản án số 561/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 561/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 561/2024/DS-PT ngày 27/09/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 561/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: 1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Lương Phân V 2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 15/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 561/2024/DS-PT
Ngày 27-9-2024
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc,
hợp đồng thế chấp, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
và hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các thẩm phán:
Ông Nguyễn Văn Tài.
Ông Nguyễn Trung Dũng.
Ông Lê Sỹ Trứ.
- Thư phiên toà: Ông Đặng Hùng Cường - Thư Toà án nhân dân
tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Lê Trung Kiên - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương
xét xphúc thẩm công khai vụ án thụ số: 286/2024/TLPT-DS ngày 03 tháng
7 năm 2024, về việc: tranh chấp hợp đồng đặt cọc, hợp đồng thế chấp, hợp đồng
chuyển nhượng quyền sdụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất hợp
đồng vay tài sản.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 42/2024/DS-ST ngày 15/5/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 353/2024/-PT
ngày 07 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Lương Phân V, sinh năm 1963; địa chỉ: số nhà C, khu
điều trị phong B, khu phố L, phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của bà Lương Phân V: Ông Phùng Ngọc N, sinh
năm 1976; địa chỉ: căn hộ A chung A C, phường A, quận T, thành phố Hồ
Chí Minh, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày 09/3/2023
và ngày 22/3/2024), có mặt.
- Bị đơn:
2
1. Ông Văn P, sinh năm 1984; bà Nguyễn Thị V1, sinh năm 1987;
cùng địa chỉ: khu phố L, phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của ông Văn P, Nguyễn Thị V1: Ông
Hoàng Dương C, sinh năm 1995; địa chỉ: sE H, phường P, thành phố T, tỉnh
Bình Dương, người đại diện theo ủy quyền (Văn bản ủy quyền ngày
01/6/2023), có mặt.
2. Thị T, sinh năm 1991; địa chỉ: thôn A, B, huyện B, tỉnh
Quảng Ngãi; địa chỉ liên hệ: khu phố P, phường P, thành phố T, tỉnh Bình
Dương, có đơn xin vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Phạm Kim L, sinh năm 1991;
2. Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1955;
Cùng địa chỉ: số nhà C, khu điều trị phong B, khu phố L, phường K, thành
phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp của ông Phạm Kim L, ông Phạm Văn T1: Ông
Phùng Ngọc N, sinh năm 1976; địa chỉ: căn hộ A chung A C, phường A,
quận T, thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 23/5/2023), có mặt.
- Người kháng cáo: nguyên đơn bà Lương Phân V.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Lương Phân V trình bày: năm 2015, vợ chồng ông
Văn P, Nguyễn Thị V1 có thuê 03 thửa đất của gia đình Lương Phân V,
gồm các thửa đất số 53, 96, 97 tờ bản đồ số 27 tại phường K, thành phố T, tỉnh
Bình Dương, giá cho thuê 5.000.000 đồng/tháng, thời hạn thuê đến ngày
01/5/2020. Ngày 16/8/2016, bà V đã chuyển nhượng thửa đất số 53, tờ bản đồ số
27 cho vợ chồng ông P, V1 với giá 1.370.000.000 đồng để tiền cho con
đi học. Ông P vẫn tiếp tục thuê hai thửa đất 96 và 97 với giá 2.500.000
đồng/tháng.
Khoảng tháng 9 năm 2020, V quen biết Thị T (bán hải
sản tại chợ Q1), sau nhiều lần nói chuyện tạo niềm tin với bà V, bà T đề nghị
V bán phụ, V thấy công việc cũng hợp nên V quyết định làm.
sau nhiều thời gian làm việc chung nên V niềm tin với T, T tâm
sự với V đang kẹt tiền lấy hàng nên T nhờ V đi mượn tiền, tiền gốc
lãi T sẽ tự trả. Do V người lớn tuổi nên dễ động lòng thương người,
V lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 96 cầm cố cho
Nguyễn Thị D để vay 250.000.000 đồng cho T mượn, sau đó D muốn lấy
lại tiền nên bà T đã dẫn bà V đến gặp ông P để vay số tiền 250.000.000 đồng rồi
trả cho D lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra đưa ông P giữ để
đảm bảo cho khoản vay này. Vài ngày sau bà T lại dẫn bà V ra tiệm cầm đồ của
ThL1 để vay tiếp 250.000.000 đồng, lúc này V thấy T cầm theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà V mà đã đưa cho ông P giữ trước đó
3
để đưa cho L1, khi đó L1 mới cho V vay rồi đưa cho T số tiền vay
được. V đã vay của một số người nữa, mỗi người vài chục triệu, số tiền
những người V đã đứng ra mượn cả tiền V tiết kiệm được, với tổng
số tiền bà T vay là 732.000.000 đồng.
Tháng 10 năm 2020, T và ông P đã làm việc với nhau trước đó, sau đó
T nhiều lần nhờ V đến gặp ông Văn P để nhận tiền mặt giúp bà T
(không nhận giấy tờ gì) rồi về đưa lại cho T (cũng không có nhận
giấy tờ gì) còn cụ thể nhận tiền thì V không biết. Số tiền lúc 5.000.000
đồng cho đến 50.000.000 đồng, sau khi nhận tiền xong V đem về đưa cho bà
T, vì lúc này bà V đang làm cho bà T, bà T sai đi làm gì thì bà V làm cái đó. Sau
một thời gian thì con ông Phạm Kim L phát hiện ra bà V đem giấy chứng
nhận quyền sdụng đất đi cầm cố để mượn tiền cho T, nên V yêu cầu
T trả tiền cho bà D để bà V lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về, nhưng bà
T không trả nên ông Phạm Kim L phải thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thửa 97 tờ bản đồ số 27 đvay ngân hàng 700.000.000 đồng để trả nợ cho
những người mà bà V mượn tiền cho bà T. Sau đó, T nói là trúng 12 tờ
số đặc biệt, nói sẽ mua hai miếng đất của (thửa 96 và thửa 97) với trị giá
6.000.000.000 đồng và cho một căn nhà. Vì tin tưởng T nên V đã nghe
theo những T sắp đặt sai bảo. Vào các ngày 21/12/2020, 31/12/2020
ngày 20/01/2021 T cùng V gặp vợ chồng ông P, đồng thời nhờ V
vào một số giấy tờ đó V không biết, bà V chỉ nghĩ đang làm cho bà
T thì T nhờ làm thì làm cái đó, sau này mới biết đã “Tờ cam kết
thoả thuận”, “Hợp đồng thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Khi ký tên xác nhận những giấy tờ trên bà không được đọc và biết nội dung trên
giấy vì bà chỉ biết viết họ và tên, ký tên và hoàn toàn không biết đọc chữ.
Ngày 05/5/2021, vợ chồng ông P đã đến nhà thông báo số nợ vay
6.700.000.000 đồng. Ông P nói “Không hai sổ đất thì phải trả tiền mặt ngay
lập tức”, làm gia đình rất hoang mang, lo sợ. Ngày 06/5/2021, ông P, V1
hai người chủ nợ một nam, một nkhông biết tên đâu nói là: “Hai
người đó cho ông P V1 vay tiền nóng để mua đất nhà tôi nếu không
đồng ý ký chuyển nhượng thì để hai người đó đe doạ gia đình bà”.
Ngày 07/5/2021, ông P V1 lại tiếp tục vào nhà gây sức ép tinh
thần lên chồng hai con nên V đã đồng ý chuyển nhượng thửa đất số
96 nhưng ông P V1 lại đưa ra lời đề nghị khác là: “Ông P V1 sẽ
giảm khoản nợ từ 6.700.000.000 đồng xuống còn 5.500.000.000 đồng, giá thửa
đất 96 nâng lên thành 4.000.000.000 đồng cho gia đình V nợ lại số tiền
1.500.000.000 đồng. nhiều lần bị đe dọa nên gia đình V buộc phải vào
giấy nhận nợ kiêm hợp đồng hứa bán. Nhưng gia đình hoàn toàn không
nhận được số tiền nào từ vợ chồng ông P, bà V1. Ngày 08/5/2021, vợ chồng ông
P đến nhà V nói “Giang hồ đòi nợ gia đình ông ta” và bắt gia đình phải
tiếp tục công chứng mua bán hai thửa đất 96 97. Ngày 10/6/2021, ông P
vào nhà nói đồng ý giảm 500.000.000 đồng số tiền nợ còn lại 1.000.000.000
đồng và kêu gọi gia đình bà ra phòng công chứng ký chuyển nhượng gấp cho vợ
chồng ông P. Ngày 12/6/2021, vì sức ép đe dọa từ vợ chồng ông P nên vợ chồng
4
buộc phải ra Văn phòng Công chứng Đào Thị C1 chuyển nhượng cho vợ
chồng ông P. Sau đó, vợ chồng ông P mới để yên cho gia đình sống yên ổn.
Trước ngày công chứng này (tức ngày 11/6/2021), ông P tiếp tục bắt ép vợ
chồng phải vào hợp đồng đặt cọc trên hợp đồng ghi ngày đặt cọc
ngày 28/4/2021. Tổng số tiền T đã trả cho cho V được 28.600.000
đồng, nhưng lại vay thêm của V 50.000.000 đồng T nói nếu không cho
vay thì sẽ đi chỗ khác làm ăn, V sợ T đi tsẽ không trả nợ cho được
nên nên bà V đã cho vay thêm tiền. Tổng số tiền lãi bà V phải trả cho ngân hàng
là 74.000.000 đồng. Như vậy, tính đến nay thì bà T còn nợ bà số tiền là
827.400.000 đồng.
Trong suốt qtrình ông P thuê đất của từ tháng 01/2020 đến tháng
6/2021 (ngày công chứng mua bán quyền sử dụng đất thửa 96), ông P chưa trả
tiền thuê đất cho cho bà, mỗi tháng thuê 2.500.000 đồng. Tổng cộng
45.000.000 đồng. Ngày 13/04/2021, vợ chồng ông P còn vay thêm tiền của bà là
50.000.000 đồng hẹn một tuần sau trả, nhưng đến nay cũng không trả.
Do đó, bà Lương Phân V khởi kiện yêu cầu:
- Tuyên bố hiệu đối với: Hợp đồng đặt cọc ngày 21/12/2020 (tức tờ
cam kết thỏa thuận ngày 21/12/2020); Hợp đồng đặt cọc ngày 28/4/2021;
Hợp đồng thế chấp ngày 31/12/2020; Hợp đồng thế chấp ngày 20/01/2021; Hợp
đồng nhận nợ kiêm hợp đồng hứa bán (không đề ngày tháng năm); Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 004671, quyển số 06/2021
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/6/2021 tại Văn phòng C2. Buộc vợ chồng ông
Văn P, Nguyễn Thị V1 trả lại quyền sử dụng thửa đất số 96 tờ bản đồ 27 tại
phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
- Buộc bà Lê Thị T phải trả nợ gốc số tiền 827.400.000 đồng và lãi tính từ
ngày 01/5/2022 đến ngày 01/4/2023 (lãi 0,9%/tháng) số tiền 74.466.000 đồng.
- Buộc vợ chồng ông Lê Văn P, Nguyễn Thị V1 phải trả số tiền thuê
đất 45.000.000 đồng và tiền nợ 50.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, Lương Phân V thừa nhận nhận tiền từ ông P, V1
khoảng 08 09 lần với tổng số tiền khoảng 900.000.000 đồng, đây số tiền
V đã nhận giùm cho bà Lê Thị T vì thời điểm đó làm thuê cho bà Thị T, bà T
nói làm thì cũng làm. V xác nhận từ trước đến nay sức khỏe tâm
thần bình thường, không có bệnh lý gì về thần kinh.
Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn xuất trình bản
chính: Tờ cam kết thỏa thuận ngày 21/12/2020, Hợp đồng thế chấp ngày
31/12/2020 Hợp đồng thế chấp ngày 20/01/2021. Người đại diện hợp pháp
của Lương Phân V thừa nhận chữ trong Tờ cam kết thỏa thuận ngày
21/12/2020 của Lương Phân V nhưng chữ ký trong Hợp đồng thế chấp
ngày 31/12/2020, Hợp đồng thế chấp ngày 20/01/2021 không giống với ch
của V trong Tờ cam kết và thỏa thuận ngày 21/12/2020. Người đại diện hợp
pháp của nguyên đơn đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành giám định chữ ký trong
Hợp đồng thế chấp ngày 31/12/2020, Hợp đồng thế chấp ngày 20/01/2021 để
5
xác định phải chữ ký của V hay không để làm cơ sở xác định số tiền V
vay của ông P, V1. Tại phiên tòa nguyên đơn cũng mở c đoạn ghi âm
cho rằng ông P, V1 đã gây sức ép đgia đình V phải vào Hợp đồng
nhận nợ kiêm hợp đồng hứa bán.
Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa, nguyên đơn xin rút yêu cầu khởi
kiện vviệc tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với Thị T, rút yêu cầu
vay tài sản đối với ông Lê Văn P, bà Thị V2.
Bị đơn ông Văn P, Nguyễn Thị V1 trình bày: gia đình ông Văn
P, Nguyễn Thị V1 gia đình Lương Phân V, ông Phạm Văn T1, ông
Phạm Kim L, ông Phạm Kim Q hàng xóm với nhau đã lâu, quan hệ giữa hai
gia đình rất tốt thường xuyên qua lại thăm hỏi lẫn nhau, giúp đỡ nhau trong cuộc
sống.
Năm 2015, do gia đình bà V (bà Lương Phân V, ông Phạm Văn T1, ông
Phạm Kim L) cần tiền gia đình ông P cũng cần thuê mặt bằng để kinh doanh
quán ăn nên đã thống nhất thuê 3 thửa đất thửa đất số 53, 96, 97 thuộc tờ bản
đồ 27 tại phường K, thành phố T. Tiền thuê đất cho cả 3 thửa 5.000.000
đồng/tháng, đặt cọc trước 60.000.000 đồng, được trừ dần theo thời gian thực
hiện hợp đồng, thời hạn thuê trong 07 năm kể từ ngày 01/5/2015. Ngày
26/01/2015, để hợp thức hoá h lại hợp đồng thuê số 0067 tại Văn
phòng C3 (huyện B) đối với thửa đất s53, tbản đồ s27 với giá 5.000.000
đồng/tháng. Nhưng trên thực tế giá thuê 5.000.000 đồng/tháng này bao gồm
cho cả 3 thửa 53, 96, 97. Tkhi ký hợp đồng thuê 3 thửa đất trên hai bên gia
đình thực hiện hợp đồng đầy đủ, ông P có trồng cây, xây dựng nền, làm nhà mái
lá để kinh doanh dịch vụ ăn uống. Năm 2016, gia đình V chuyển nhượng cho
ông P thửa đất số 53, năm 2021, gia đình V tiếp tục chuyển nhượng cho ông
P thửa đất 96, năm 2022 gia đình V chuyển nhượng thửa 97 cho ông D1.
Đầu năm 2020, gia đình V đề nghị vay tiền gia đình ông P, theo bà
V nói do cần tiền để lo công việc gia đình làm ăn, ông P V1 không biết gia
đình V vay tiền để làm gì. hàng xóm thân cận, mong muốn giúp đỡ gia
đình V, cũng là hàng xóm láng giềng với nhau gia đình V cũng tài
sản là đất nên ông P, bà V1 đã cho gia đình bà V vay tiền.
Gia đình V vay của ông P, V1 nhiều lần, lần vay lập giấy tờ
những lần vay không lập giấy tờ. Ban đầu số tiền vay chưa lớn, nhưng về sau
ông P, V1 nhận thấy stiền vay đã quá lớn nên buộc phải lập giấy tờ để ghi
nhận các khoản vay đó. Cụ thể những lần vay có lập giấy tờ:
Lần 1, ngày 21/12/2020 gia đình bà V vay 1.360.000.000 đồng; lần 2,
ngày 31/12/2020 gia đình bà V vay 1.000.000.000 đồng; lần 3, ngày 20/01/2021
gia đình bà V vay 1.100.000.000 đồng.
Ngoài ra còn nhiều lần vay không lập giấy tờ chỉ thoả thuận bằng lời
nói và tiến hành giao tiền mặt. Tất cả những lần ông P, V1 cho gia đình bà V
(bà V, ông T1, ông L) tại thời điểm cho vay thoả thuận là cho vay không lấy lãi.
Người trực tiếp đề xuất vay tiền các lần là bà V, mỗi lần bà V nhận tiền đều trực
6
tiếp V nhận bằng tiền mặt. Người trực tiếp giao tiền cho V ông P, bà
V1, không thông qua bất kỳ người nào khác.
Mỗi lần giao tiền mặt, mệnh giá từng tờ, số lượng từng tờ ông P, V1
không nhớ ông P, bà V1 bắt đầu cho gia đình V vay từ năm 2020 đến
nay đã rất lâu cũng giao nhiều lần nên không thể nhớ từng lần cụ thể được.
Địa điểm giao tiền mặt khi thì ở nhà ông P, bà V1; khi thì ông P hoặc V1 phải
đưa lên cổng trại phong B, quán cà phê gần trại phong B để giao trực tiếp cho bà
V. Theo bà V nói do bà V đã lớn tuổi không dùng số tài khoản và trước sau gì bà
V cũng dùng tiền mặt nên ông P, V1 không chuyển khoản V cũng chỉ
nhận tiền mặt.
Cho đến khoảng tháng 3 năm 2021, giữa ông P, bà V1 V, ông T1,
ông L thống nhất lại toàn bộ số tiền đã vay chưa trả 5.500.000.000 đồng, lập
giấy tờ “GIẤY NHẬN NỢ KIÊM HỢP ĐỒNG HỨA BÁN” đồng thời thống
nhất phương án xnợ. Cụ thể phương án xử lý nợ: Nếu gia đình V (bà V,
ông T1, ông L) không trả được toàn bộ số tiền đã vay vào hạn cuối ngày
08/05/2021 thì gia đình bà V (bà V, ông T1, ông L) sẽ thanh toán khoản vay trên
bằng cách trả bằng tài sản là thửa đất số 96, tờ bản đồ số 27 tại phường K, thành
phố T cho ông P, V1 để cấn trừ nvới giá 4.000.000.000 đồng. Thời hạn
chuẩn bị giấy tờ để thực hiện sang n là 30 ngày. Sau khi sang tên cấn trừ nợ
bằng tài sản, số tiền bà V, ông T1, ông L còn nợ ông P, V1 1.500.000.000
đồng. V, ông T1, ông L còn cam kết: Bên A (bà V, ông T1, ông L) bằng mọi
khả năng, không trốn tránh nghĩa vụ, tiếp tục trả nợ cho ông P, V1 cho đến
khi trả hết nợ hoặc dùng tài sản khác để cấn trừ nợ. Đến thời hạn như thoả thuận
(ngày 08/05/2021), V, ông T1, ông L không có tiền để trả nợ cho ông P,
V1 nênV, ông T1 đã chuẩn bị giấy tờ (trích lục thửa đất, xác nhận tình trạng
bất động sản), đã sang tên chuyển nhượng thửa đất số 96, tờ bản đồ số 27 tại
phường K cho ông P, bà V1 đúng như thoả thuận. Số tiền còn lại chưa trả
1.500.000.000 đồng đến nay bà V, ông T1, ông L vẫn chưa trả cho ông P, bà V1.
Một thời gian sau ông P V1 nghe tin V, ông T1, ông L đã nhận đặt cọc
bán đất thửa số 97, tờ bản đồ số 27 tại phường K (liền kvới thửa 96) cho một
người khác. Sau này ông P V1 mới biết thửa đất 97 được bán với giá
2.800.000.000 đồng.
Theo như đã thoả thuận thì sau khi sang tên chuyển nhượng thửa đất số
96, tờ bản đồ số 27 tại phường K thì số tiền nay V, ông T1, ông L còn nlà
1.500.000.000 đồng. Ông P, V1 sau khi nghe tin thửa đất 97 đã người
mua, hồ sang tên đã qua người mới thì cũng trông mong bà V, ông T1, ông L
sẽ tự giác đem tiền qua trả nhưng cũng không thấy qua trả lại tiền nợ. Đợi một
thời gian sau, ông P, V1 đề nghị bà V, ông T1, ông L trả lại số nợ
1.500.000.000 đồng nhưng V, ông T1, ông L không trả. Từ thời điểm này
giữa ông P, V1 V, ông T1, ông L phát sinh mâu thuẫn, không thể tiếp
tục nói chuyện với nhau. Khoảng đầu tháng 03 năm 2022 V gửi Thông báo
đề ngày 02/03/2022 bằng đường bưu điện đến Phước về việc chấm dứt thực hiện
hợp đồng thuê quyền sử dụng đất đối với cả 3 thửa đất (53, 96, 97). do V
cho rằng ông P ttháng 10/2021 đã không thanh toán tiền thuê đất đồng thời tự
7
ý đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê cả 3 thửa đất (53, 96, 97) từ ngày
15/3/2022.
Việc V, ông T1, ông L không tiếp tục trả nợ cho ông P, V1 cũng
không trả tiền vay còn thiếu cho ông P, V1 khi bán được thửa đất s97, tờ
bản đồ 27 (liền kề thửa 96) vi phạm thoả thuận, vi phạm hợp đồng, tự ý đơn
phương chấm dứt hợp đồng làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông P
V1. Vì vậy ông P, bà V1 đã khởi kiện bà V, ông T1, ông L, ông Q yêu cầu trả
lại toàn bộ số tiền nợ gốc 1.500.000.000 đồng và lãi tạm tính 225.000.000 đồng,
Toà án nhân dân thành phố Tân Uyên nay đã thụ lý giải quyết số 291/TB-TLVA
ngày 20/12/2022. Tuy nhiên sau đó V khởi kiện ông P, V1 trong vụ án số
97/2023/TLST-DS về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc, hợp đồng thế chấp, hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
hợp đồng vay tài sản” nên ông P, V1 đã rút đơn khởi kiện vụ án trước
yêu cầu phản tố sang vụ án này.
Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì bị đơn không đồng ý về việc
tuyên hiệu các hợp đồng hợp đồng được kết đúng ý chí của gia đình
V, ông P, bà V1 không hề ép buộc. Về yêu cầu thanh toán tiền thuê đất
45.000.000 đồng thì bđơn không đồng ý do bị đơn đã thanh toán đầy đủ, đúng
hạn cho nguyên đơn bằng tiền mặt, không làm giấy tờ. Đối với tiền 50.000.000
đồng V nói cho vợ chồng ông P, V1 vay không căn cứ nên không
đồng ý.
Bị đơn yêu cầu phản tố buộc Lương Phân V, ông Phạm Văn T1, ông
Phạm Kim L trả số tiền nợ gốc chưa trả là 1.500.000.000 đồng trả tiền lãi
phát sinh từ số tiền gốc 1.500.000.000 đồng từ ngày 08/05/2021 cho đến ngày
xét xử theo lãi suất 10%/năm là 450.000.000 đồng.
Bị đơn Thị T trình bày: Hiện tại bà đã về quê tại thôn A, huyện B,
tỉnh Quảng Ngãi để sinh con. Do đó không thể đến Tòa án tham gia tố tụng,
T đề nghị Tòa án Tân Uyên giải quyết, xét xử vụ án vắng mặt bà.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Phạm Văn T1, ông Phạm Kim
L trình bày: Thống nhất trình bày yêu cầu nguyên đơn Lương Phân V, đ
nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không chấp nhận yêu
cầu phản tố của bị đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 15/5/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định như sau:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Lương Phân V với ông
Văn P, Nguyễn Thị V1 về việc yêu cầu tuyên bố hiệu đối với: Hợp đồng
đặt cọc ngày 21/12/2020 (Tờ cam kết thỏa thuận ngày 21/12/2020); Hợp
đồng đặt cọc ngày 28/4/2021; Hợp đồng thế chấp ngày 31/12/2020; Hợp đồng
thế chấp ngày 20/01/2021; Hợp đồng nhận nợ kiêm hợp đồng hứa bán (không đ
ngày tháng năm); Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất số công chứng
004671, quyển số 06/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 12/6/2021 tại Văn phòng
C2.
8
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Lương Phân V về việc
tranh chấp hợp đồng vay tài sản với bị đơn Thị T, ông Văn P,
Nguyễn Thị V1.
3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lương Phân V về việc
tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất đối với bị đơn ông Văn P, bà
Nguyễn Thị V1:
Buộc ông Văn P, Nguyễn Thị V1 thanh toán cho Lương Phân V
tiền thuê đất thửa 96 tờ bản đồ 27 tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương
từ tháng 01/2020 đến 6/2021 số tiền 45.000.000 đồng (Bốn mươi lăm triệu
đồng).
4. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Lê Văn P, bà Nguyễn Thị
V1 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với bà Lương Phân V, ông Phạm
Văn T1, ông Phạm Kim L:
Buộc Lương Phân V, ông Phạm Văn T1, ông Phạm Kim L phải
nghĩa vụ liên đới thanh toán cho ông Văn P, Nguyễn Thị V1 nợ gốc
1.500.000.000 đồng (Một tỷ năm trăm triệu đồng).
Ngoài ra bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng
cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 27 tháng 5 năm 2024, nguyên đơn bà Lương
Phân V kháng cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện
kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau vviệc giải quyết vụ
án.
Đại din Vin Kim sát nhân dân tnh Bình Dương phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng tham gia ttụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: gia đình bà V được quyền sử dụng các thửa đất số 53, 96, 97
tờ bản đồ số 27 tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sdụng đất. Trong quá trình sử dụng đất gia đình V thực
hiện các giao dịch liên quan đến các thửa đất số 53, 96, 97 tờ bản đồ s27 tại
phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương, trong đó có hợp đồng cho bị đơn thuê
đất. Vợ chồng của nguyên đơn còn vay tiền của bị đơn, tổng số tiền vay
5.500.000.000 đồng, do đó, giữa gia đình của V với vợ chồng của ông P lập
“Giấy nhận nợ hợp đồng hứa bán”. Do không tiền trả theo thỏa thuận tại
“Giấy nhận nợ và hợp đồng hứa bán”, vì vậy gia đình V chuyển nhượng thửa
đất số 96 cho vợ chồng ông P tương đương giá trị 4.000.000.000 đồng, như vậy,
gia đình bà V còn nợ vợ chồng ông P số tiền 1.500.000.000 đồng đúng. Tòa
án cấp sơ thẩm xét xử đúng quy định của pháp luật, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ
luật Tố tụng dân sự, đề nghị cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm.
9
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên tòa;
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Bình Dương.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: kháng cáo nguyên đơn Lương Phân V trong hạn luật
định, căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án theo quy
định của pháp luật.
[2] Tại cấp thẩm nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện về việc tranh chấp
hợp đồng vay tài sản đối với bị đơn Thị T và rút một phần yêu cầu khởi
kiện về tranh chấp hợp đồng vay tài sản với bị đơn ông Văn P, bà Nguyễn
Thị V1 là hoàn toàn tự nguyện. Tòa án cấp thẩm đã đình chỉ giải quyết yêu
cầu trên, các bên không ai kháng cáo nên đã phát sinh hiệu lực.
[3] Xét kháng cáo của Lương Phân V, gia đình V được quyền sử
dụng các thửa đất số 53, 96, 97 tờ bản đồ số 27 tại phường K, thành phố T, tỉnh
Bình Dương đã được cấp giấy chứng nhận quyền sdụng đất. Trong quá trình
sử dụng đất gia đình bà V thực hiện các giao dịch liên quan đến các thửa đất số
53, 96, 97 tờ bản đồ số 27 tại phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương như sau:
[3.1] Về hợp đồng thuê đất: theo nội dung hợp đồng thuê một phần quyền
sử dụng đất lập ngày 26/01/2015 do Văn phòng C3 chứng thực số 0067 quyển
số 01 TP/CC-SCC/HĐGD giữa bà Lương Phân V, ông Phạm Văn T1 với ông
Văn P, thể hiện vchồng bà Lương Phân V, ông Phạm Văn T1 cho ông Văn
P thuê 500m
2
đất là một phần thửa 53, tờ bản đồ số 27, tại phường K, thành phố
T, tỉnh Bình Dương với giá 5.000.000 đồng/tháng, thời hạn 07 năm tính từ ngày
26/01/2015. Tuy nhiên, vợ chồng V vợ chồng ông P xác định vợ chồng
ông P, bà V1 thuê toàn bộ 03 thửa đất của gia đình V gồm các thửa đất số 53,
96, 97 của gia đình bà V. Vợ chồng ông P đặt cọc số tiền 60.000.000 đồng
được trừ vào tiền thuê một năm (12 tháng).
[3.2] Nguyên đơn cho rằng, quá trình sử dụng phần đất cho bị đơn thuê thì
nguyên đơn đã chuyển nhượng một phần nên giá thuê đất còn lại
2.500.000đồng/tháng, từ tháng 01/2020 đến tháng 6/2021 (ngày ký chuyển
nhượng thửa 96 cho ông P), ông P, V1 chưa thanh toán tiền thuê đất, mỗi
tháng 2.500.000 đồng, tổng tiền là 45.000.000 đồng.
[3.3] Bị đơn xác định mỗi tháng đều thanh toán tiền thuê đất cho nguyên
đơn số tiền 2.500.000 đồng bằng tiền mặt nhưng không lập biên bản giao nhận.
Tuy nhiên, nguyên đơn không thừa nhận bị đơn không chứng minh được đã
thanh toán tiền thuê đất cho nguyên đơn. Do đó, nguyên đơn yêu cầu ông P,
V3 trả tiền thuê đất số tiền 45.000.000 đồng là có căn cứ.
[4] Về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất: tại hồ cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của hộ V, thể hiện thửa đất số 53, tờ bản đồ 27,
phường K, thành phố T, tỉnh Bình Dương diện tích 1.382m
2
được cấp cho v
chồng V, ông T1 ngày 20/02/2006. Năm 2012, V, ông T1 tách một phần
thửa 53 lập thành thửa 96, 97 tặng cho thửa 96 cho con ông Phạm Kim Q,
10
tặng cho con ông Phạm Kim L thửa 97. Thửa đất 53 diện tích còn lại, vợ
chồng V, ông T1 chuyển nhượng cho ông Văn P ông P được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 16/12/2016.
[5] Ngày 28/3/2013, ông Phạm Kim Q làm hợp đồng tặng cho thửa đất số
96 này cho Lương Phân V; ngày 08/10/2013, Lương Phân V được cấp
giấy chứng nhận thửa đất số 96 này.
[6] Quá trình cho thuê đất, vợ chồng bà V, ông T1 và ông L (con) vay tiền
của vợ chồng ông P, bà V3 số tiền tổng cộng 5.500.000.000 đồng, hai bên lập
“Giấy nhận nợ kiêm hợp đồng hứa bán”, trong đó có nội dung đến ngày
08/5/2021, V, ông T1 ông L không trả hết khoản tiền vay 5.500.000.000
đồng cho vợ chồng ông P thì vợ chồng V, ông T1 ông L chuyển nhượng
thửa đất số 96 cho vợ chồng ông P tương đương giá trị 4.000.000.000 đồng, còn
nợ lại 1.500.000.000 đồng. V, ông T1, ông L và vợ chồng ông P thống nhất
thỏa thuận và tên, in dấu vân tay vào trang cuối của “Giấy nhận nợ kiên hợp
đồng hứa bán”.
[7] Do không tiền trả nợ, nên ngày 12/6/2021 bà Lương Phân V, ông
Phạm Văn T1 chuyển nhượng thửa đất số 96 cho ông Văn P, hợp đồng
chuyển nhượng được Văn phòng C4 số 004671 quyển số 06/2021 TP/CC-
SCC/HĐGD theo đúng quy định. Ông Văn P được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS13557 ngày
13/7/2021. Giá chuyển nhượng thực tế 4.000.000.000 đồng cấn trừ một
phần vào số tiền gia đình Lương Phân V, ông Phạm Văn T1, ông Phạm Kim
L vay nợ 5.500.000.000 đồng. như vậy, Lương Phân V, ông Phạm Văn T1,
ông Phạm Kim L cò nợ vợ chồng ông P số tiền 1.500.000.000 đồng.
[8] Về yêu cầu phản tố của bị đơn yêu cầu Lương Phân V, ông Phạm
Văn T1, ông Phạm Kim L phải thanh toán nợ 1.500.000.000 đồng tiền lãi
chậm thanh toán kể từ ngày 08/5/2021. Như đã nhận định trên tại “Giấy nhận nợ
kiêm hợp đồng hứa bán”, xác định sau khi trừ tiền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, bà Lương Phân V, ông Phạm Văn T1, ông Phạm Kim L còn nợ số tiền
1.500.000.000 đồng căn cứ. Về tiền lãi, tại Điều 3 của giấy nhận nợ kiêm
hợp đồng hứa bán, ghi “Số tiền còn lại bên A còn nợ là 1.500.000.000 đồng. Bên
A cam kết bằng mọi khả năng, không trốn tránh nghĩa vụ, tiếp tục trả cho bên B
cho đến khi trả hết nợ hoặc dùng tài sản khác để cấn trừ nợ”, cũng tại Điều 3
cụm từ “đồng thời phải chịu lãi” bị gạch bỏ. Như vậy, xác định khoản tiền còn
nợ 1.500.000.000 đồng không lãi suất, theo quy định tại khoản 1 Điều 469
của Bộ luật Dân sự không quy định tính lãi đối với khoản nợ này. Do đó, bị
đơn đơn yêu cầu trả lãi đối với khoản nợ 1.500.000.000 đồng là không có căn cứ
chấp nhận.
[9] Nguyên đơn cho rằng, tại đoạn ghi âm nộp cho Tòa án thể hiện gia
đình nguyên đơn bép buộc nhận nợ; tuy nhiên khi nghe nội dung tại đoạn
ghi âm trên không có nội dung nào thể hiện bị đơn ép buộc gia đình nguyên đơn
ký, về nguồn gốc xuất xứ đoạn ghi âm không thực hiện đúng quy định của pháp
luật; nguyên đơn không có chứng cứ khác chứng minh các giao dịch giữa
nguyên đơn và bị đơn có sự ép buộc nên không có căn cứ chấp nhận.
11
[10] Tại cấp phúc thẩm người kháng cáo không tài liệu, chứng cứ mới
làm thay đổi nội dung vụ án nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo.
[11] Án phí phúc thẩm: kháng cáo không được chấp nhận nên người
kháng cáo phải chịu. Bà V là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên được
miễn.
[12] Ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương là phù hợp.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 48, Điều 148, khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng
dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy Ban
Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn bà Lương Phân V
2. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 42/2024/DS-ST ngày 15/5/2024
của Tòa án nhân dân thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
3. Án phí phúc thẩm: Bà Lương Phân V được miễn.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành ph Tân Uyên;
- TAND thành ph Tân Uyên;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
Tải về
Bản án số 561/2024/DS-PT Bản án số 561/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 561/2024/DS-PT Bản án số 561/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất