Bản án số 548/2025/DS-PT ngày 05/09/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 548/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 548/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 548/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 548/2025/DS-PT ngày 05/09/2025 của TAND TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Cần Thơ |
| Số hiệu: | 548/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 05/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Ông H, bà S yêu cầu công nhận hợp đồng mua bán nhà với Công ty S |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Bản án số: 548/2025/DS-PT
Ngày: 05 - 9 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua
bán nhà
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Toàn.
Các Thẩm phán: Ông Võ Hoàng Khải.
Ông Nguyễn Văn Hải.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Dương - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Cần Thơ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cần Thơ tham gia phiên tòa:
Bà Đỗ Thị Hồng Nhi - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 336/2023/TLPT-DS ngày 06 tháng 12 năm
2023 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 135/2023/DS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2023
của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng cũ bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 379/2023/QĐ-PT ngày 19
tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân
thành phố Cần Thơ), giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Huỳnh Thanh H, sinh năm 1985 (vắng mặt).
2. Bà Trần Thị S, sinh năm 1985 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số B15-13, số 48, đường số 5, Khu dân cư T, phường H, thành
phố S, tỉnh Sóc Trăng (nay là phường P, thành phố Cần Thơ).
Người đại diện theo ủy quyền của các nguyên đơn: Ông Nguyễn Vĩnh P, sinh
năm 1983; địa chỉ: Ấp T, thị trấn T, huyện C, tỉnh Sóc Trăng (nay là xã P, thành phố
Cần Thơ). (Văn bản ủy quyền ngày 20/3/2021). (có mặt).
- Bị đơn: Công ty S, địa chỉ: Số 7, khu dân cư L, Khóm M, Phường B, thành
phố S, tỉnh Sóc Trăng (nay là phường P, thành phố Cần Thơ).
2
Người đại diện theo theo pháp luật của bị đơn: Ông Lê Văn Hồng O, sinh
năm 1978; địa chỉ: Số 7, khu dân cư L, Khóm M, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng (nay là phường P, thành phố Cần Thơ). (Giám đốc Công ty S). (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Phạm Hồng D, là
Luật sư của Công ty luật TNHH D và cộng sự; địa chỉ: Số 132, đường N, phường A,
quận B, thành phố Cần Thơ (nay là phường B, thành phố Cần Thơ). (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ;
địa chỉ: Số 130, đường P, Phường B, quận N, thành phố Hồ Chí Minh (nay là phường
P, thành phố Hồ Chí Minh).
Người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng: Bà Hoàng Quế N, sinh năm
1988; địa chỉ: Số 257, Quốc lộ 1A, Khóm M, Phường B, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng
(nay là phường S, thành phố Cần Thơ). (Văn bản uỷ quyền ngày 01/3/2023). (vắng
mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người kháng cáo: Công ty S, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được
tóm tắt như sau:
- Theo Đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
tòa, nguyên đơn ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S, có người đại diện theo uỷ
quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Vĩnh P trình bày:
Vào ngày 26/01/2010, vợ chồng ông Huỳnh Thanh H, bà Trần Thị S và Công
ty S (sau đây gọi tắt là Công ty S) có ký kết hợp đồng mua bán nhà, là 01 căn nhà
trệt số B15-13, đường số 5, Khu dân cư T, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng,
diện tích đất 90m
2
, diện tích xây dựng 78m
2
, diện tích sử dụng 78m
2
. Giá trị nhà và
đất là 390.000.000 đồng. Phương thức thanh toán chia làm 04 đợt, cụ thể như sau:
+ Đợi 1: Thanh toán số tiền 117.000.000 đồng ngay sau khi ký Hợp đồng.
+ Đợi 2: Thanh toán số tiền 103.000.000 đồng ngay sau khi ký Hợp đồng.
+ Đợi 3: Thanh toán số tiền 150.000.000 đồng một tháng sau khi ký Hợp đồng.
Khi bên A (Công ty S) giao nhà cho bên B (ông H, bà S) sau khi ký Hợp đồng.
+ Đợi 4: Khi nhận giấy chủ quyền nhà, bên B thanh toán cho bên A số tiền là
20.000.000 đồng.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng phía ông H và bà S đã thanh toán cho Công
ty S, 04 lần với tổng số tiền là 370.000.000 đồng, cụ thể như sau:
+ Ngày 16/12/2009, thanh toán số tiền 10.000.000 đồng.
+ Ngày 26/01/2010, thanh toán số tiền 107.000.000 đồng.
+ Ngày 08/02/2010, thanh toán số tiền 253.000.000 đồng (Một lần thanh toán
qua ủy nhiệm chi tại Ngân hàng TMCP Đ - Phòng giao dịch S với số tiền
150.000.000 đồng và một lần thanh toán trực tiếp với số tiền 103.000.000 đồng).
Vào ngày 08/02/2010, Công ty S bàn giao nhà cho ông H, bà S theo Biên bản
3
bàn giao nhà đưa vào sử dụng số 201/BBBG. Ngoài ra, tại khoản 3 Điều 4 của Hợp
đồng mua bán nhà có ghi rõ: Thời gian giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở cho bên mua không quá 18 tháng, kể từ ngày bên bán bàn giao
nhà cho bên mua và bên mua thanh toán đầy đủ tiền đợt giao nhà, tức chậm nhất là
ngày 08/8/2011.
Ngoài ra, tại Điều 7 của Hợp đồng mua bán quy định về điều khoản vi phạm
hợp đồng có thể hiện rõ: Trường hợp bên A bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất chậm hơn hơn 30 ngày (tức
ngày 08/9/2011) so với thời gian quy định tại hợp đồng này thì bên A phải chịu lãi
suất trên số tiền mà bên B đã nộp (tổng cộng là 370.000.000 đồng) cho bên A theo
pháp luật quy định. Lãi suất ngân hàng áp dụng là lãi suất cho vay của Ngân hàng Đ
tại thời điểm tính lãi.
Sau đó, ông H và bà S đã nhiều lần liên hệ với Công ty S yêu cầu phải thực
hiện đúng thỏa thuận theo hợp đồng, giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở cho ông H, bà S nhưng Công ty S chỉ hứa hẹn chứ không thực hiện.
Việc vi phạm hợp đồng của Công ty S làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của ông H và bà S.
Nay ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S yêu cầu Tòa án nhân dân thành
phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng giải quyết:
1. Buộc Công ty S thực hiện thủ tục để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và bàn giao giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với căn nhà nêu trên cho ông H, bà S theo đúng
thỏa thuận trong hợp đồng đã ký.
2. Buộc Công ty S phải thanh toán tiền lãi do vi phạm hợp đồng cho ông H,
bà S tính trên số tiền đã thanh toán là 370.000.000 đồng từ thời điểm ngày 09/9/2011
cho đến khi xét xử theo lãi suất cho vay của Ngân hàng Đ tại thời điểm tính lãi vào
năm 2023 là 13%/năm. Tính đến ngày 18/10/2023 là 370.000.000 đồng x 12 năm 01
tháng 09 ngày x 13%/năm = 582.410.833 đồng. Ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị
S sẽ thanh toán cho Công ty S số tiền còn lại của Hợp đồng mua bán nhà là
20.000.000 đồng.
- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo pháp
luật của Công ty S là ông Lê Văn Hồng O trình bày:
Công ty S thừa nhận có ký hợp đồng mua bán nhà với ông Huỳnh Thanh H
và bà Trần Thị S theo như ông H và bà S trình bày. Quá trình thực hiện hợp đồng
phía Công ty S đã bàn giao nhà cho ông H, bà S sử dụng và phía ông H và bà S đã
thanh toán cho Công ty S số tiền 370.000.000 đồng. Còn lại 20.000.000 đồng theo
hợp đồng hai bên thỏa thuận khi nào phía Công ty S giao giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho ông H và bà S thì
ông H và bà S sẽ thanh toán cho Công ty S. Tuy nhiên, do quyền sử dụng đất nói
trên Công ty S đang thế chấp tại Ngân hàng TMCP Đ (sau đây gọi tắt là Ngân hàng
Đ). Việc Công ty S không thực hiện thủ tục để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và giao giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho ông H, bà S là do Công ty S gặp khó khăn trong
4
kinh doanh, còn nợ tiền của Ngân hàng Đ theo các hợp đồng tín dụng đã ký kết và
hiện nay Ngân hàng Đ đang bị Ngân hàng nhà nước kiểm soát đặc biệt, các cơ quan
chức năng không cho giải chấp đối với nhóm nợ của Công ty S. Việc Công ty S
không thể làm thủ tục để giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở cho ông H, bà S được là do trở ngại khách quan, nên phía Công ty S không đồng
ý thanh toán số tiền lãi theo yêu cầu của ông H, bà S.
Nếu nguyên đơn đồng ý thỏa thuận thì Công ty S có nguyện vọng được nhận
lại nhà và thỏa thuận thanh toán tiền lại cho ông H và bà S theo giá thị trường, nhưng
Công ty S không có yêu cầu phản tố trong vụ án này.
- Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng TMCP Đ là bà Hoàng Quế N trình bày tại Biên bản lấy lời khai ngày
02/3/2023 và ngày 28/7/2023 như sau:
Ngân hàng Đ và Công ty S có ký kết Hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất số 401/HĐTC ngày 31/12/2009, trong hợp đồng thế chấp
số 401 này Công ty S thế chấp nhiều thửa đất, trong đó có thửa đất số 1148, diện
tích 3.242,9m
2
, tờ bản đồ số 53, tọa lạc tại Khóm H, Phường B, thành phố S, tỉnh
Sóc Trăng theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất AP 624019 do UBND tỉnh
Sóc Trăng cấp cho Công ty S ngày cấp 09/12/2009. Phần đất và nhà ông H, bà S
ký kết hợp đồng mua bán với Công ty S là một phần diện tích của thửa đất số
1148, trước đây nếu Công ty S thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ trong hạn, thì
Ngân hàng Đ có thể cho giải chấp từng thửa tương ứng với tài sản đảm bảo, nhưng
do Công ty S đã phát sinh nợ xấu nên Ngân hàng Đ không đồng ý cho Công ty S
giải chấp từng thửa, bởi vì hợp đồng thế chấp không có thỏa thuận cho giải chấp
từng thửa và các thửa đất đã thế chấp này, ngoài việc đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
của Công ty S còn đảm bảo cho các khoản vay của Công ty S thuộc tỉnh khác.
Hiện Ngân hàng Đ đang bị Ngân hàng Nhà nước kiểm soát đặc biệt, nên việc rút
tài sản chỉ được thực hiện khi có văn bản chỉ đạo của Ban kiểm soát Ngân hàng
Đ trụ sở chính. Ngân hàng Đ chỉ cho Công ty S rút tài sản thế chấp nếu Công ty
S thanh toán tất nợ, bao gồm nợ của Công ty S và nợ của Công ty S ở những tỉnh
khác. Ngân hàng Đ không có yêu cầu độc lập trong vụ án này.
Sự việc đã được Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng cũ thụ
lý, giải quyết tại Bản án dân sự sơ thẩm số 135/2023/DS-ST ngày 18 tháng 10 năm
2023 đã quyết định: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 91,
khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều
280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; căn cứ Điều 405, khoản 4 Điều 451 của
Bộ luật Dân sự năm 2005; căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm b khoản 3 Điều 27 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S.
Buộc Công ty S thực hiện thủ tục để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và bàn giao giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với căn nhà trệt số B15-13, đường số 5, Khu dân
5
cư T, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng, diện tích đất 90m
2
, diện tích xây dựng
78m
2
, diện tích sử dụng 78m
2
cho ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S.
Buộc Công ty S trả cho ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S số tiền lãi do vi
phạm hợp đồng là 582.410.833 đồng (Năm trăm tám mươi hai triệu bốn trăm mười
nghìn tám trăm ba mươi ba đồng).
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày ông Huỳnh Thanh H và bà Trần
Thị S có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty S không trả số tiền trên, thì Công ty
S còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo mức lãi suất quy
định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S về việc sau
Công ty S bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với
căn nhà trệt số B15-13, đường số 5, Khu dân cư T, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc
Trăng cho ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S thì ông Huỳnh Thanh H và bà Trần
Thị S sẽ thanh toán cho Công ty S số tiền còn lại của Hợp đồng mua bán nhà là
20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án dân sự sơ thẩm còn tuyên về án phí dân sự sơ thẩm và quyền
kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 25/10/2023, bị đơn Công ty S có đơn kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm
số 135/2023/DS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc
Trăng, tỉnh Sóc Trăng cũ và được Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng cũ nhận
ngày 30/10/2023. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm
135/2023/DS-ST ngày 18 tháng 10 năm 2023 của Tòa án cấp sơ thẩm, vì Tòa án cấp
sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng tố tụng và nội dung tuyên xử của bản án nêu trên là
không đúng pháp luật, không thể thi hành án được, xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của bị đơn.
- Tại phiên tòa phúc thẩm:
+ Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không rút đơn khởi kiện và
cho rằng việc chuyển nhượng là do bị đơn chủ động và lập các thủ tục, hợp đồng
chuyển nhượng để nguyên đơn và một số người dân ký kết hợp đồng mua bán nhà
và nguyên đơn đã thanh toán gần đủ số tiền theo hợp đồng đã ký kết, nhưng bị đơn
không lấy giấy chứng nhận QSDĐ ra để tách thửa cho nguyên đơn là lỗi của bị đơn,
quá trình tham gia tố tụng bị đơn không có văn bản phản đối và Ngân hàng cũng
không có yêu cầu độc lập, hiện nay nguyên đơn chỉ có duy nhất một căn nhà để ở,
nên đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ
thẩm.
+ Người đại diện theo pháp luật của bị đơn không rút đơn kháng cáo và cho
rằng việc ký kết hợp đồng mua bán nhà nêu trên là không đúng pháp luật, vì đất
đang thế chấp cho Ngân hàng, nên thay đổi, bổ sung kháng cáo là đề nghị sửa án
sơ thẩm theo hướng không buộc bị đơn thanh toán tiền lãi theo yêu cầu của nguyên
đơn và tuyên bố hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên là vô hiệu, bị đơn sẽ trả tiền
mua bán nhà cho bị đơn và số tiền chênh lệch còn lại bị đơn sẽ trả cho nguyên đơn
94%. Còn tài sản trên đất hình thành sau, nên không đồng ý trả giá trị tài sản trên
đất.
6
+ Các đương sự không tự thỏa thuận được với nhau việc giải quyết toàn bộ
nội dung vụ án.
- Tại phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn
cho rằng: Hợp đồng mua bán nhà giữa nguyên đơn với bị đơn là vô hiệu, vị phạm
điều cấm của luật, vì nguyên đơn chưa đủ điều kiện kinh doanh bất động sản. Sở
Xây dựng không có tài liệu, chứng cứ chứng minh bị đơn được phép bán nhà hình
thành trong tương lai, nên việc huy động vốn của bị đơn là chưa đúng. Hơn nữa, đất
đã thế chấp vay tiền tại Ngân hàng trước khi ký kết hợp đồng mua bán nhà, nên vi
phạm quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005. Vì vậy, Hợp đồng mua bán nhà giữa
hai bên là vô hiệu, khi vô hiệu thì các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận và
bên có lỗi phải bồi thường. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị đơn
(sau khi thay đổi, bổ sung).
- Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cần
Thơ về việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, những người
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm. Về nội dung
vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại
phiên tòa và các quy định pháp luật có liên quan đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX)
không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn (sau khi thay đổi, bổ sung)
và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2025) – gọi tắt là Bộ luật TTDS, để giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm
của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân
khu vực 5 – Cần Thơ).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Tại phiên tòa lần thứ ba (sau khi tạm ngừng), nguyên đơn ông Huỳnh
Thanh H, bà Trần Thị S vắng mặt, nhưng có người đại diện hợp pháp tham gia phiên
tòa; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Hoàng Quế N (đại diện theo ủy quyền
của Ngân hàng Đ) vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; nên HĐXX căn cứ
vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vụ án
theo thủ tục chung.
[2] Về người kháng cáo, nội dung, hình thức đơn kháng cáo; thời hạn kháng
cáo của bị đơn Công ty S là đúng chủ thể có quyền kháng cáo, đảm bảo về hình thức
và còn trong thời hạn kháng cáo được quy định tại Điều 271, Điều 272, khoản 1 Điều
273 của Bộ luật TTDS, nên kháng cáo hợp lệ, được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận
và tiến hành xét xử phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo pháp luật của bị đơn thay
đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo là yêu cầu Tòa án giải quyết sửa bản án sơ thẩm theo
hướng không buộc Công ty S thanh toán tiền lãi theo yêu cầu của nguyên đơn và
tuyên bố hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên là vô hiệu, bị đơn sẽ trả tiền mua bán
nhà cho nguyên đơn và số tiền chênh lệch còn lại bị đơn sẽ trả cho nguyên đơn 94%.
Xét thấy, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu kháng cáo của người đại diện theo pháp luật
7
của bị đơn là không vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, phù hợp với quy định tại
khoản 2 Điều 284 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên được HĐXX chấp
nhận. Do đó, HĐXX không xem xét đối với yêu cầu hủy bản án sơ thẩm của bị đơn.
[4] Tại Chứng thư thẩm định giá ngày 10/10/2024 thể hiện giá trị QSDĐ là
974.025.000 đồng, nhà ở giá trị còn lại là 332.030.000 đồng, công trình xây dựng
khác có giá trị còn lại là 4.395.000 đồng và hệ thống điện năng lượng mặt trời có giá
trị còn lại là 58.090.091 đồng; tổng cộng là 1.369.899.091 đồng.
[5] Xét kháng cáo của bị đơn về việc yêu cầu Tòa án giải quyết sửa bản án sơ
thẩm theo hướng không buộc Công ty S thanh toán tiền lãi theo yêu cầu của nguyên
đơn. Xét thấy:
[5.1] Tại Điều 4 Hợp đồng mua bán nhà có thoả thuận thời gian bên bán bàn
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở cho bên mua không
quá 18 tháng, kể từ ngày bàn giao nhà (BL số 26), tức là chậm nhất vào ngày
08/8/2011 thì Công ty S phải giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở cho ông H, bà S. Tại Điều 7 của Hợp đồng mua bán nhà thể hiện: “Trường
hợp Bên A bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà chậm
hơn hơn 30 ngày so với thời gian quy định tại hợp đồng này thì Bên A phải chịu lãi
suất trên số tiền mà Bên B đã nộp cho Bên A theo pháp luật quy định (Trừ trường
hợp có thỏa thuận khác. Ghi chú: Lãi suất Ngân hàng áp dụng là lãi suất cho vay
của Ngân hàng Đ tại thời điểm tính lãi” (BL số 27), nhưng đến nay Công ty S vẫn
chưa thực hiện thủ tục để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở cho nguyên đơn là vi phạm thoả thuận của hợp đồng nêu trên. Do đó
ông H, bà S yêu cầu Công ty S trả lãi vi phạm hợp đồng là có cơ sở, mức lãi suất cho
vay của Ngân hàng Đ tại thời điểm tính lãi là 13%/năm, yêu cầu Công ty S trả lãi
đối với số tiền nguyên đơn đã trả là 370.000.000 đồng, thời gian tính lãi từ ngày
09/9/2011 cho đến khi xét xử 18/10/2023 là: 370.000.000 đồng x 12 năm 01 tháng
09 ngày x 13%/năm = 582.410.833 đồng là có căn cứ, được HĐXX chấp nhận.
[5.2] Tại Công văn số 08/CV-DAB-STG, ngày 26/3/2024, Ngân hàng Đ - Chi
nhánh Sóc Trăng xác định: Công ty S thế chấp tại Ngân hàng Đ 39 thửa đất; trong
đó, 20 thửa đất đảm bảo cho khoản vay 800.162.900.000 đồng và 19 thửa đất còn lại
(trong đó, bao gồm thửa đất số 1148, tờ bản đồ số 03) đảm bảo cho khoản vay
20.023.303.600 đồng của Công ty S . Công ty S thế chấp cho Ngân hàng Đ thửa đất
số 1148, tờ bản đồ số 03 theo Hợp đồng thế chấp số 1379/HĐTC với mức đảm bảo
cho khoản vay 7.037.093.000 đồng. Tuy nhiên, theo văn số 129/BKSĐB-DAB ngày
30/12/2020 của Trưởng Ban kiểm soát đặc biệt DAB “DAB chỉ được giải chấp tài
sản đảm bảo thuộc sở hữu của nhóm 586 sau khi nhóm 586 đã thực hiện tất toán toàn
bộ các nghĩa vụ nợ đã thỏa thuận tại hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp và các
cam kết phát sinh tại DAB”. Do đó, việc Công ty S vi phạm nghĩa vụ thanh toán với
tổ chức tín dụng dẫn đến phát sinh nợ xấu, nên Ban kiểm soát đặc biệt của Ngân
hàng Nhà nước cũng như Ngân hàng Đ không cho Công ty S giải chấp từng thửa đất
không phải là trở ngại khách quan, mà do lỗi của Công ty S. Vì vậy, Tòa án cấp sơ
thẩm buộc Công ty S trả lãi cho ông H, bà S theo thỏa thuận trong hợp đồng mua
bán là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.
8
[6] Xét kháng cáo của bị đơn về việc đề nghị tuyên bố hợp đồng mua bán nhà
giữa Công ty S với ông H, bà S là vô hiệu, Công ty S sẽ trả tiền mua bán nhà cho
nguyên đơn và số tiền chênh lệch còn lại bị đơn sẽ trả cho nguyên đơn 94%. Xét
thấy, như nhận định tại mục [5] nêu trên thì yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn liên
quan đến hợp đồng mua bán nhà được HĐXX chấp nhận và tại phiên tòa phúc thẩm
các bên không thỏa thuận được giá trị tài sản trên đất và hoa lợi hình thành trong
tương lai đối với tài sản do nguyên đơn đầu tư, nên yêu cầu kháng cáo này của bị
đơn là không có căn cứ, không được HĐXX chấp nhận.
[7] Từ những nhận định tại mục [5] và [6] nêu trên, xét thấy toàn bộ yêu cầu
kháng cáo của bị đơn Công ty S là không có căn cứ, nên không được HĐXX chấp
nhận. HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313 của Bộ luật TTDS, để giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc
Trăng (nay là Tòa án nhân dân khu vực 5 – Cần Thơ).
[8] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn đề nghị chấp nhận yêu
cầu kháng cáo của bị đơn (sau khi thay đổi, bổ sung) là không có căn cứ, nên không
được HĐXX chấp nhận.
[9] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do Bản án dân sự sơ thẩm được giữ nguyên,
nên bị đơn Công ty S phải chịu án phí dân sự phúc thẩm với số tiền là 300.000 đồng
theo quy định tại khoản 1 Điều 148 của Bộ luật TTDS và khoản 1 Điều 29 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[10] Về chi phí tố tụng ở cấp phúc thẩm: Tổng chi phí số tiền 25.500.000
đồng. Do yêu cầu kháng cáo của bị đơn không được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu
số tiền này và đã nộp xong theo quy định tại khoản 1 Điều 157, khoản 2 Điều 158,
khoản 1 Điều 165, khoản 2 Điều 166 của Bộ luật TTDS.
[11] Đối với lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm về việc đề
nghị HĐXX không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty S và
đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật TTDS, để giữ nguyên bản án dân sự
sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án
nhân dân khu vực 5 – Cần Thơ) là có căn cứ, nên được HĐXX chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 6 Điều 313, khoản 1 Điều 148, khoản 1 Điều
157, khoản 2 Điều 158, khoản 1 Điều 165, khoản 2 Điều 166, khoản 2 Điều 284 của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025); căn cứ khoản 1 Điều
29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí,
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn Công ty S.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 135/2023/DS-ST ngày 18 tháng 10
năm 2023, về việc tranh chấp hợp đồng mua bán nhà của Tòa án nhân dân thành phố
9
Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 5, thành phố Cần Thơ).
Án tuyên như sau:
2.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Thanh H và bà
Trần Thị S.
- Buộc bị đơn Công ty S thực hiện thủ tục để cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và bàn giao giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở đối với căn nhà trệt số B15-13, đường số 5,
Khu dân cư T, Phường H, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng (nay là phường P, thành phố
Cần Thơ), diện tích đất 90m
2
, diện tích xây dựng 78m
2
, diện tích sử dụng 78m
2
cho
ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S.
- Buộc bị đơn Công ty S trả cho ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S số tiền
lãi do vi phạm hợp đồng là 582.410.833 đồng (Năm trăm tám mươi hai triệu bốn
trăm mười nghìn tám trăm ba mươi ba đồng).
- Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày
người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng bị đơn còn phải
trả lãi cho người được thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S về việc
sau khi Công ty S bàn giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở đối với căn nhà trệt số B15-13, đường số 5, Khu dân cư T, Phường H, thành phố
S, tỉnh Sóc Trăng (nay là phường P, thành phố Cần Thơ) cho ông Huỳnh Thanh H
và bà Trần Thị S thì ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S sẽ thanh toán cho Công
ty S số tiền còn lại của Hợp đồng mua bán nhà là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu
đồng).
2.2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Công ty S phải chịu án phí sơ thẩm số tiền
27.596.433 đồng (Hai mươi bảy triệu năm trăm chín mươi sáu nghìn bốn trăm ba
mươi ba đồng). Ông Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S không phải chịu án phí sơ
thẩm. Hoàn trả cho Huỳnh Thanh H và bà Trần Thị S số tiền tạm ứng đã nộp
15.009.000 đồng (Mười lăm triệu không trăm linh chín nghìn đồng) theo Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007618, ngày 24/3/2021 của Chi cục Thi hành án
dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu
vực 5 – Cần Thơ).
3. Về án phí dân sự phúc thẩm: Công ty S phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm
ứng án phí đã nộ là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0001214
ngày 10/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng (nay là Phòng
Thi hành án dân sự khu vực 5 – Cần Thơ); như vậy, Công ty S đã thực hiện xong tiền
án phí dân sự phúc thẩm.
4. Về chi phí tố tụng ở cấp phúc thẩm: Tổng chi phí số tiền 25.500.000 đồng
(Hai mươi lăm triệu năm trăm nghìn đồng). Công ty S phải chịu số tiền này và đã
nộp xong.
5. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
10
6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), thì những người
được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành
án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án
theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu
cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Cần Thơ;
- TAND khu vực 5 - Cần Thơ
- Phòng THADS khu vực 5 - Cần Thơ;
- Các đương sự;
- Lưu: VT, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Văn Toàn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Bản án số 909/2025/DS-PT ngày 14/09/2025 của TAND TP. Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Ban hành: 14/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 12/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm