Bản án số 455/2025/DS-PT ngày 22/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 455/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 455/2025/DS-PT ngày 22/07/2025 của TAND tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Tháp
Số hiệu: 455/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/07/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Nguyễn Thành Ng - Trần Văn Q
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG THÁP Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 455/2025/DS-PT
Ngày: 22/7/2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
Thành phần Hội đồng xét xử phc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Hồng Nước
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Tấn Tặng
Ông Phạm Minh Tùng
Thư phiên tòa: Huỳnh Thị Ngọc Trang Thư Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Tháp.
Đại diện Viện kim sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp tham gia phiên tòa:
Bà Trần Thị Điểu- Kiểm sát viên.
Trong các ngày 15 tháng 7 và ngày 22 tháng 7 năm 2025, tại trụ sở Tòa án
nhân dân tỉnh Đồng Tháp, tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án dân sthụ số
221/2025/TLPT-DS ngày 23 tháng 5 năm 2025 về việc Tranh chp hợp đồng
mua bán tài sản”.
Do bản án dân sự thẩm số 08/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025,
của Toà án nhân dân huyện Tân Hồng bị kháng cáo Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân huyện Tân Hồng kháng nghị;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 360/2025/QĐXXPT
DS ngày 13/6/2025 và quyết định hoãn phiên tòa số 438/2025/QĐPT-DS ngày
27/6/2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức
ăn thủy sản Nguyễn Thành N;
Địa chỉ: Ấp T, xã T, thành phố H (nay là phường H), tỉnh Đồng Tháp.
- Bị đơn:
1. Anh Trần Văn Q (Q1), sinh năm 1986;
2. Chị Võ Thị Đ (vợ anh Q), sinh năm 1986;
2
3. Anh Huỳnh Văn P, sinh năm 1975;
Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T (nay là xã T), tỉnh Đồng Tháp.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Phạm Văn S, sinh năm 1989;
Nơi ĐKHKTT: Ấp P, xã P, huyện H (nay là xã P), tỉnh Đồng Tháp.
Nơi đăng tạm trú chỗ hiện nay: Khu nhà N đường N, Khóm E,
phường A, thành phố H (nay là phường H), tỉnh Đồng Tháp.
2. Bà Lê Thị N1, sinh năm 1963 (vợ ông N);
Địa chỉ: Ấp T, xã T, thành phố H (nay là phường H), tỉnh Đồng Tháp.
3. Chị Trần Thị L, sinh năm 1976 (vợ anh P);
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện T (nay là xã T), tỉnh Đồng Tháp.
4. Người kháng cáo: Anh Trần Văn Q (Q1) và chị Võ Thị Đ là bị đơn.
5. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng kháng nghị
mặt tại phiên tòa: Ông Nguyễn Thành N, anh Trần Văn Q, anh Huỳnh
Văn P, bà Lê Thị N1. Chị Võ Thị Đ đơn xin xét xử vắng mặt. Chị Trần Thị L
vắng mặt tại phiên tòa. Riêng Thị N1 đơn xin vắng mặt tại phiên tòa
ngày 22/7/2025.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện ngày 17/5/2024 đơn kiện bổ sung đề ngày
22/11/2024 ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn
thủy sản Nguyễn Thành N trình bày: Ông chủ hộ kinh doanh mua, bán mặt
hàng thức ăn thủy sản. Ông quen biết với anh Trần Văn Q (Q1) do gia đình
anh Q nuôi tra thành phẩm. Anh Q liên hệ ông mua thức ăn thủy sản để
nuôi nhiều lần. Khi mua bán thì anh Q bàn bạc với ông tạm thời mua
thức ăn thiếu đến khi thu hoạch bán sthanh toán nợ cho ông. chỗ làm
ăn thân quen nên ông đã đồng ý cho anh Q mua thiếu. Các khoản thức ăn thủy
sản anh Q đã nhận và khoản tiền đã nợ như sau:
+ Ngày 09/8/2019 S giao 07 tấn thức ăn thủy sản loại 1,5 li hiệu Da chan,
trả trước một phần, nợ lại số tiền 32.500.000 đồng;
+ Ngày 23/8/2019 S giao 2,5 tấn thức ăn thủy sản loại 1li, hiệu Dachan, s
tiền nợ là 43.000.000 đồng;
3
+ Ngày 16/9/2019 S giao 07 tấn thức ăn thủy sản (02 tấn loại 1,5li và 05
tấn loại 02 li, cùng hiệu Dachan), số tiền nợ là 102.500.000 đồng;
+ Ngày 31/10/2019, S giao 02 xe tổng cộng 15 tấn thức ăn thủy sản,
loại 02 li, hiệu Long Thang, số tiền nợ là 222.500.000 đồng;
+ Ngày 10/11/2019 S giao 01 tấn thức ăn thủy sản, loại 1,5li, hiệu
Dachan, số tiền nợ là 17.200.000 đồng;
+ Ngày 11/11/2019, S giao 09 tấn thức ăn thủy sản, loại 02 li, hiệu Long
Thang, số tiền nợ là 133.200.000 đồng;
+ Ngày 12/11/2019, S giao 10 tấn thức ăn thủy sản, loại 02 li, hiệu Long
Thang, số tiền nợ là 148.000.000 đồng;
Tổng cộng số lượng thức ăn thủy sản S đã giao 51,5 tấn, thành tiền
698.400.000 đồng, ông đã đưa cho anh Q biên bản chốt nợ ngày 19/12/2019
với số tiền này. Sau đó, ngày 01/01/2022 anh Q trả được số tiền 70.000.000
đồng nên số tiền mua thức ăn thủy sản anh Q còn nợ gốc 628.400.000 đồng.
Anh Q hứa bán cá xong sẽ trả đủ hứa nhiều lần nhưng không trả.
Khi anh Trần Văn Q (tên thường gọi Q1) mua thức ăn thủy sản thì anh
Q (Q1) điện thoại cho ông, sau khi anh Q đặt hàng xong thì ông liên hvới
Công ty để mua hàng. Lúc nào hàng, nhân viên Công ty Đ1 cho tài xế xe tên
S mà ông thuê chở hàng đến ấp T, T giao cho anh Trần Văn Q (Quấn). Khi S
giao hàng xong thì cho người nhận hàng tên. Sau khi S báo với ông đã
giao hàng xong thì ông điện thoại cho anh Q để xác nhận lại xem anh Q
nhận đủ hàng chưa. Anh Q (Q1) cũng xác nhận đã nhận đủ. Đối với biên bản
chốt nợ ngày 19/12/2019 chữ Trần Văn Q1 thì ông xác định ông đưa
biên bản này trực tiếp cho anh Q1, còn việc anh Q1 có trực tiếp ký hay không t
thật tình ông không rõ (lý do khi các bên đối chiếu nợ, trong thời gian chờ anh Q
kiểm tra từng mốc thời gian số lượng hàng trong biên bản chốt nợ thì ông đi
vệ sinh, khi đi vệ sinh vào thì thấy biên bản chốt nợ đã ký và anh Q đưa biên bản
chốt nợ cho ông nên ông nghĩ anh Q đã ký, không biết sự việc anh P đã
dùm cho anh Q). Ông không yêu cầu giám định chữ trong biên bản chốt nợ
năm 2019 các phiếu giao hàng anh P đã thừa nhận do anh P tên (riêng
phiếu giao hàng ngày 31/10/2019 đối với 07 tấn thì anh Q thừa nhận anh Q ký).
Thời điểm năm 2019 thì ông chỉ làm ăn với anh Q (Quấn), không làm ăn
với ông Huỳnh Văn P. Sau khi chốt nợ với anh Q1 ngày 19/12/2019 thì anh Q1
mới giới thiệu anh P cho ông để anh P mua thiếu thức ăn thủy sản của ông, anh
4
Q năn nỉ ông bán cho anh rể anh Q anh Huỳnh Văn P vợ Trần Thị L
để thúc gần bán, anh Q1 nói ông tiếp bán cho anh P vài xe thức ăn, bán
xong sẽ trả. Khi ông P bán xong thì không trả tiền cho ông nên ông đã kiện
anh P và được hòa giải thành theo biên bản chốt nợ năm 2020.
Riêng khoản nnăm 2019 của anh Trần Văn Q (Quấn), sau khi chốt nợ
ngày 19/12/2019 thì đến ngày 01/01/2022 anh Q (Q1) trả cho ông số tiền
70.000.000 đồng, khi trả thì không làm biên nhận mà ông chỉ viết vào phía dưới
của biên bản chốt nợ ngày 19/12/2019 là trả 70.000.000 đồng còn nợ lại
628.400.000 đồng. Ông khẳng định nợ này của ông Q nhưng nay ông Q1
ông P cho rằng chữ trong biên nhận ngày 19/12/2019 của P nhưng ông
khẳng định nợ là của ông Q (Quấn). Do đó, ông yêu cầu các bị đơn gồm anh
Trần Văn Q (Quấn), chị Thị Đ (vợ anh Q) ông Huỳnh Văn P cùng liên
đới trả tiền mua thức ăn thủy sản còn nợ của cửa hàng ông gốc 628.400.000
đồng và tiền lãi 243.308.000 đồng. Tổng cộng gốc lãi 871.708.000đồng. Ông
không yêu cầu vợ ông P L liên đới trả nợ. Ngoài ra, ông không yêu cầu
thêm. Theo bảng kê ngày 28/3/2025 mà nguyên đơn cung cấp thể hiện số tiền nợ
gốc 698.400.000 đồng số tiền lãi 209.351.000 đồng tính từ thời điểm chốt
nợ 19/12/2019 đến ngày 17/5/2024 theo mức lãi suất 0,8%/tháng/1.000.000
đồng. Tổng cộng gốc và lãi 907.751.000 đồng.
Tại phiên tòa, nguyên đơn thống nhất trừ số tiền trả 70.000.000 đồng ngày
01/01/2022 vào số tiền gốc. Nay chỉ yêu cầu số tiền nợ gốc 628.400.000 đồng và
số tiền lãi 221.600.000 đồng tính từ thời điểm chốt nợ 19/12/2019 đến ngày
17/5/2024 theo mức lãi suất 0,8%/tháng/1.000.000 đồng (chia thành 02 khớp lãi,
từ ngày 19/12/2019 đến ngày 01/01/2022 tiền lãi 128.505.600 đồng trên số
tiền gốc 698.400.000 đồng; khớp lãi thứ 2 từ sau ngày 01/01/2022 đến ngày
17/5/2024 làm tròn 17 tháng trên số tiền gốc 628.400.000 đồng với số tiền lãi
135.734.400 đồng. Tổng cộng 02 khớp lãi 264.240.000 đồng nhưng ông N
thống nhất chỉ lấy tiền lãi là 221.600.000 đồng). Tổng cộng gốc và lãi là
850.000.000 đồng (tám trăm năm mươi triệu đồng).
- Bị đơn anh Trần Văn Q (Q1) trình bày: Anh tên là Trần Văn Q tên
thường gọi Q1, anh em vcủa anh Huỳnh Văn P. Đối với yêu cầu khởi
kiện của ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản
Nguyễn Thành N thì anh không đồng ý các do sau: Số tiền mua thức ăn
thủy sản ông N kiện gốc 628.400.000 đồng tiền lãi 243.308.000 đồng.
Tổng cộng gốc và lãi 871.708.000 đồng là số tiền của anh Huỳnh Văn P nợ ông
N, không liên quan vợ chồng anh. Vào năm 2019 anh mua thức ăn thủy sản
5
của ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh- mua bán thức ăn thủy sản
Nguyễn Thành N ông N hầm nuôi gần hầm của anh. Anh chỉ mua
thức ăn thủy sản của ông N 01 lần duy nhất mua trả tiền mặt. Tài xế S
người giao thức ăn thủy sản của ông N cho anh, khi giao tại hầm nuôi cá của
anh khi giao tại nhà anh. Trong các phiếu giao hàng ông N khởi kiện thì
anh chỉ tên vào phiếu giao hàng ngày 31/10/2019 chữ của anh đối với
số lượng 07 tấn (280 bao), số tiền mua thức ăn đối với 7 tấn này thì anh đã trả
cho ông N xong. Các phiếu giao hàng còn lại và biên bản chốt nợ ngày
19/12/2019 do anh P tên Q1 ghi họ tên Trần Văn Q1, anh P cũng thừa
nhận do anh P nên anh không yêu cầu giám định. Trước đây, ông N đến
gặp anh năn nỉ anh trả tiếp anh P ½ số tiền nhưng anh không đồng ý vì số nợ này
không liên quan anh, càng không liên quan vợ anh Thị Đ, sinh năm 1986
nên không đồng ý đưa vợ anh vào tham gia tố tụng. Nay đối với yêu cầu khởi
kiện của ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản
Nguyễn Thành N thì anh không đồng ý.
Tại phiên tòa, anh Q giữ nguyên ý kiến đã trình bày, không yêu cầu giám
định chữ ký, chữ viết trong biên bản chốt nợ ngày 19/12/2019 các phiếu giao
hàng năm 2019 mà nguyên đơn cung cấp. Anh Q không đồng ý việc nguyên đơn
yêu cầu vchồng anh liên đới trả nợ. Anh Q xác định anh người giới thiu
anh P mua thức ăn thủy sản của ông N năm 2019 nên nợ trong biên bản chốt nợ
năm 2019 nợ của anh P, không liên quan vợ chồng anh. Anh Q thừa nhận
trả số tiền 70.000.000 đồng cho ông N đối với số lượng 07 tấn thức ăn thủy sản
theo phiếu giao hàng ngày 31/10/2019, việc trả tiền không làm giấy tờ. Đối với
việc nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa với số tiền gốc lãi
tổng cộng 850.000.000 đồng thì anh không ý kiến anh cho rằng số nợ này
nợ của anh Huỳnh Văn P. Anh Q thừa nhận Trần ThT, ông Trần Văn T1
anh (Trần Văn Q) anh em ruột với là Trần Thị L (vanh P), còn anh
Nguyễn Văn B là anh rể của chị Trần Thị L.
- Bị đơn chị Võ Thị Đ không có văn bản ý kiến, không đến Tòa án.
- Bị đơn anh Huỳnh Thanh P1 trình bày: Anh tên là Huỳnh Văn P
không phải Huỳnh Thanh P1 như đơn kiện của ông N. Còn Trần Văn Q (tên
thường gọi Q1). Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N thì
anh có ý kiến: Số tiền mua thức ăn thủy sản còn nợ gốc 628.400.000đồng và tiền
lãi 243.308.000đồng. Tổng cộng gốc lãi 871.708.000đồng (tám trăm bảy
mươi mốt triệu, bảy trăm lẻ tám nghìn đồng) ông N kiện tiền của anh nợ,
6
không liên quan vợ chồng Trần Văn Q (Quấn). Cụ thể như sau: Vào năm 2019
anh mua thức ăn thủy sản của ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh
mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N vì ông N có hầm nuôi cá gần hầm cá
của anh nên ông N và anhthỏa thuận ông N sẽ bán thức ăn cho anh không có
lãi, việc thỏa thuận không có lãi chỉ nói miệng. Anh biết ông N thông qua em vợ
anh là Trần Văn Q (Quấn) vì Q cũng nuôi cá gần hầm của ông N, Q mua thức ăn
của ông N trước nhưng mua trả tiền mặt. Sau đó, Q giới thiệu anh mua thức ăn
thủy sản thiếu của ông N. Người giao thức ăn thủy sản của ông N nhiều
người giao, anh chỉ biết S, khi S giao hàng tanh người trực tiếp ký, đối với
phiếu giao hàng ngày 31/10/2019 đối với 07 tấn thức ăn (280) tQ Q đã
trả tiền xong, không còn nợ ông N.
Trước đây, ông N từng khởi kiện anh một lần, đã được Tòa án giải quyết
bằng quyết định hòa giải thành anh nghĩa vụ trả nợ cho ông N số tiền
khoảng hơn sáu trăm triệu theo biên bản chốt nợ năm 2020, các phiếu giao hàng
năm 2020 có chữ ký và ghi họ tên Huỳnh Văn P là do anh ký và ghi họ tên. Thời
điểm thi hành án thì bán đất ruộng của vợ chồng anh (đất thế chấp cho Ngân
hàng V), khi thỏa thuận thi hành án thì Ngân hàng thống nhất thỏa thuận bán
tài sản thế chấp cho bà Thị H, địa chỉ ấp D, T, huyện T, tỉnh Đồng Tháp
với số tiền bao nhiêu không nhớ. Sau khi bán thì trả cho ông N 500.000.000
đồng (phần còn lại hơn một trăm triệu đồng thì ông N cho anh nên không yêu
cầu thi hành án nữa), số tiền bán đất còn dư lại thì trả cho Ngân hàng. Đối với s
tiền 698.400.000 đồng thì ông N muốn chuyển sang cho em vợ anh Trần Văn
Q (Quấn) nhưng anh và Q không đồng ý vì Q mua thức ăn trả tiền mặt, không có
nợ ông N, số tiền này tiền anh nợ ông N nhưng do ông N thấy anh bễ nợ,
nhiều người kiện, không còn tài sản, còn Q tài sản đất ruộng nên ông N
muốn Q trả nhưng Q không liên quan. Do anh nuôi cá lỗ, không có khả năng trả
nợ được, anh cũng năn nỉ nhiều lần nhưng ông N không đồng ý. Đối với yêu cầu
khởi kiện của ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy
sản Nguyễn Thành N trong quá trình giải quyết vụ án thì anh đồng ý trả số tiền
mua thức ăn thủy sản còn nợ gốc 628.400.000đồng và tiền lãi 243.308.000 đồng.
Tổng cộng gốc và lãi 871.708.000 đồng.
Tại phiên tòa, anh Huỳnh Văn P giữ nguyên ý kiến đã trình bày nêu trên.
Đối với thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành N - Chủ
hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N về việc chỉ yêu cầu
số tiền 628.400.000 đồng số tiền lãi 221.600.000 đồng. Tổng cộng gốc lãi
850.000.000 đồng thì anh thống nhất và đồng ý một mình anh trả số tiền này
7
cho nguyên đơn. Anh khẳng định số nợ này không liên quan vợ chồng Trần Văn
Q (Q1), không liên quan vợ anh Trần Thị L. Anh P cho rằng biên bản chốt nợ
ngày 19/12/2019 anh tên Q1 ghi tên Trần Văn Q1 do anh nhầm lẫn nên
anh không yêu cầu giám định chữ chữ viết trong biên bản chốt nợ ngày
19/12/2019 cũng ncác phiếu giao hàng năm 2019. Anh P thừa nhận Trần
Thị T, bà Trần Thị T, ông Trần Văn T1 là anh em ruột với vợ anh là Trần Thị L,
còn anh Nguyễn Văn B là anh rể của chị Trần Thị L.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Thị N1 (vợ ông N)
trình bày: Sự việc mua bán thức ăn thủy sản giữa chồng và anh Q, anh P thì
chỉ có chồng bà biết rõ. Việc anh Q và anh P cho rằng khi chồng bà là ông N đối
chiếu nợ với anh P mặt hoàn toàn không đúng. Thời điểm đối chiếu nợ
giữa chồng bà và anh Q năm 2019 thì bà không có mặt. Chữ P + Q trên đầu giấy
chốt nợ ngày 19/12/2019 do viết để làm dấu P Q anh em cho dễ
nhớ chớ thực tế số nợ này là của anh Trần Văn Q (Quấn), không phải nợ của anh
P vì anh P mua thức ăn thủy sản của chồng bà từ năm 2020, còn Q1 thì mua năm
2019. Nếu vợ chồng bà gian dối thì anh P thừa nhận nợ, vợ chồng đã đồng ý
chớ dại dột cứ đeo vụ kiện đối với Q. Do vợ chồng muốn sự thật
ràng, nợ của Q thì Q phải thừa nhận chớ không thể đẩy sang cho P. Các nội
dung trên bà trình bày là hoàn toàn đúng sự thật. Bà bận công việc nên xin được
vắng mặt từ nay đến khi giải quyết vụ án.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn S trình bày:
Anh Q (Q1), chị Đ, anh P là ai thì anh không biết. Anh chỉ biết là trước đây ông
Nguyễn Thành N xã T, thành phố H thuê anh lên Long An để nhận thức ăn
thủy sản cho ông N, nhận hàng xong thì ông N có đưa cho anh số điện thoại, anh
sẽ điện thoại và giao hàng. Làm việc toàn bộ qua điện thoại. Ông N thuê anh chở
hàng đến nhiều nơi, khi T, khi Hồng N2. Anh chỉ người chở hàng thuê
cho ông N. Anh không con, dòng họ hay bàn bè với anh Q, chị Đ hay anh
P. Anh S xác định năm 2019, năm 2020 có chở thuê thức ăn thủy sản cho ông N
đến giao tại ấp T, xã T, huyện T, khi ông N điện thoại thì anh đến Công ty lấy
hàng chở hàng đến ấp T, T, huyện T đgiao hàng, ông N đưa số điện
thoại của người nhận hàng để anh điện thoại xem giao hàng đâu, người nhận
hàng kiểm tra đủ số lượng thì ký vào phiếu sau phiếu giao hàng (mặt trước sẽ có
chữ của anh nhận hàng từ Công ty, mặt sau sẽ chcủa người anh
đã giao hàng), còn người nhận hàng phải anh Q hay không thì anh
không , anh cũng không nhớ mặt anh Q với anh P nên nếu đanh gặp để
đối chất với anh Q, anh P thì anh cũng không nhớ do thời gian lâu. Anh S ng
8
không nhớ bắt đầu giao thức ăn thủy sản cho anh Huỳnh Văn P năm 2019 hay
năm 2020. Sau khi người nhận hàng nhận xong thì anh đem phiếu hàng giao
lại cho ông N để ông N ghi vào sổ, ông N điện thoại người nhận hàng để kiểm
tra, nếu xác nhận đã nhận hàng thì ông N thanh toán tiền xe cho anh. Anh xác
định giao hàng đúng như các phiếu giao hàng ông N kiện Tòa án
cho anh tiếp cận, còn người nhận hàng phải anh Q hay không thì anh
không rõ, nhiệm vụ anh chxe thuê, giao xong thì nhận tiền nên anh không
còn trách nhiệm gì. Do bận công việc nên anh xin được vắng mặt.
Tại bản án dân sự thẩm số 08/2025/DS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2025
của Toà án nhân dân huyện Tân Hồng đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Thành N - Ch
hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N.
Buộc các bị đơn anh Trần Văn Q (Q1), chị Võ Thị Đanh Huỳnh Văn P
cùng liên đới trả cho ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức
ăn thủy sản Nguyễn Thành N số tiền mua thức ăn thủy sản còn nợ gốc
628.400.000 đồng (sáu trăm hai ơi tám triệu, bốn trăm nghìn đồng) và số tiền
lãi 221.600.000 đồng (hai trăm hai mươi mốt triệu, sáu trăm nghìn đồng) tính t
thời điểm chốt nợ 19/12/2019 đến ngày 17/5/2024 theo mức lãi suất
0,8%/tháng/1.000.000 đồng. Tổng cộng gốc lãi 850.000.000 đồng (tám
trăm m mươi triệu đồng). Ngoài số tiền này thì các bị đơn không còn n
nguyên đơn số tiền nào khác.
Kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2025 cho đến khi thi hành án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
Về án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ
kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N không phải chịu tiền án
phí được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 19.076.000đồng (mười chín
triệu, không trăm bảy mươi sáu nghìn đồng) theo biên lai thu số 0010057 ngày
22/5/2024;
Buộc các bị đơn anh Trần Văn Q (Q1), chị Võ Thị Đanh Huỳnh Văn P
cùng liên đới chịu tiền án phí dân sự thẩm 37.500.000 đồng (ba mươi bảy
triệu, năm trăm nghìn đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự.
9
Ngày 11/4/2025 anh Trần Văn Q chị Thị Đ kháng cáo yêu cầu a
án cấp phúc thẩm sửa Bản án dân sự thẩm theo hướng anh Q chị Đ không
trách nhiệm liên đới cùng anh P trả số tiền mua thức ăn thủy sản gốc lãi
cho ông N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N.
Ngày 11/4/2025 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng có
quyết định kháng nghị số 02/QĐ-KS-DS đnghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử
theo hướng sửa toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm.
Ti phiên tòa phúc thm:
Anh Trần Văn Q và chị Võ Thị Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Ông Nguyễn Thành N không đồng ý theo yêu cầu kháng cáo của anh Trần
Văn Q chị Thị Đ. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án dân sự
thẩm.
Đại din Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp thay đổi một phần
quyết định kháng nghị số 02/QĐ-KS-DS ngày 11/4/2025 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng chỉ sửa một phần bản dân sự án thẩm s:
08/2025/DS-ST ngày 31/3/2025 ca Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh
Đồng Tháp nay Tòa án nhân dân Khu vực 12- Đồng Tháp theo hướng không
buộc liên đới anh Trần Văn Q chị Thị Đ cùng anh Huỳnh Văn P trả số
tiền mua thức ăn thủy sản gốc lãi cho ông N - Chủ hộ kinh doanh mua bán
thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N.
Đại din Vin Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu ý kiến:
V vic tuân theo pháp lut t tng
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Thẩm phán đã thực
hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm
pháp luật tkhi thụ giải quyết vụ việc đxét xử phúc thẩm đến trước thời
điểm nghị án.
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư
ký phiên tòa:
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định
Bộ luật Tố tụng dân sự về trình tự xét xử phúc thẩm.
Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:
Người tham gia tố tụng đã thực hiện quyền nghĩa vụ đúng theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự.
10
V vic gii quyết v án:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm s: 08/2025/DS-ST ngày
31/3/2025 ca Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp nay Tòa án
nhân dân Khu vực 12- Đồng Tháp;
- Chấp nhận kháng cáo của anh Trần Văn Q và chị Võ Thị Đ;
- Chấp nhận kháng nghị số 02/-VKS-DS ngày 11 tháng 4 năm 2025
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng sau khi đi din Vin
Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp thay đổi một phần quyết định kháng nghị số
02/QĐ-KS-DS ngày 11/4/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
Tân Hồng chỉ sửa một phần bản dân sự án thẩm s: 08/2025/DS-ST ngày
31/3/2025 ca Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp nay Tòa án
nhân dân Khu vực 12- Đồng Tháp theo hướng không buộc liên đới anh Trần
Văn Q và chị Thị Đ cùng anh Huỳnh Văn P trả số tiền mua thức ăn thủy sản
gốc lãi 850.000.000 đồng cho ông N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn
thủy sản Nguyễn Thành N.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án được xem
xét tại phiên toà và lời phát biu ca kim sát viên tại phiên toà, Hội đồng xét xử
nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Anh Trần Văn Q chị Võ Thị Đ bị đơn kháng cáo; Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng kháng nghị trong hạn luật định. Do đó, Tòa
án cấp phúc thẩm thụ xét xử theo trình tự phúc thẩm đúng với Điều 273,
280, 293 Bộ luật tố dân sự năm 2015.
[2]. Anh Trần Văn Q chị Thị Đ yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa
bản án dân sự sơ thẩm theo hướng anh Q và chị Đ không có trách nhiệm liên đới
cùng anh P trả số tiền mua thức ăn thủy sản gốc và lãi cho ông N - Chủ hộ kinh
doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N.
Hội đồng xét xxét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm ông N trình bày ông
bán thức ăn cho anh Q chứ không phải bán thức ăn cho anh P. Khi giao thức ăn
ông Phạm Văn S đi giao, ông cũng không biết ai người nhận thức ăn,
nhưng khi giao thức ăn vông S đưa phiếu giao hàng cho N1 (vợ ông N) thì
11
N1 trả tiền xe cho ông S. Khi chốt nợ ông đem biên bản chốt nợ đến nhà anh
Q anh Q kêu anh P đến, ông để biên bản chốt nợ trên bàn đi tiểu, khi
tiểu xong vô thì biên bản chốt nợ đã ký Quấn (Q) và ghi họ tên Trần Văn Q1 nên
ông cầm về. Đến khi khởi kiện ra Tòa thì anh P thừa nhận chữ Q1 ghi họ
tên Trần Văn Q1 anh P ghi, lúc này ông mới biết anh P tên nên ông N
yêu cầu anh Q, Đ (vợ Q) và P cùng liên đới trả nợ. Ông N không yêu cầu Tòa án
giám định chữ ký tên Q1. Ông N khẳng định anh Q anh P mua thức ăn của
ông N mua độc lập việc bán thức ăn cũng bán độc lập, không bán chung
cho anh Q và anh P.
Anh Q không thừa nhận có liên quan đến số nợ trong biên nhận nợ này, vì
anh Q không biết không tên trong biên nhận, đến năm 2023 khi ông N
kiện anh Q chị Đ thì anh Q mới biết biên nhận này. Anh Q chỉ thừa nhận
01 lần mua thức ăn thuỷ sản của ông N, vào phiếu giao hàng ngày
31/10/2019 đối với số lượng 07 tấn (280 bao) tương đương 103.600.000 đồng và
đã trả cho ông N 70.000.000đồng. Ông Phạm Văn S lời khai trong hồ sơ:
Ông S không biết anh P, anh Q, chị Đ ai, trước đây ông lên Long An để
nhận thức ăn thủy sản cho ông N, nhận hàng xong thì ông N đưa cho anh số
điện thoại, anh sẽ điện thoại và giao hàng. Làm việc toàn bộ qua điện thoại. Ông
S xác định năm 2019, năm 2020 chở thuê thức ăn thủy sản cho ông N đến
giao tại ấp T, T, huyện T, khi ông N điện thoại thì ông đến Công ty lấy hàng
chở hàng đến ấp T, T, huyện T để giao hàng, ông N đưa số điện thoại
của người nhận hàng đanh điện thoại xem giao hàng đâu, người nhận hàng
kiểm tra đủ số lượng thì vào phiếu sau phiếu giao hàng (mặt trước sẽ chữ
của anh nhận hàng từ Công ty, mặt sau sẽ chữ của người anh đã
giao hàng), còn người nhận hàng phải là anh Q hay không thì ông không
rõ. Anh Huỳnh Văn P, thừa nhận mua thức ăn thuỷ sản và tên vào biên
nhận chốt nợ ngày 19/12/2019, đồng ý một mình trả số tiền mua bán thức ăn còn
thiếu và lãi theo yêu cầu của ông N.
Xét thấy lời khai của anh Q phù hợp với lời khai của anh P, ông S phù
hợp với các biên nhận mà ông N cung cấp. Ngoài ra, tại giai đoạn phúc thẩm
ông N cũng không cung cấp được chứng cứ mới chứng minh có giao cho anh
Q chị Đ số lượng 44,5 tấn thức ăn thuỷ sản (51,5 tấn trừ 07 tấn Q thừa nhận)
tương đương 628.400.000 đồng.
Từ những nhận định nêu trên xét thấy kháng cáo của anh Q chị Đ
căn cứ nên chấp nhận.
[3]. Như nhận định trên xét thấy quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKS-
12
DS ngày 11/4/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng
sau khi đại din Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp thay đổi một phần
quyết định kháng nghị số 02/QĐ-KS-DS ngày 11/4/2025 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng chỉ sửa một phần bản dân sự án thẩm s:
08/2025/DS-ST ngày 31/3/2025 ca Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh
Đồng Tháp nay Tòa án nhân dân Khu vực 12- Đồng Tháp theo hướng không
buộc liên đới anh Trần Văn Q chị Thị Đ cùng anh Huỳnh Văn P trả số
tiền mua thức ăn thủy sản gốc và lãi 850.000.000 đồng cho ông N - Chủ hộ kinh
doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N là có căn cứ nên chấp nhận.
[4]. Do chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Q, chị Đ; chấp nhận quyết
định kháng nghị số 02/QĐ-VKS-DS ngày 11/4/2025 của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân huyện Tân Hồng nên sửa bản án dân sự sơ thẩm số 08/2025/DS-ST
ngày 31/3/2025 ca Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp. Do sửa
án nên sửa án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
[5]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề nghị Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Sửa một phần
bản án dân sự thẩm s: 08/2025/DS-ST ngày 31/3/2025 ca Tòa án nhân dân
huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp; Chấp nhận kháng nghị số 02/QĐ-VKS-DS
ngày 11 tháng 4 năm 2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân
Hồng; Chấp nhận kháng cáo của anh Trần Văn Q chị Thị Đ căn cứ
phù hợp pháp luật nên chấp nhận như nhận định trên.
[6]. V án phí dân s phúc thẩm: Do chấp nhận yêu cầu kháng cáo của
anh Q, chị Đ nên anh Q, chị Đ không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo
quy định pháp luật.
[7] Các phn khác ca bn án dân s thẩm s: 08/2025/DS-ST ngày
31/3/2025 ca Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp nay Tòa án
nhân dân khu vực 12- Đồng Tháp không kháng cáo, kháng ngh có hiu lc
pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 ca Ủy Ban T2 quy định về án
phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
13
1. Chp nhn yêu cu kháng cáo ca anh Trần Văn Q và chị Võ Thị Đ.
2. Chấp nhận kháng nghị số 02/QĐ-VKS-DS ngày 11 tháng 4 năm 2025
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hồng.
3. Sửa một phần bản án dân s sơ thẩm s 08/2025/DS-ST ngày
31/3/2025 ca Tòa án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đng Tháp nay là Tòa án
nhân dân khu vực 12- Đồng Tháp.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn
Thành N - Chủ hộ kinh doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N.
Buộc anh Huỳnh Văn P trả cho ông Nguyễn Thành N - Chủ hộ kinh
doanh mua bán thức ăn thủy sản Nguyễn Thành N stiền mua thức ăn thủy sản
còn nợ gốc 628.400.000 đồng số tiền lãi 221.600.000 đồng tính từ thời
điểm chốt nợ 19/12/2019 đến ngày 17/5/2024 theo mức lãi suất
0,8%/tháng/1.000.000 đồng. Tổng cộng gốc lãi 850.000.000 đồng (tám
trăm năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2025 cho đến khi thi hành án xong, bên phải
thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo
mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự m 2015.
Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Nguyễn Thành N - Chủ hkinh doanh mua bán thức ăn
thủy sản Nguyễn Thành N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự thẩm
nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 19.076.000 đồng (mười chín
triệu, không trăm bảy mươi sáu nghìn đồng) theo biên lai thu số 0010057 ngày
22/5/2024 của Chi cục Thi hành án huyện Tân Hồng (nay Phòng Thi hành án
dân sự Khu vực 12). Ông N được nhận lại 18.776.000 đồng;
Anh Huỳnh Văn P phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm 37.500.000
đồng (ba mươi bảy triệu, năm trăm nghìn đồng).
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Anh Trần Văn Q, chị Thị Đ không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho anh Trần Văn Q, chị Thị Đ
600.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án
phí s 0005036 ngày 14/4/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân
Hồng (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 12).
5. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 Luật Thi hành án dân sự sửa đi, b sung năm 2014 thì người được thi
14
hành án, người phải thi hành án quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu
thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định
tại các Điều 6, 7, 7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, b sung năm
2014; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi b sung năm 2014.
6. Các phn khác ca bn án dân s sơ thẩm s 08/2025/DS-ST ngày 31
tháng 3 năm 2025 của Toà án nhân dân huyện Tân Hồng, tỉnh Đồng Tháp nay là
Tòa án nhân dân khu vực 12- Đồng Tháp không có kháng cáo, kháng ngh có
hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Phòng TT-KT và THA TAT;
- VKSND Tỉnh;
- TAND Khu vực 12;
- THADS Tỉnh;
- Đương sự;
- Lưu: VT, HSVA, TDS (Trang).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký tên đóng dấu
Lê Hng Nưc
Tải về
Bản án số 455/2025/DS-PT Bản án số 455/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 455/2025/DS-PT Bản án số 455/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất