Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 16/06/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 144/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 16/06/2025 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Định
Số hiệu: 144/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Y án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH ĐỊNH
Bản án số: 114 /2025/DS-PT
Ngày 16 - 6 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán
căn hộ, hợp đồng thuê và quản lý
căn hộ, hợp đồng tín dụng, yêu cầu
bồi thường thiệt hại
CNG HÒA XÃ HỘI CHNGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hi đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Thị Thắm
Các Thẩm phán: Ông Lê Văn Duy
Ông Võ Công Phương
- T ký phiên a: Bà Nguyn ThTy Nga là Thư ký Tòa án nn dân
tỉnh Bình Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa:
Nguyễn Th Tú Oanh - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét
xử phúc thẩmng khai vụ án thụ lý số 35/2025/TLPT-DS ngày 20 tháng 3 năm
2025 về việc tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ, hợp đồng thuê quản lý
căn hộ, hợp đồng tín dụng, yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Do Bản án dân sự thẩm số 08/2025/DS -ST ngày 07 tháng 01 năm
2025 của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử số: 86/2025/QĐ-PT ngày 08 tháng
05 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hồ Văn Quốc H, sinh ngày 01/01/1979; qquán:
tỉnh Thừa Thiên Huế; số căn cước công dân: 082079000087; địa chỉ liên hệ: 13-
10-01 T, chung H, sB đường C, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí
Minh. (Vắng mặt)
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Hoàng Minh T, sinh năm
1978; quê quán: tỉnh Hải Dương; s căn cước công dân số 030078020043; cư trú
tại: Số D đường T (Hẻm D L), phường T, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh
người đại diện theo ủy quyền của ông Hồ Văn Quốc H (văn bản ủy quyền ngày
13/10/2020) (Vắng mặt)
- Bị đơn: Công ty Cổ phần T6
2
Địa chỉ trụ sở: Tầng E, Tòa nhà F, đường L, phường M, quận N, Thành
phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Văn H1 ông Nguyễn
Minh Đ; địa chỉ liên hệ: Tầng E, Tòa nhà F, đường L, phường M, quận N,
Thành phố Nội người đại diện theo ủy quyền của Bùi Hải H2 Tổng
Giám đốc. (Văn bản ủy quyền ngày 07/01/2025) (Vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty cổ phần T6 và RESORT;
Địa chỉ trụ sở: Khu phố D, khu D - C, xã N, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyễn Thị T1 Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật. Người đại diện
theo ủy quyền: Ông Hoàng Duy T2 Phó Giám đốc (văn bản ủy quyền ngày
17/6/2024); y quyền lại: Đinh Hồng H3; địa chỉ liên hệ: Tầng C, khu V,
đường L, phường M, quận N, Thành phố Nội (Văn bản ủy quyền ngày
05/12/2024) (Vắng mặt)
2. Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (P1)
Địa chỉ trụ sở: Số B đường N, phường T, quận H, Thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông
Nguyễn Đình L Chủ tịch Hội đồng quản trị, người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Hoàng Trung N Phó Giám đốc
Khối Quản T3 cấu trúc; ủy quyền lại: Các ông Trương Văn T4, Nguyễn
Tuấn M Nguyễn Khoa A; địa chỉ liên hệ: Số B đường L, Phường A, Quận C,
Thành phố Hồ C Minh (Văn bản ủy quyền ngày 20/12/2024) (Vắng mặt)
3. Ngân hàng Thương mại cổ phần P2 (O)
Địa chỉ trụ sở: Tầng B tòa nhà T (T, 1 13, khu chức năng số A - Khu
đô thị M), số A đường T, khu phố C, phường T, thành phố T, Thành phố Hồ Chí
Minh.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông
Trịnh Văn T5 Chủ tịch Hội đồng quản trị, người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện theo ủy quyền: Các ông Nguyễn Văn L1, Nguyễn Văn N1
Nguyễn Tấn P; địa chỉ liên hệ: Tầng B, Tòa nhà T (T, 1 13, khu chức năng
số A - Khu đô thị M), số A đường T, khu phố C, phường T, thành phố T, Thành
phố Hồ Chí Minh. (Văn bản ủy quyền ngày 25/12/2023) (Vắng mặt)
4. Ngô Tăng Kim L2, sinh ngày 05/12/1982; quê quán: Trung Quốc;
số căn cước công dân: 079182000765; nơi trú: C chung T, Phường A,
Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)
- Người kháng cáo: Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Công ty cổ phần T6 và RESORT; Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (P1).
3
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Hồ Văn Quốc H người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn ông Hoàng Minh T thống nhất trình bày:
Ngày 31/7/2018, ông Hồ Văn Quốc H Hợp đồng mua bán căn hộ số
25B12A/2018/HĐMBCH-THECOASTALHILL (viết tắt Hợp đồng mua bán
căn hộ số 25B12A) với Công ty Cổ phần T6 (viết tắt là T6) mua căn hộ số 12A,
tầng E, Z, diện tích 40m
2
thuộc Dự án Khu đô thị S tại Khu K, N, thành phố
Q, tỉnh Bình Định (viết tắt là căn hộ số B) với giá chưa bao gồm kinh phí bảo trì
phần shữu chung 2.095.400.000 đồng ã bao gồm VAT). Theo Điều 8.2
của Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A, thời điểm bàn giao căn hộ dự kiến
vào quý 4/2018, thể được gia hạn tối đa 02 lần, mỗi lần không quá 45 ngày.
Ông H đã thanh toán được 95% giá bánn hộ với số tiền là 1.990.630.000 đồng
theo hóa đơn VAT điện tử số 0004830 ngày 08/6/2020 của T6. Do đã thanh toán
được 95% giá trị căn hộ nên ngày 08/01/2019, ông H được ký Hợp đồng thuê và
quản tài sản s 25B12A/2019/HĐTCH-THECOASTHILL (viết tắt Hợp
đồng thuê và quản lý tài sản số 25B12A) với ng ty Cổ phần T6 (viết tắt là T6)
để được hưởng tiền thuê mỗi năm; theo thỏa thuận giá nh tiền thuê
1.904.909.091 đồng. Giá thuê bên thuê phải trả cho ông H trong mọi trường
hợp sẽ không thấp hơn 10% giá tính tiền thuê/năm. Thực tế, ông H đã nhận tiền
thuê từ T6 tính từ lúc ký hợp đồng thuê đến hết ngày 31/6/2019. Từ đó đến nay,
ông H chưa nhận được tiền thuê của T6. Ngày 12/4/2018, ông H và vợ là bà Ngô
Tăng Kim L2 vay của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (viết tắt P1) với số
tiền 1.000.000.000 đồng, thời hạn 240 thángngân hàng đã giải ngân để thanh
toán cho chủ đầu tư theo đề nghị của vợ chồng ông H. Tài sản thế chấp là căn hộ
hình thành trong tương lai này được bảo đảm bằng bản chính Hợp đồng mua
bán căn hộ số 25B12A ông H kết với T6. Hiện nợ khoản vay trên
960.233.153 đồng.
Ông H thông báo việc đơn phương chấm dứt Hợp đồng mua bán căn
hộ số 25B12A với T6 vào ngày 28/9/2020 yêu cầu giải quyết việc chấm dứt
hợp đồng, trả lại tiền cũng như phạt vi phạm, bồi thường theo quy định tại các
Điều 4.2, Điều 8.2, Điều 12.2.2, Điều 15.3 của Hợp đồng mua bán căn hộ số
25B12A nhưng T6 lại nêu ra nhiều do, trong đó do khách quan là đại dịch
Covid để cố tình trì hoãn, tránh giải quyết. Nay ông H khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết:
- Chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A giữa ông H với T6.
- Buộc T6 thanh toán cho ông H các khoản tiền sau: Tiền mua căn hộ đã
thanh toán là 1.990.630.000 đồng; tiền phạt vi phạm hợp đồng 152.392.000
đồng; tiền lãi chậm bàn giao căn hộ 515.627.000 đồng; tổng cộng:
2.658.649.000 đồng.
4
Ngoài ra, ông H rút yêu cầu về bồi thường thiệt hại 190.000.000 đồng,
tương ứng 15% tiền cho thuê căn hộ tính từ ngày 01/7/2019 đến ngày 01/7/2020
căn cứ trên giá tính tiền thuê mà ông H chưa được nhận từ T6.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty Cổ phần T6 trình bày:
Ngày 31/7/2018, T6 và ông Hồ Văn Quốc H có ký kết Hợp đồng mua bán
căn hộ tại tầng 5B, Z, diện tích 40m
2
thuộc tổ hợp căn hộ khách sạn T6 thuộc dự
án khu đô thị D với giá bán căn hộ 2.059.400.000 đồng. Trong quá trình thực
hiện hợp đồng, do sự thay đổi của chính sách pháp luật liên quan đến việc
kinh doanh sản phẩm căn hộ khách sạn - Condotel đồng thời do ảnh hưởng nặng
nề của dịch bệnh C đã dẫn đến việc bàn giao căn hộ không thể diễn ra theo dự
kiến như trong hợp đồng đã ghi nhận.
Sau khi Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A, ông H đã kết Hợp
đồng thuê quản tài sản số 25B12A với T6. Theo đó, ông H đã đồng ý cho
T6 thuê lại căn hộ nêu trên và hưởng tiền thuê từ thời điểm ông H thanh toán đủ
95% giá bán căn hộ cho FLC theo hợp đồng mua bán căn hộ nêu trên. Thời hạn
thuê được kéo dài cho đến ngày cuối cùng của thời hạn hoạt động của Dự án.
FLC không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi lẽ:
- Việc chậm bàn giao căn hộ cho nguyên đơn do sự kiện bất khả kháng
như đã phân tích trên. Do đó, trường hợp này, căn cứ theo Điều 15.1 của Hợp
đồng mua bán căn hộ số 25B12A thì bị đơn không bị coi là vi phạm Hợp đồng.
FLC không đồng ý với yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu chấm dứt hợp
đồng và hoàn trả lại toàn bộ tiền mua căn hộ đã thanh toán.
- Về yêu cầu số tiền phạt 8% số tiền 168.000.000 đồng: Căn cứ Điều
12.4.3 của Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A Điều 1.2 Phụ lục 3 Hợp
đồng thì khi một bên vi phạm hợp đồng dẫn đến việc bên kia đơn phương chấm
dứt hợp đồng thì bên vi phạm phải thanh toán cho bên bị vi phạm khoản tiền
phạt 8% giá bán căn h(chưa bao gồm các khoản thuế phải nộp). Do đó, việc
nguyên đơn yêu cầu thanh toán số tiền 168.000.000 đồng là không trên cơ sở giá
bán căn hộ sau khi trừ 10% thuế VAT là không đúng với thỏa thuận của các bên
theo hợp đồng.
- Về yêu cầu T6 bồi thường thiệt hại số tiền 190.000.000 đồng tương ứng
10% tiền thuê căn h mà nguyên đơn chưa nhận được là không có căn cứ, bởi lẽ:
Đây không phải là thiệt hại thực tế, trực tiếp phát sinh từ việc chậm bàn giao căn
hộ của T6. Theo thông tin FLC được biết thì ngay sau khi ký Hợp đồng mua bán
căn hộ số 25B12A với T6 thanh toán 95% giá bán căn hộ thì nguyên đơn đã
Hợp đồng thuê quản lý tài sản số 25B12A với T6 hưởng tiền thuê từ
thời điểm ký Hợp đồng thuê quản lý tài sản với T6 không phụ thuộc vào
việc nguyên đơn đã được nhận bàn giao căn hộ hay chưa. Do đó, việc chưa nhận
bàn giao căn hộ tT6 không phát sinh thiệt hại thực tế đối với nguyên đơn. Về
yêu cầu thanh toán lãi chậm bàn giao tính đến ngày hợp đồng bàn giao căn hộ
5
do sự kiện bất khả kháng nên trong trường hợp này, FLC được miễn trách nhiệm
dân sự về việc thanh toán lãi chậm bàn giao.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Công ty Cổ phần T6 trình bày:
Ngày 08/01/2019, ông Hồ Văn Quốc HT6 đã ký kết Hợp đồng thuê và
quản tài sản số 25B12A. Theo đó, ông H đã đồng ý cho T6 thuê lại căn hộ
nêu trên và hưởng tiền thuê từ thời điểm nguyên đơn thanh toán đủ 95% giá bán
căn hộ cho FLC theo Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A. Thời hạn thuê theo
thỏa thuận tính từ ngày nguyên đơn thanh toán đủ 95% giá bán căn hộ hoặc tính
từ ngày các bên Hợp đồng thuê quản tài sản đến ngày cuối cùng của
thời hạn hoạt động dự án theo Giấy chứng nhận đầu số 4370744030 do Ủy
ban nhân dân tỉnh B cấp ngày 24/4/2015. Thực hiện theo thỏa thuận của Hợp
đồng thuê quản tài sản, T6 đã trả tiền thuê cho nguyên đơn tính từ năm
2019 đến nay với tổng số tiền 171.141.819 đồng. Căn cứ theo thỏa thuận của
các bên tại Điều 5 Hợp đồng thuê quản tài sản thì nguyên đơn đã thanh
toán đủ 95% giá bán căn hộ cho Chủ đầu tư vào ngày 19/7/2018, đồng thời đã
tiến hành Hợp đồng thuê quản tài sản vào ngày 19/7/2018. Như vậy,
căn cứ theo quy định trên thì thời hạn cho thuê của căn hộ là từ ngày 08/01/2019
cho đến khi hết thời hạn hoạt động của dự án. Trong thời hạn thuê nêu trên,
nguyên đơn không được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê với T6 trong bất
cứ trường hợp nào. Tuy nhiên, khi chưa hết thời hạn của Hợp đồng thuê và quản
tài sản thì nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu chấm dứt Hợp đồng mua bán căn
hộ với T6. Việc Hợp đồng mua bán căn hộ bị chấm dứt khiến cho T6 không thể
tiếp tục thực hiện Hợp đồng thuê và quản lý tài sản theo thỏa thuận giữa các bên.
Thời điểm nguyên đơn yêu cầu đơn phương chấm dứt Hợp đồng thuê và quản
tài sản cũng chính thời điểm nguyên đơn đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng
thuê và quản tài sản với T6. Việc nguyên đơn chấm dứt Hợp đồng thuê
quản tài sản vi phạm nghĩa vụ của bên cho thuê về việc đảm bảo thời hạn
cho thuê được quy định tại Điều 5 của Hợp đồng thuê và quản lý tài sản. Căn cứ
khoản 10.2, 10.3 Điều 10 của Hợp đồng thuê quản tài sản thì T6 được áp
dụng các chế tài liên quan do hành vi chấm dứt Hợp đồng thuê và quản lý tài sản
trái pháp luật của nguyên đơn gây ra bao gồm: Yêu cầu nguyên đơn hoàn trả lại
cho T6 toàn bộ số tiền thuê đã nhận cùng tiền lãi phát sinh tính bằng 150% lãi
suất tiền gửi tiết kiệm trả lãi sau kỳ hạn 06 tháng đối với khách hàng cá nhân của
Ngân hàng Đ2 (B) công bố tại thời điểm nguyên đơn thông báo đơn phương
chấm dứt hợp đồng trên tổng số tiền cho thuê thực nhận tính từ ngày bắt đầu cho
đến ngày nguyên đơn hoàn trả tiền trên thực tế. Đồng thời, yêu cầu nguyên đơn
phải thanh toán cho T6 khoản tiền phạt tương đương 8% giá trị phần nghĩa vụ bị
vi phạm cùng với việc bồi thường thiệt hại cho T6 do hành vi chấm dứt hợp
đồng thuê trái pháp luật gây ra. Trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn về việc chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ giữa nguyên đơn
T6, đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu độc lập của T6 tuyên chấm dứt Hợp
đồng thuê và quản lý tài sản; buộc nguyên đơn thanh toán toàn bộ các khoản tiền
6
với tổng cộng tạm tính đến ngày 04/7/2023 là 369.616.239 đồng. Trong đó bao
gồm: Tiền thuê đã nhận 171.141.819 đồng; thanh toán tiền lãi phát sinh bằng
150% lãi suất tiền gửi tiết kiệm trả lãi sau kỳ hạn 06 tháng đối với khách hàng cá
nhân của Ngân hàng B công bố tại thời điểm nguyên đơn chấm dứt Hợp đồng
thuê quản lý tài sản tính trên tổng số tiền cho thuê thực nhận tính từ ngày bắt
đầu phát sinh hiệu lực của Hợp đồng thuê và quản lý tài sản đến khi nguyên đơn
hoàn thành nghĩa vụ thanh toán là 46.081.693 đồng; thanh toán số tiền tương
đương với 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm là 152.392.727 đồng; hoàn trả lại
cho T6 bằng tiền giá trị các đêm nghỉ nguyên đơn đã sdụng (nếu có) theo
quy định tại Điều 7 của Hợp đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Ngô Tăng Kim L2 trình bày:
Ngày 24/12/2018, vợ chồng liên hệ vay P1 ngân hàng chỉ định
của chủ đầu tư, do hai bên có liên kết trước đó số tiền 1.000.000.000 đồng trong
thời hạn 240 tháng. Tài sản thế chấp chính căn hộ hình thành trong tương lai
được bảo đảm bằng bản chính hợp đồng mua bán căn hộ vợ chồng đã
ký kết với T6. Thực tế, ngân hàng đã giải ngân khoản tiền trên để thanh toán cho
chủ đầu theo đề nghị của vợ chồng bà. Hiện vchồng vẫn còn nợ gốc
860.352.254 đồng lãi ngân hàng hàng tháng. Căn hộ 25B12A vợ
chồng đứng tên trên hợp đồng tài sản chung vợ chồng. Ông H đứng tên
nhân trên hợp đồng để tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch. Tiền mua căn
hộ đó là của vợ chồng bà.
thống nhất với yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn Quốc H và đề nghị
Tòa án giải quyết theo quy định.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (P1) trình bày:
Ông Hồ Văn Quốc H và bà Ngô Tăng Kim L2 đã cùng với P1 - Chi nhánh
G kết Hợp đồng cho vay s 9512/2018/HĐTD/PVB- CN.GĐ-TTB ngày
24/12/2018 (viết tắt Hợp đồng cho vay số 9512), chi tiết như sau: Khế ước
nhận nợ: Số LD1900882533 ngày 08/01/2019; số tiền cho vay: 1.000.000.000
đồng; số tiền giải ngân: 1.000.000.000 đồng; ngày giải ngân: 08/1/2019; thời
hạn vay: 240 tháng; mục đích sử dụng vốn: Mua căn hộ số B, tầng 5B Zone 2
thuộc Tổ hợp căn hộ khách sạn T6 thuộc dự án Khu đô thị D địa chỉ tại Khu
K, xã N, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
P1 xác định vụ án tranh chấp giữa ông H và T6 gây ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích của ngân hàng trong việc xử tài sản thế chấp. Do đó, ngày 15/8/2022,
P1 đã gửi Thông báo số 6614/TB-PVB về việc thu hồi nợ trước hạn đối với toàn
bộ khoản vay của ông H và L2. Tổng nkhoản vay ông H L2 tạm
tính đến ngày 07/01/2025 1.130.509.301 đồng bao gồm 840.794.590 đồng nợ
gốc 289.714.711 đồng nợ lãi (trong đó lãi trong hạn 240.609.668 đồng, lãi
quá hạn 23.425.770 đồng, lãi phạt 25.679.274 đồng) tiếp tục trả lãi theo hợp
đồng vay cho đến khi nguyên đơn trả hết ngốc. Trong trường hợp chấm dứt
Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A thì toàn bộ số tiền FLC phải trả lại ông H,
7
L2 theo các điều khoản của Hợp đồng mua bán căn hộ sẽ được chuyển toàn
bộ vào tài khoản ông H, L2 tại P1 để ngân hàng được toàn quyền thu hồi nợ
bằng các khoản tiền này, nếu không đủ thì bằng nguồn thu cũng như tài sản hợp
pháp khác của ông H, L2 pháp luật cho phép cho đến khi thu hồi hết nợ.
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật, nếu ông H và bà L2 không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên lãi quá hạn phát sinh thì P1 quyền
yêu cầu quan nhà nước thẩm quyền thi hành bản án, biên, phát mãi tài
sản bảo đảm quyền tài sản đối với căn hộ số 25B12A thuộc quyền sở hữu của
ông H và bà L2 để thu hi nợ cho P1.
Người đại diện hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng Thương mại Cổ phần P2 (O) trình bày:
Ngày 18/3/2020, T6 ký với OCB hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất đã được Phòng C1, Sở pháp tỉnh Bình Định công
chứng số 01650, quyển số 01/TP/CC-SCC/HĐGD. Theo đó, T6 đã thế chấp cho
O quyền sử dụng đất công trình xây dựng trên đất diện tích 57.718,1m² tại
Khu K, xã N, thành phố Q, tỉnh Bình Định theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền shữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất số CN 536342, số vào
sổ cấp GCN: CT07540 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày
18/6/2019 để bảo đảm cho nghĩa vtrả nợ của Công ty Cổ phần Đ3 đối với O.
Việc thế chấp đã được T6, OCB đăng thế chấp và đã được Văn phòng đăng
đất đai tỉnh B chứng nhận thế chấp ngày 18/3/2020 theo đúng quy định pháp
luật. OCB không ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về yêu
cầu độc lập của P1 về phát mãi, xử tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp
quyền tài sản đthu nợ, đề nghị Tòa án không chấp nhận do tài sản thế chấp
tại OCB.
Tại Bản án dân sự thẩm số 08/2025/DS -ST ngày 07/01/2025, Tòa án
nhân dân thành phố Quy Nhơn đã quyết định:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh H.
Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A ngày 31/7/2018
giữa T6 (bên bán) với ông H (bên mua).
Buộc T6 nghĩa vụ thanh toán cho ông H L2 các khoản tiền sau:
Tiền mua căn hộ đã thanh toán 1.990.630.000 đồng; tiền phạt vi phạm hợp
đồng là 152.392.000 đồng; tiền lãi chậm bàn giao căn hộ 515.627.000 đồng; tổng
cộng: 2.658.649.000 đồng.
- Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông H về yêu cầu tiền
bồi thường thiệt hại 190.000.000 đồng tương ứng tiền cho thuê căn hộ tạm nh
từ ngày 01/7/2019 tính tới ngày 01/7/2020 căn cứ trên giá tính tiền thuê do
nguyên đơn rút yêu cầu.
- Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của T6.
Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng thuê quản tài sản số 25B12A ngày
08/01/2019 giữa T6 với ông H.
8
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của T6 về việc yêu cầu nguyên đơn
phải hoàn trả lại tiền thuê bồi thường thiệt hại đã đơn phương chấm dứt
Hợp đồng thuê và qun lý căn hộ với tổng số tiền 396.616.239 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu độc lập của T6 về hoàn trả tiền thuê đã nhận.
- Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của P1.
Buộc ông H và bà L2 nghĩa vụ thanh toán cho P1 tổng số tiền tạm tính
đến ngày 07/01/2025 1.130.509.301 đồng bao gồm 840.794.590 đồng nợ gốc
289.714.711 đồng nợ lãi (trong đó lãi trong hạn 240.609.668 đồng, lãi quá
hạn 23.425.770 đồng, lãi phạt 25.679.274 đồng).
Ông H L2 còn phải tiếp tục trả tiền lãi phát sinh theo lãi suất thoả
thuận tại Hợp đồng cho vay số 9512 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.
Buộc T6 nghĩa vụ chuyển khoản hoặc thanh toán trực tiếp các khoản
tiền phải trả cho ông H, L2 đã tuyên trên vào tài khoản của ông H, L2 mở
tại P1. P1 được toàn quyền thu hồi nợ bằng các khoản tiền này, nếu không đủ thì
bằng nguồn thu cũng như tài sản hợp pháp khác của ông H, L2 pháp luật
cho phép cho đến khi thu hồi hết nợ.
Không chấp nhận yêu cầu của P1 phát mãi tài sản thế chấp kê biên tài sản
bảo đảm quyền tài sản đối với căn hộ số 25B12A thuộc quyền sở hữu của ông H
và bà L2 để thu hồi nợ cho P1 theo Hợp đồng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ
Hợp đồng mua bán nhà ở số 9512/HĐBD/PVB-CNGDTTB ngày 21/12/2018.
Ngoài ra, Tòa án cấp thẩm n quyết định về phần án phí dân sự
thẩm, chi phí định giá tài sản, xem xét, thẩm định tại chỗ quyền nghĩa vụ thi
hành án, quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 15/01/2025, P1 có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu chấm dứt Hợp đồng mua bán
căn hsố 25B12A ngày 31/7/2018 giữa T6 (bên bán) với ông H (bên mua)
trong trường hợp ông H vi phạm nghĩa vụ trả nợ, P1 quyền yêu cầu quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp là quyền tài sản thuộc sở hữu của
ông H phát sinh từ Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A nêu trên để thu hồi nợ.
Ngày 14/02/2025, T6 đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, yêu cầu
Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu độc lập của
T6.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Trong quá trình tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định
của pháp luật tố tụng; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo của T6P1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
9
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hvụ án được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về sự vắng mặt của đương sự: Người đại diện hợp pháp của nguyên
đơn ông Hoàng Minh T người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Ngô
Tăng Kim L2 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không
do. Người đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty cổ phần T6 ông Nguyễn
Minh Đ người đại diện hợp pháp của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan
Công ty cổ phần T6 RESORT Đinh Hồng H3, người đại diện hợp pháp
của Ngân hàng thương mại cổ phần P2 ông Nguyễn Tấn P đơn xin xét xử
vắng mặt. Căn cứ khoản 2 khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sthì
Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt.
[2] Ngày 31/7/2018, ông Hồ Văn Quốc HT6 đã xác lập Hợp đồng mua
bán căn hộ số 25B12A về việc mua căn hộ số 25B12A với giá chưa bao gồm
kinh phí bảo trì phần sở hữu chung 2.095.400.000 đồng (đã bao gồm VAT).
Hợp đồng nêu trên phù hợp với các quy định của pháp luật về hình thức nội
dung. Do đó, các bên liên quan phải thực hiện đúng nội dung đã cam kết
trong hợp đồng và chịu trách nhiệm về những vi phạm (nếu có).
Theo hợp đồng, giá bán căn hộ 2.095.400.000 đồng. Ông H đã thanh
toán được 1.990.630.000 đồng (tức 95% số tiền mua căn hộ) nhưng hiện nay bên
bán (T6) vẫn chưa bàn giao căn hộ cho bên mua (ông H) như hợp đồng đã ký.
Trong tổng số tiền đã đóng, ông H vay của P1 số tiền 1.000.000.000 đồng.
Đến nay, ông H vẫn còn nợ P1 và đang bị nợ quá hạn; hiện dư nợ khoản vay trên
là 960.233.153 đồng.
Theo Hợp đồng mua bán căn hộ số 25B12A ngày 31/7/2018 giữa T6 (bên
bán) với ông H (bên mua):
- Tại Điều 8.2 quy định về thời điểm bàn giao căn hộ cho bên mua dự
kiến là quý II/2019 (tức chậm nhất vào ngày 30/6/2019), thể được gia hạn
tối đa 02 lần, mỗi lần không quá 45 ngày kể từ ngày cuối cùng của thời điểm dự
kiến bàn giao căn hộ cho bên mua (tức hạn cuối cùng ngày 30/9/2019). Như
vậy, đến ngày 30/9/2019, bên bán (FLC) vẫn chưa bàn giao căn hộ cho bên mua
(ông H). Ngày 28/9/2020, ông H (bên mua) đã gửi thông báo đơn phương chấm
dứt hợp đồng mua bán căn hộ cho bên bán (T6) nhưng công ty không phản
hồi.
- Tại Điều 12.2.2 quy định nếu bên bán chậm bàn giao căn hộ quá 180
ngày kể tngày cuối cùng của thời điểm dự kiến bàn giao căn hộ nêu tại Điều
8.2 của hợp đồng (ngày 30/9/2019) bên bán vẫn chưa bàn giao căn hộ cho
bên mua thì bên mua quyền tiếp tục thực hiện hợp đồng với thỏa thuận bổ
sung về thời điểm bàn giao căn hộ mới, bên bán phải thanh toán cho bên mua
khoản tiền phạt vi phạm nđối với trường hợp bên bán chậm bàn giao căn hộ
quy định tại Điều 12.2.1 trên hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng theo thuận
tại Điều 15 của hợp đồng.
10
- Tại Điều 15.1.3 quy định hợp đồng được chấm dứt theo quyết định đơn
phương chấm dứt hợp đồng của bên mua trong trường hợp bên bán chậm bàn
giao căn hộ theo thỏa thuận tại Điều 12.2.2 của hợp đồng.
Căn cứ theo nội dung đã thỏa thuận nêu trên tại Hợp đồng mua bán căn hộ
số 25B12A ngày 31/7/2018 giữa T6 (bên bán) với ông H (bên mua) thì bên mua
(ông H) có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, T6 cũng không cung cấp được chứng cứ
chứng minh lỗi chậm bàn giao căn hộ là do sự thay đổi của chính sách pháp luật
liên quan đến việc kinh doanh sản phẩm căn hộ khách sạn - do dịch Covid
19; đồng thời phía tập đoàn cũng không thông báo đến khách hàng để
thương lượng, thay đổi, bổ sung điều khoản hợp đồng cho phù hợp với tình hình
thực tế (trong trường hợp thay đổi). Tại Điều 14.3 của hợp đồng quy định:
Khi xuất hiện một trong các sự kiện bất khả kháng phải thông báo bằng văn bản
cho bên còn lại biết 05 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện bất khả kháng.
Từ những phân tích nêu trên, Tòa án cấp thẩm xét xử chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của anh H, tuyên bố chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ số
25B12A ngày 31/7/2018 giữa T6 (bên bán) với ông H (bên mua) căn cứ,
phù hợp với quy định tại các Điều 410, 422, 428 của Bộ luật Dân sự. Do đó, Hội
đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của P1 về việc yêu cầu Tòa
án cấp phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu chấm dứt Hợp đồng mua bán căn hộ
số 25B12A.
[3] Ông Hồ Văn Quốc H - Ngô Tăng Kim L2 đã cùng với P1 - Chi
nhánh G ký kết Hợp đồng cho vay số 9512 với số tiền cho vay 1.000.000.000
đồng, số tiền giải ngân: 1.000.000.000 đồng, thời hạn vay: 240 tháng, mục đích
sử dụng vốn mua căn hộ số 25B12A khoản vay nêu trên được đảm bảo
bằng toàn bộ các quyền tài sản của ông H phát sinh từ Hợp đồng mua bán căn hộ
số 25B12A giữa T6 với ông H về việc mua căn hộ số 25B12A.
Căn cứ theo hợp đồng tín dụng Hợp đồng thế chấp quyền tài sản số
9512/2018/HĐBĐ/PVB-CN.GĐ-TTB ngày 24/12/2018 thì P1 kháng cáo yêu
cầu P1 được phát mãi tài sản thế chấp biên tài sản bảo đảm quyền tài sản đối
với căn hộ số 25B12A thuộc quyền sở hữu của ông H - L2 để thu hồi nợ cho
P1 theo Hợp đồng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng mua bán nhà
số I.
[3.1] t kháng cáo của P1 về việc xtài sản thế chấp của P1, thấy
rằng:
Tại thời điểm ông H - L2 hợp đồng tín dụng hợp đồng thế chấp
tài sản với P1 thì ông H vẫn chưa thanh toán xong 100% giá bán căn hộ theo
Hợp đồng mua bán n số I; bên bán (FLC) vẫn chưa bàn giao căn hộ số
25B12A cho bên mua (ông H) và T6 vẫn chưa hoàn tất các thủ tục về pháp lý về
việc cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất, quyền shữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất cho ông H đối với căn hộ nói trên. Theo Biên bản xem xét,
11
thẩm định tại chỗ ngày 14/6/2023 thì hiện nay căn hộ số 25B12A vẫn đang còn
trong quá trình thi công, hoàn thiện, chưa đưa vào hoạt động. Ngoài ra, ông H
khởi kiện yêu cầu tuyên bố chấm dứt Hợp đng mua bán căn hộ số 25B12A
giữa T6 với ông H Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện nêu trên của ông H,
buộc FLC nghĩa vụ thanh toán lại vợ chồng ông H các khoản tiền liên quan
đến việc mua bán căn hnên căn hsố B không còn thuộc quyền sở hữu của v
chồng ông H.
[3.2] Từ những phân tích trên, Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu
cầu của P1 phát mãi tài sản thế chấp biên tài sản bảo đảm quyền tài sản đối
với căn hộ số 25B12A thuộc quyền sở hữu của ông H - L2 để thu hồi nợ cho
P1 theo Hợp đồng thế chấp quyền tài sản phát sinh từ Hợp đồng mua bán nhà
số 9512/HĐBD/PVB-CNGDTTB ngày 21/12/2018 căn cứ, đúng quy định
pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của
P1 liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp của P1.
[4] Xét kháng cáo của T6, thấy rằng:
Ngày 08/01/2019, ông H T6 đã kết Hợp đồng thuê quản tài
sản số 25B12A các phụ lục kèm theo. Trong quá trình thực hiện hợp đồng,
T6 đã trả tiền thuê cho ông H tính từ năm 2019 đến nay với tổng số tiền
171.141.819 đồng. Theo quy định của pháp luật thì Hợp đồng mua bán căn hộ
số 25B12A ngày 31/7/2018 giữa T6 (bên bán) với ông H (bên mua) và các phụ
lục kèm theo hợp đồng chính, còn Hợp đồng thuê và quản tài sản số
25B12A các phụ lục kèm theo hợp đồng phụ hiệu lực phụ thuộc vào
hợp đồng chính nên khi hợp đồng chính bchấm dứt thì hợp đồng phụ đương
nhiên cũng bị chấm dứt do đối tượng của hợp đồng không còn và việc chấm dứt
Hợp đồng thuê và quản tài sản số 25B12A các phụ lục kèm theo không
phải là do lỗi của ông H. Do đó, T6 yêu cầu nguyên đơn phải hoàn trả lại tiền
thuê đã nhận, tiền thuê bồi thường thiệt hại đã đơn phương chấm dứt Hợp
đồng thuê, quản lý căn hộ với tổng số tiền 396.616.239 đồng là không có căn cứ
nên Tòa án cấp thẩm không chấp nhận yêu cầu trên của T6 là đúng quy định;
Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của T6.
[5] Các quyết định khác của bản án dân sự thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
lệ phí Tòa án thì P1 phải chịu 300.000 đồng, được trừ 300.000 đồng tiền tạm
ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số 0001174 ngày 07/02/2025
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn T6 phải chịu 300.000
đồng, được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo
Biên lai số 0001257 ngày 27/02/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Quy Nhơn.
12
[7] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định phát biểu ý kiến v
việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận nội
dung kháng cáo của Công ty cổ phần T6 và RESORT và nội dung kháng cáo của
Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
n cứ khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý sử dụng án phí lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của Công ty cổ phần T6 RESORT.
Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (P1). Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 08/2025/DS-ST ngày 07 tháng 01 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm:
2.1. Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ1 (P1) phải chịu 300.000 đồng,
được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên
lai số 0001174 ngày 07/02/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy
Nhơn, tỉnh Bình Đnh.
2.2. Công ty cổ phần T6 RESORT phải chịu 300.000 đồng, được trừ
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo Biên lai số
0001257 ngày 27/02/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quy Nhơn,
tỉnh Bình Định.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Định (1);
- Tòa án nhân dân TP.Quy Nhơn (1);
- Chi cục THADS TP.Quy Nhơn (1);
- Các đương sự (11);
- Lưu: HCTP, Tòa Dân sự, hồ sơ vụ án (3).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
Đỗ Thị Thắm
Tải về
Bản án số 144/2025/DS-PT Bản án số 144/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 144/2025/DS-PT Bản án số 144/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất