Bản án số 135/2025/DS ngày 01/07/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 135/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 135/2025/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 135/2025/DS
Tên Bản án: | Bản án số 135/2025/DS ngày 01/07/2025 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 135/2025/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/07/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngày 25 tháng 11 năm 2024, nguyên đơn – ông Huỳnh Trí D có Đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 135/2025/DS - PT
Ngày: 01-7-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng mua
bán căn hộ”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Cao Văn Hiếu
Các Thẩm phán: Bà Mai Vương Thảo
Bà Trần Thị Thanh Mai
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Ngô Khánh Loan - Thư ký Tòa án nhân dân
thành phố Đà Nẵng;
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng: Bà Lương Thị
Chung - Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Trong các ngày 30 tháng 6 năm 2025 và 01 tháng 7 năm 2025 tại trụ sở Tòa
án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:
02/2025/TLPT-DS ngày 07 tháng 01 năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua
bán căn hộ”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 83/2024/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2025
của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 116/2025/QĐ-PT ngày
07 tháng 3 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm số: 169/2025/QĐ – PT
ngày 31 tháng 3 năm 2025, Quyết định tạm ngừng phiên tòa số: 236/2025/QĐ-PT
ngày 28/4/2025, thông báo về thời gian mở lại phiên tòa phúc thẩm số: 240/TB–TA
ngày 16/6/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Huỳnh Trí D, sinh năm 1969, CCCD số 077069000734;
Địa ch: E Đ, Phường B, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (nay là Phường T, Thành
phố Hồ Chí Minh).
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Duy T, sinh năm
1989, CCCD số 051089012237 cấp ngày 02/4/2022; Địa ch Tầng B số A N,
phường N, quận H, thành phố Đà Nẵng (nay là phường H, thành phố Đà Nẵng); Là
2
người đại diện theo ủy quyền (theo Giấy uỷ quyền ngày 14 tháng 5 năm 2025 tại
Văn phòng C2, số A X, phường B, quận B, thành phố Hồ Chí Minh). Ông D và
người được ủy quyền đều có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Võ Thị
Minh A – Thẻ Luật sư số 6552/LS do L cấp ngày 10/9/2011, thuộc Đoàn Luật sư
Thành phó H2. Có mặt
2. Bị đơn: Công ty Cổ phần P2; Mã số doanh nghiệp: 0401622745; Địa ch: B
P, phường P, quận S, thành phố Đà Nẵng (nay là phường A, thành phố Đà Nẵng).
Người đại diện hợp pháp của bị đơn:
- Bà Bùi Thị P, sinh năm 1985, CCCD số 048185007270, cấp ngày
02/10/2021; Địa ch: số A đường H, phường H, quận L, thành phố Đà Nẵng (nay là
phường H, thành phố Đà Nẵng);
- Ông Võ Văn T1, sinh năm 1982, CCCD số 048082006622, cấp ngày
28/6/2021; Địa ch: số G Đ, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng (nay là phường
A, thành phố Đà Nẵng);
- Ông Trịnh Anh H, sinh năm 1973, CCCD số 042073006800, cấp ngày
28/6/2022; Địa ch: số G B, phường M, quận N, thành phố Đà Nẵng (nay là phường
N, thành phố Đà Nẵng);
Là những người đại diện theo ủy quyền, (theo Giấy ủy quyền số: 103/UQ-
2025 ngày 01/3/2025 và Giấy ủy quyền số: 244/UQ-2025 ngày 22/4/2025 của bà
Nguyễn Thị Minh P1 - Tổng giám đốc, Người đại diện theo pháp luật của C ty. Cả
03 người được ủy quyền đều có mặt.
3. Người kháng cáo: Nguyên đơn – ông Huỳnh Trí D.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Nguyên đơn ông Huỳnh Trí D, tại đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng
và tại phiên tòa, nguyên đơn, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ông Huỳnh Trí D là bên mua căn hộ số 16 tại tầng B, tòa D thuộc khu C tổ H
- Soleil Đ tại giao lộ đường P và V, thuộc phường P, quận S, Thành phố Đà Nẵng,
theo: Hợp đồng mua bán căn hộ với mã căn hộ: SLD-27-16 ký kết ngày 14/03/2018
giữa ông Huỳnh Trí D và Công ty Cổ phần P2 (sau đây gọi tắt là Công ty P2).
Tính đến nay, ông Huỳnh Trí D đã thanh toán cho Công ty P2 tổng số tiền
6.078.667.000 đồng, với các đợt thanh toán như sau:
- Thanh toán 200.000.000 đồng (tiền đặt cọc theo Ủy nhiệm chi ngày
19/05/2017 của Ngân hàng B1);
- 2.405.143.000 đồng (30% giá trị căn hộ SLD-27-16) theo Giấy xác nhận
ngày 27/6/2017 của Công ty P2;
- 3.473.524.000 đồng (thanh toán đến 70% căn hộ SLD-27-16) theo Giấy xác
nhận ngày 29/03/2018 của Công ty P2.
3
Theo Hợp đồng mua bán căn hộ đã ký kết, Công ty P2 đã cam kết thời hạn
bàn giao căn hộ như sau:
Điểm e khoản 5.2 Điều 5: “Bàn giao căn hộ và các giấy tờ pháp lý có liên
quan đến căn hộ mua bán cho Bên Mua theo đúng thời hạn thỏa thuận trong hợp
đồng”.
Khoản 8.2 Điều 8: “Bên Bán dự kiến bàn giao căn Hộ cho Bên Mua vào Quý
3/2018 sau đây gọi là “Ngày bàn giao dự kiến”). Việc bàn giao căn hộ thực tế có
thể sớm hơn hoặc muộn hơn so với ngày bàn giao dự kiến được quy định tại Điều
8.2 này, nhưng sẽ không sớm hoặc chậm quá 120 (một trăm hai muơi) ngày kể từ
ngày bàn giao dự kiến; Bên bán sẽ có văn bản thông báo cho bên mua biết lý do
chậm bàn giao căn hộ”.
Điểm a khoản 12.2 Điều 12: "Nếu Bên Mua đã thanh toán giá bán căn hộ
theo tiến độ thoả thuận trong Hợp đồng hoặc đã khắc phục vi phạm về nghĩa vụ
thanh toán theo thỏa thuận trong Hợp đồng (nếu có) nhưng quá thời hạn 120 (một
trăm hai mươi) ngày kể từ ngày bàn giao theo thỏa thuận tại Điều 8 của hợp đồng
mà Bên Bán vẫn chưa bàn giao căn hộ cho Bên Mua thì Bên Bán phải thanh toán
cho Bên Mua khoản tiền phạt vi phạm với lãi suất là 0.05%/ngày (không phẩy
không năm phần trăm) trên tổng số tiền mà Bên Mua đã thanh toán cho Bên Bán và
được tính từ ngày thứ 121 (một trăm hai mốt) kể từ ngày bàn giao dự kiến đến ngày
Bên Bán bàn giao căn hộ thực tế cho Bên Mua.
Điểm b khoản 12.2 Điều 12: “Nếu Bên Bán chậm bàn giao căn hộ quá 210
(hai trăm mười) ngày kể từ ngày bàn giao dự kiến theo thỏa thuận tại Điều 8 của
hợp đồng thì Bên Mua có quyền tiếp tục thực hiện hợp đồng với thỏa thuận bổ sung
về thời điểm bàn giao Căn Hộ mới trong trường hợp này Bên Mua sẽ đuợc áp dụng
lãi suất phạt chậm bàn giao của Bên Bán tương tự tại Điều 12.2.a hoặc đơn phương
chấm dứt hợp đồng theo thỏa thuận tại Điều 15 của Hợp đồng này"
Công ty P2 đã vi phạm nghĩa vụ bàn giao căn hộ, bởi lẽ theo các trích dẫn nêu
trên thì: "Ngày bàn giao dự kiến” là Quý 3/2018. Ông D xác định thời điểm có lợi
nhất cho Công ty P2 là ngày cuối cùng của Quý 3/2018. Theo đó, "Ngày bàn giao
dự kiến” chậm nhất là ngày 30/9/2018. Hợp đồng quy định việc bàn giao căn hộ
thực tế có thể sớm hơn hoặc muộn hơn so với "Ngày bàn giao dự kiến” nhưng
không sớm hơn hoặc chậm quá 120 ngày kể từ "Ngày bàn giao dự kiến”. Như vậy,
ngày bàn giao căn hộ thực tế không được chậm hơn ngày 28/01/2019, vì từ "Ngày
bàn giao dự kiến” 30/9/2018 đến ngày 28/01/2019 là 120 ngày.
Thực tế đến nay, Công ty P2 chưa bàn giao căn hộ cho ông D. Căn cứ Điều
12 Hợp đồng mua bán căn hộ đã ký, Công ty P2 (Bên Bán) phải thanh toán ông D
(Bên Mua) tiền phạt vi phạm do chậm bàn giao căn hộ, với lãi suất 0.05%/ngày trên
tổng số tiền mà ông D đã thanh toán và được tính từ ngày thứ 121 kể từ "Ngày bàn
giao dự kiến”, tức tính từ ngày 29/01/2019.
Vì vậy, ông D yêu cầu Toà án giải quyết:
- Buộc Công ty P2 thanh toán cho ông tiền phạt vi phạm với lãi suất
0.05%/ngày trên tổng số tiền mà ông đã thanh toán (6.078.667.000 đồng) tính từ
4
ngày 29/01/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm (21/11/2024), cụ thể là: 6.078.667.000
đồng x 0.05%/ngày x 2124 ngày = 6.455.544.354 đồng.
- Buộc Công ty cổ phần P2 tiếp tục thanh toán cho ông tiền phạt vi phạm tính
từ ngày 22/11/2024 cho đến ngày Công ty P2 thực tế bàn giao căn hộ cho ông.
* Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn, nguyên đơn không đồng ý, vì:
1. Ông Huỳnh Trí D đã và đang thanh toán tiền mua căn hộ theo đúng tiến độ
thỏa thuận:
- Tại Hợp đồng mua bán căn hộ đã ký, tiền căn hộ được hai bên thỏa thuận
thanh toán theo tiến độ quy định tại khoản 3.3 Điều 3 như sau:
+ Đợt 1: Ngay khi ký thỏa thuận đặt cọc, thanh toán 30% giá trị căn hộ (Đã
bao gồm số tiền đặt chỗ (nếu có) (Chưa cóVAT và phí bảo trì)
+ Đợt 2: Xong thô tầng 35 và ngay khi ký hợp đồng mua bán (dự kiến trước
ngày 25/12/2017) thanh toán 30% giá trị căn hộ (Chưa có VAT và phí bảo trì)
+ Đợt 3: Xong thô và cất nóc tòa D Dự kiến trước ngày 05/02/2018 thanh
toán 10% giá trị căn hộ (Chưa có VAT và phí bảo trì).
+ Đợt 4: Dự kiến 15/04/2018 thanh toán 20% giá trị căn hộ (Chưa có VAT và
phí bảo trì).
+ Đợt 5: Dự kiến 15/07/2018 thanh toán 5% giá trị căn hộ + 2% giá trị căn hộ
(Kinh phí bảo trì) + VAT của toàn bộ giá bán căn hộ.
(Đ, đợt 5 theo thông báo bàn giao của Chủ Đầu Tư).
+ Đợt 6: Thông báo thủ tục cấp Giấy chứng nhận (Theo quy định của pháp
luật về C) thanh toán 5% giá trị căn hộ (Chưa có VAT và phí bảo trì).
- Điều khoản thanh toán tiền căn hộ theo khoản 3.3 Điều 3 Hợp đồng mua
bán căn hộ như nêu trên hoàn toàn trùng khớp với Thông báo số 168/ATĐN-PC
ngày 18/12/2017 mà Công ty P2 đã gửi cho ông D trước khi ký hợp đồng.
- Ngoài Hợp đồng mua bán căn hộ, giữa ông D và Công ty P2 không có một
thỏa thuận nào có nội dung khác về tiến độ thanh toán tiền căn hộ như nêu trên.
Trên thực tế, ông D đã thanh toán tiền mua căn hộ cho Công ty P2 03 đợt,
theo: Giấy xác nhận ngày 29/03/2018 của Công ty P2 ông D đã nộp 70% tiền căn hộ
SLD-27-16. Như vậy, tính đến thời điểm này, ông D đã thanh toán cho Công ty P2
70% giá trị căn hộ, với tổng số tiền đã thanh toán là 6.078.667.000 VNĐ.
2. Hiện tại, căn hộ SLD-27-16 chưa đạt điều kiện thanh toán đợt 4, tức thanh
toán đến 90% giá trị căn hộ:
- Bị đơn Công ty P2 phản tố yêu cầu ông D thanh toán đến 90% giá trị hợp
đồng (bao gồm VAT) là 2.504.264.000 VNĐ, tức đợt 4 của Hợp đồng mua bán căn
hộ đã ký.
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 440 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về
nghĩa vụ trả tiền: “Bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền theo thời hạn, địa điểm và
mức tiền được quy định trong hợp đồng”.
5
- Theo quy định tại Điều 3 Hợp đồng mua bán căn hộ đã ký, việc thanh toán
tiền đợt 4 (tức thanh toán đến 90% giá trị căn hộ) phải đạt đồng thời 02 điều kiện
sau đây:
(1) Có thông báo bàn giao của Chủ Đầu Tư.
(2) Có thông báo thanh toán số tiền phải nộp cho Bên Mua.
- Từ ngày ông D thanh toán đến 70% giá trị căn hộ, tức từ ngày 29/03/2017
đến nay, Công ty P2 không có bất cứ thông báo nào cho ông, không có thông báo
bàn giao căn hộ, cũng không có thông báo số tiền phải nộp.
Cho đến thời điểm này, Công ty P2 vẫn chưa có thông báo bàn giao căn hộ.
Như vậy, căn hộ SLD-27-16 chưa đạt điều kiện thanh toán đợt 4.
3. Bị đơn Công ty P2 đang vi phạm nghiêm trọng Hợp đồng mua bán căn hộ
đã ký với ông:
- Tại trang 3 Đơn phản tố ngày 24/7/2024, bị đơn thừa nhận chưa bàn giao
căn hộ qua câu sau: “Xét rằng dù chúng tôi chưa bàn giao sản phẩm theo tiến độ dự
kiến… chúng tôi cam kết sẽ bàn giao căn hộ SLD-27-16 trong quý IV/2024 với điều
kiện Khách hàng thanh toán đủ 90% giá trị Hợp đồng (bao gồm VAT) trong tháng
08/2024”.
- Như ông D trình bày ở trên, ông ch có nghĩa vụ thanh toán đến 90% giá trị
căn hộ khi đáp ứng đồng thời 02 điều kiện: (1) Có thông báo bàn giao của Chủ Đầu
Tư; (2) Có thông báo thanh toán số tiền phải nộp cho Bên Mua. Công ty P2 thừa
nhận đến nay chưa bàn giao căn hộ cho ông và cam kết bàn giao trong quý IV/2024,
nhưng Công ty P2 yêu cầu ông thanh toán đến 90% giá trị căn hộ là vi phạm nghiêm
trọng thỏa thuận về tiến độ thanh toán theo Hợp đồng mua bán căn hộ đã ký.
Vì các lý do trình bày nêu trên, ông D không đồng ý với yêu cầu phản tố của
Công ty P2. Việc Công ty P2 rút một phần yêu cầu phản tố đối với số tiền
767.502.000 đồng là quyền tự định đoạt của Công ty P2, ông D không có ý kiến gì.
* Bị đơn Công ty Cổ phần P2 (Công ty): Quá trình tham gia tố tụng và tại
phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị đơn trình bày:
Công ty P2 và ông Huỳnh Trí D có ký kết Hợp đồng số:
2401/2018/HĐMBCH-ADĐN ngày 14/03/2018 về việc mua bán căn hộ số 16, tầng
27, M - 27-16 tại Toà D, Dự án Soleil Đ, tọa lạc Lô A đường P, phường P, quận S,
Tp . (Hợp đồng mua bán căn hộ).
Do công trình đang thi công là công trình lớn, quy mô cho nên có nhiều quy
định đặc biệt, khắt khe hơn nên trong quá trình thực hiện hợp đồng phát sinh nhiều
vấn đề cần xử lý. Mặt khác, do tình hình dịch bệnh Covid 19, do có thay đổi một số
quy định về phòng cháy chữa cháy… nên ảnh hưởng tới tiến độ thi công, bàn giao
nhà cho ông D.
Hiện nay Công ty đã hoàn thiện thủ tục nộp hồ sơ nghiệm thu hệ thống phòng
cháy, chữa cháy của Toà D (trong đó có căn hộ của ông D) lên cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, hoàn tất thủ tục phê duyệt nghiệm thu để cố gắng bàn giao căn hộ cho
ông D trong năm 2024, Công ty rất mong ông D chia sẻ, tạo điều kiện cho công ty
T2 thời gian đến khoảng cuối năm 2024 sẽ bàn giao căn hộ.

6
Về phía ông Huỳnh Trí D cũng chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán
theo hợp đồng nên Công ty đã đưa ra yêu cầu phản tố. Ngày 12/8/2024, Toà án đã
thụ lý đơn yêu cầu phản tố của Công ty P2, nội dung phản tố cụ thể như sau:
Theo thỏa thuận tại khoản 3.3 điều 3 Hợp đồng số 2401/2018/HĐMBCH-
ADĐN và các Phụ lục ký kết giữa Hai Bên thì tiến độ Khách hàng có trách nhiệm
thanh toán cho Chủ Đầu tư như sau:
Kỳ/Đợt
TT
Thời hạn
thanh toán
Tỷ lệ thanh
toán
Lũy kế tỷ
lệ thanh
toán
Lũy kế số
tiền phải
thanh toán
(VNĐ)
Ghi chú
Đợt 1
Ngay khi ký
HĐMB
40%
(chưa VAT)
40%
3,473,524,00
0
Đã bao gồm
tiền đặt cọc;
chưa VAT
Đợt 2
30 ngày kể từ
ngày ký
HĐMB
(13/4/2018)
30%
70%
6,078,667,00
0
chưa VAT
Đợt 3
Dự kiến
15/6/2018
10%
80%
7,629,272,00
0
bao gồm VAT
Đợt 4
Dự kiến
15/9/2018
10%
90%
8,582,931,00
0
bao gồm VAT
Đợt 5
Dự kiến
15/11/2018
5% + 2%
KPBT
95%
+ 2%
KPBT
9,233,440,50
0
bao gồm VAT
Đợt 6
Theo Thông
báo thủ tục cấp
GCN
5%
100%
+ 2%
KPBT
9,710,270,00
0
bao gồm VAT
Thực tế đến ngày 29/03/2018: ông D mới thanh toán số tiền là
6.078.667.000 đồng tương đương 70% giá trị Hợp Đồng chưa bao gồm VAT (Xác
nhận thanh toán ngày 29/3/2018); Chủ đầu tư đã xuất hóa đơn cho giá trị thanh toán
trên vào ngày 31/03/2018 (tài liệu đính kèm). Như vậy, tính đến nay ông D mới
thanh toán được 63,74% giá trị Hợp đồng đã bao gồm VAT.
Kể từ ngày 29/03/2018 đến nay ông D mới thanh toán hết tiến độ của kỳ/đợt
2 và không thanh toán thêm bất kỳ số tiền đến hạn nào cho Chủ đầu tư. Như vậy, giá
7
trị ông D chưa thanh toán đúng tiến độ theo Hợp đồng của đợt 3 và đợt 4 kể từ ngày
15/06/2018 đến nay là: 2.504.264.000 đồng.
Do đó, Công ty không đồng ý với yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của ông
Huỳnh Trí D và đưa ra yêu cầu phản tố: yêu cầu Toà án buộc ông Huỳnh Trí D phải
thực hiện nghĩa vụ thanh toán đến 90% giá trị hợp đồng (đã bao gồm VAT) với số
tiền là 2.504.264.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên toà Công ty P2 thừa nhận bản hợp
đồng do ông D xuất trình là bản hợp đồng chính thức sau khi đã được điều chnh và
rút một phần yêu cầu phản tố đối với số tiền 767.502.000 đồng, ch yêu cầu buộc
ông Huỳnh Trí D phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán đến 90% giá trị hợp đồng
(chưa bao gồm VAT) với số tiền là 1.736.762.000 đồng.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng
Đối với thủ tục tố tụng: Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa hôm nay,
Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự. Các đương sự trong vụ án đã được đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ
các nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đối với nội dung vụ án: Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, phần trình bày của đương sự tại phiên tòa hôm nay và các quy định của pháp
luật, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ các Điều 17, 18 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 và các Điều 117,
398, 401, 403, 410 và 430 Bộ luật Dân sự 2015, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng
dân sự, đề nghị HĐXX:
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Huỳnh Trí
D.
- Đình ch một phần yêu cầu phản tố của bị đơn đối với số tiền 767.502.000
đồng.
- Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, buộc nguyên đơn ông
Huỳnh Trí D phải thanh toán cho Công ty P2 số tiền 1.736.762.000 đồng.
- Án phí dân sự sơ thẩm nguyên đơn ông Huỳnh Trí D phải chịu theo quy
định của pháp luật.
* Với nội dung vụ án như trên, Bản dân sự sơ thẩm số: 83/2024/DS-ST ngày
21 tháng 11 năm 2025 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng
quyết định:
Căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a
khoản 1 Điều 39, Điều 157, 158, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 116, 117, 119, 418 và 430 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ Điều 123 Luật Nhà ở;
Căn cứ các Điều 16, 17, 18, 55 Luật kinh doanh bất động sản;
8
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Trí D đối với Công
ty Cổ phần P2 về việc buộc Công ty Cổ phần P2 phải trả cho ông Huỳnh Trí D tiền
phạt vi phạm hợp đồng tính từ ngày 29/01/2019 đến ngày xét xử (21/11/2024) với
lãi suất 0.05%/ngày trên tổng số tiền mua căn hộ mà ông D đã thanh toán
(6.078.667.000 đồng) là: 6.455.544.354 đồng và buộc Công ty cổ phần P2 tiếp tục
thanh toán cho ông Huỳnh Trí D tiền phạt vi phạm hợp đồng tính từ ngày
22/11/2024 cho đến ngày Công ty cổ phần P2 thực tế bàn giao căn hộ cho ông.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần P2 đối với ông
Huỳnh Trí D. Buộc ông Huỳnh Trí D phải thanh toán cho Công ty cổ phần P2 đến
90% giá trị hợp đồng (chưa bao gồm VAT) là 1.736.762.000 đồng.
3. Đình ch xét xử một phần yêu cầu phản tố của Công ty cổ phần P2 do đã rút
một phần yêu cầu phản tố đối với số tiền 767.502.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí, thi hành án dân sự và
quyền kháng cáo của đương sự.
* Ngày 25 tháng 11 năm 2024, nguyên đơn – ông Huỳnh Trí D có Đơn kháng
cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo:
- Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 21/11/2024, bị đơn Công ty P2 thừa nhận bản
Hợp đồng mua bán căn hộ (Số:…./…./HĐMBCH-ADĐN) ngày 14/3/2018 do ông
D cung cấp bản chính cho Tòa án cấp sơ thẩm là hợp đồng đúng. Theo tiến độ thanh
toán theo khoản 3.3 Điều 3 của Hợp đồng, ông D đã thanh toán đạt tới 70% giá trị
căn hộ. Đến nay, bị đơn chưa có thông báo bàn giao của chủ đầu tư, tức chưa đủ
điều kiện thanh toán đợt 4 và đợt 5 theo quy định tại khoản 3.3 Điều 3 của Hợp
đồng.
- Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ quy định tại điểm a khoản 6.2 Điều 6 của Hợp
đồng về nghĩa vụ của Bên mua: “Thanh toán đầy đủ và đúng hạn số tiền mua Căn
Hộ và kinh phí bảo trì phần sở hữu chung 2% theo thỏa thuận tại Điều 3 của Hợp
đồng này không phụ thuộc vào việc có hay không có thông báo thanh toán tiền mua
căn hộ của Bên Bán” để kết luận ông D vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền là sai sự
thật. Điểm a khoản 6.2 Điều 6 của Hợp đồng quy định việc thanh toán tiền phải đầy
đủ và đúng quy định tại khoản 3.3 Điều 3 của Hợp đồng. Đối chiếu với bảng tiến độ
thanh toán quy định tại khoản 3.3.Điều 3 của Hợp đồng ông D đã thanh toán đầy đủ
và đúng tiến độ. Đợt 4 và Đợt 5 ch đến hạn thanh toán khi có thông báo bàn giao
của chủ đầu tư. Như vậy, kể cả nếu áp dụng điểm a khoản 6.2 Điều 6, tức không cần
thông báo thanh toán tiền, thì nghĩa vụ thanh toán Đợt 4 và Đ 5 cũng ch phát sinh
cho bên mua khi và ch khi có thông báo bàn giao của chủ đầu tư. Đến nay, bị đơn
9
chưa có thông báo bàn giao của chủ đầu tư, nên chưa phát sinh nghĩa vụ thanh toán
Đợt 4 và Đợt 5.
- Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ khoản 8.3 Điều 8 của Hợp đồng quy định: “Việc
bàn giao Căn Hộ sẽ chỉ được thực hiện sau khi Bên Mua hoàn tất và thanh toán đầy
đủ tiến độ thanh toán Giá Bán Căn Hộ quy định tại Điều 3 của Hợp đồng (tức là khi
Bên Bán đã nhận đủ 95% Giá trị Căn Hộ đã bao gồm VAT cũng toàn bộ thuế GTT
của 5% giá Căn Hộ còn lại còn lại và kinh phí bảo trì phần sở hữu chung khu Căn
Hộ theo quy định)” để cho rằng Bên Mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán là có nhầm
lẫn nghiêm trọng. Theo quy định của khoản 8.3 Điều 8 của Hợp đồng, nghĩa là: ch
khi nào Bên Bán thông báo bàn giao, Bên Mua mới phải thực hiện nghĩa vụ thanh
toán Đợt 4 và Đợt 5. Chừng nào Bên Bán đã thông báo bàn giao nhưng Bên Mua
không thanh toán Đợt 4 và Đ 5 thì Bên Mua mới vi phạm nghĩa vụ thanh toán và khi
đó Bên Bán không bàn giao căn hộ cho Bên Mua cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ
thanh toán đợt 4 và đợt 5 thì mới được bàn giao căn hộ.
- Tại thời điểm xét xử sơ thẩm, bị đơn vẫn chưa thể bàn giao căn hộ, nhưng
Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 12.2 và khoản 12.5 Điều 12 của Hợp đồng
để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc phạt vi phạm đối với bị đơn
là không đúng.
- Bị đơn có vi phạm về hình thức Đơn phản tố. Đơn phản tố bổ sung ngày
24/7/2024 không do người đại diện hợp pháp của bị đơn ký và đóng dấu của bị đơn
mà do cá nhân bà Bùi Thị P là đại diện theo ủy quyền của bị đơn ký là không đúng
quy định của khoản 3 Điều 189, Điều 202 Bộ luật Tố tụng Dân sự, không có giá trị
pháp lý. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm cần căn cứ điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố
tụng dân sự đình ch yêu cầu phản tố của bị đơn, trả lại đơn phản tố cho bị đơn theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết, chấp nhận kháng cáo của ông
Huỳnh Trí D, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Trí D;
- Buộc Công ty P2 thanh toán cho ông D tiền phạt vi phạm do chậm bàn giao
Căn hộ tạm tính từ ngày 29/01/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm 21/11/2024 với số tiền
cụ thể: 6.078.667.000đ x 2.124 ngày x 0,05%/ngày = 6.455.544.354 đồng.
- Buộc Công ty P2 tiếp tục thanh toán cho ông Huỳnh Trí D tiền phạt vi phạm
tạm tính từ ngày 22/11/2024 đến ngày Công ty P2 giao căn hộ thực tế cho ông D.
- Đình ch yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty P2.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn ông Huỳnh Trí D và người đại diện hợp pháp của ông D có thay
đổi một phần nội dung kháng cáo về khoản tiền phạt vi phạm do Công ty P2 chậm
bàn giao căn hộ. Cụ thể:
10
- Tại đơn kháng cáo yêu cầu đề nghị buộc Công ty P2 phải trả tiền phạt vi
phạm do chậm bàn giao căn hộ theo quy định tại Hợp đồng là 0,05%/ngày, tương
đương 18,25%/năm trên tổng số tiền ông D đã đóng cho Công ty P2 là
6.078.667.000đ. Nay ông Huỳnh Trí D ch yêu cầu trả tiền phạt vi phạm với mức
9%/năm trên tổng số tiền ông D đã đóng cho Công ty P2 là 6.078.667.000đ, theo
mức đề xuất của Công ty P2 gửi cho ông D tại thư điện tử ngày 26/3/2019. Thời
điểm tính tiền phạt chậm bàn giao được tính từ ngày Công ty P2 phải bàn giao căn
hộ theo Hợp đồng là 29/01/2019 đến ngày mở phiên tòa xét xử phúc thẩm là ngày
30/6/2025. Tổng số tiền chậm trả Công ty P2 phải thanh toán cho ông D là
(6.078.667.000đ x 9%/năm) = 3.514.801.830đ. Ông D đề nghị cấn trừ số tiền này
vào các đợt thanh toán tiếp theo của ông D cho Công ty P2 theo Hợp đồng. Công ty
P2 tiếp tục thanh toán cho ông D tiền phạt vi phạm tính từ ngày tiếp theo của ngày
mở phiên tòa phúc thẩm là ngày 01/7/2025 đến ngày Công ty P2 giao căn hộ thực tế
cho ông D.
- Về yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty P2, ông Huỳnh Trí D kháng cáo đề
nghị đình ch yêu cầu phản tố của Công ty P2, nay ông D thay đổi đề nghị không
chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty P2.
- Bị đơn Công ty P2 đề nghị HĐXX không chấp nhận nội dung kháng cáo của
nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Đại diện hợp pháp của bị đơn Công ty P2 không thống nhất với nội dung
kháng cáo của nguyên đơn ông Huỳnh Trí D, đề nghị HĐXX không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng tại cấp
phúc thẩm đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá
trình giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm.
Về nội dung vụ án: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Huỳnh Trí D, sửa
01 phần Bản án dân sự sơ thẩm số 83/2024/DS-ST ngày 21/11/2024 của Tòa án
nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo hướng như sau:
- Buộc Công ty P2 thanh toán cho ông D tiền lãi 9%/năm trên tổng số tiền ông
D đã đóng cho Công ty P2 là 6.078.667.000đ, thời gian tính từ ngày 29/01/2019 đến
ngày mở phiên tòa xét xử phúc thẩm ngày 30/6/2025 (có trừ thời gian bị ảnh hưởng
dịch Covid 19 là 21 tháng, từ tháng 04/2019 đến tháng 12/2021). Số tiền phạt hợp
đồng mà Công ty Cổ phần P2 phải thanh toán cho ông Huỳnh Trí D sẽ khấu trừ vào
các đợt thanh toán tiếp (đợt 4 và đợt 5) theo thỏa thuận tại hợp đồng.
- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc ông Huỳnh Trí D
phải thanh toán đợt 04 và đợt 5 của hợp đồng với số tiền 1.736.762.000đ.
11
Án phí dân sự sơ thẩm được xác định lại theo quyết định của Bản án phúc
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng.
[1.1] Về thời hạn, nội dung kháng cáo của các đương sự: Nguyên đơn ông
Huỳnh Trí D có đơn kháng cáo vào ngày 25 tháng 11 năm 2024 đối với Bản án dân
sự sơ thẩm số: 83/2024/DS-ST ngày 21 tháng 11 năm 2025 của Tòa án nhân dân
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Về thời hạn và nội dung kháng cáo của bị đơn
đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự và đã nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định tại Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên
được thụ lý giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Về thay đổi một phần nội dung kháng cáo: Tại đơn kháng cáo yêu cầu
đề nghị buộc Công ty P2 phải trả tiền phạt vi phạm do chậm bàn giao căn hộ theo
quy định tại Hợp đồng theo mức lãi suất là 0,05%/ngày, tương đương 18,25%/năm
trên tổng số tiền ông D đã thanh toán cho Công ty P2 là 6.078.667.000đ. Tại phiên
tòa phúc thẩm, ông Huỳnh Trí D và người đại diện hợp pháp cho ông D ch yêu cầu
trả tiền phạt vi phạm với mức 9%/năm trên tổng số tiền ông D đã đóng cho Công ty
P2 là 6.078.667.000đ. Thời điểm tính tiền phạt chậm bàn giao được tính từ ngày
Công ty P2 phải bàn giao căn hộ theo Hợp đồng là 29/01/2019 đến ngày mở phiên
tòa xét xử phúc thẩm là ngày 30/6/2025. Tổng số tiền chậm trả Công ty P2 phải
thanh toán cho ông D là (6.078.667.000đ x 9%/năm x 2.345 ngày (06 năm 05 tháng
02 ngày)) = 3.514.801.830đ. Đồng thời, về yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty P2
về việc buộc ông Huỳnh Trí D phải thanh toán cho Công ty P2 đến 90% giá trị hợp
đồng (chưa bao gồm VAT) là 1.736.762.000 đồng. Ông D kháng cáo đề nghị đình
ch yêu cầu phản tố của bị đơn. Tại phiên tòa phúc thẩm ông D thay đổi, đề nghị
HĐXX phác thẩm không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty P2. Việc
thay đổi một phần nội dung kháng cáo của ông Huỳnh Trí D tại phiên tòa phúc thẩm
là tự nguyện, không vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu theo quy định tại khoản 3
Điều 284 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn – ông Huỳnh Trí D.
[2.1] Xét tính hợp pháp của căn hộ đưa vào kinh doanh:
Chủ đầu tư là Công ty Cổ phần P2 được Sở kế hoạch đầu tư thành phố Đ cấp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 0401622745. Căn hộ mà Công ty P2
thực hiện mua bán thuộc dự án Tổ H - S là công trình xây dựng trên diện tích đất đã
được Ủy ban nhân dân thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO
767849 và số Đ499610 ngày 30/11/2015, có đầy đủ hồ sơ được Ủy ban nhân dân
thành phố Đ phê duyệt theo Quyết định đầu tư số: 3989/QĐ-UBND ngày 11/9/2018,
được Sở Xây dựng thành phố Đ cấp Giấy phép xây dựng số: 393/GPXD ngày
20/9/2019, có biên bản nghiệm thu đã hoàn thành xong phần móng. Như vậy, căn hộ

12
được các bên mua bán đã đảm bảo điều kiện đưa vào kinh doanh theo quy định tại
Điều 55 của Luật kinh doanh bất động sản.
[2.2] Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, nguyên đơn ông Huỳnh Trí D
cung cấp bản chính Hợp đồng mua bán căn hộ (Số:…./…./HĐMBCH-ADĐN) Mã
căn hộ: SLD-27-16 (không ghi số/năm), Công ty P2 cung cấp bản Hợp đồng số:
2401/2018/HĐMBCH-ADĐN, cả hai bản Hợp đồng đều ký ngày 14/3/2018 giữa
Công ty CP P2 và Khách hàng (ông) Huỳnh Trí D, nhưng có nội dung khác nhau tại
điểm a khoản 3.3 Điều 3 (Về thời hạn thanh toán) và khoản 8.2 Điều 8 (về Ngày bàn
giao dự kiến). Tại phiên toà sơ thẩm, ông D và đại diện hợp pháp của Công ty P2
thừa nhận, bản hợp đồng do Công ty P2 cung cấp bị sai về tỷ lệ thanh toán, cụ thể là
tỷ lệ thanh toán lên đến 110%, không phù hợp với Thông báo số : 168/ATĐN-PC
ngày 18/12/2017 của Công ty P2 gửi cho ông Huỳnh Trí D trước khi ký kết hợp
đồng. Do đó, hai bên điều chnh lại Hợp đồng mới là bản Hợp đồng mua bán căn hộ
(Số:…./…./HĐMBCH-ADĐN) Mã căn hộ: SLD-27-16 ký ngày 14/3/2018, do ông
D cung cấp, đây là bản Hợp đồng chính thức sau khi đã được hai bên điều chnh,
thực hiện (gọi tắt là Hợp đồng). Hợp đồng và các Phụ lục hợp đồng được ông D và
Công ty P2 ký kết bằng văn bản, nội dung các điều khoản trong hợp đồng không trái
pháp luật, đạo đức xã hội, các chủ thể giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực trách
nhiệm dân sự, việc ký kết hợp đồng là hoàn toàn tự nguyện, hình thức và nội dung
hợp đồng phù hợp với quy định tại các Điều 17, 18 Luật kinh doanh bất động sản,
các điều 117, 398, 401, 403 và 430 Bộ luật Dân sự. Do đó, Bản án sơ thẩm xác định
Hợp đồng mua bán căn hộ do ông D cung cấp có có giá trị pháp lý làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của các bên theo Hợp đồng là có căn cứ. Đối với bản Hợp đồng
số 2401/2018/HĐMBCH-ADĐN ngày 14/03/2018 do Công ty P2 cung cấp không
có giá trị, do đó, về thời hạn thanh toán Công ty P2 nêu tại điểm a khoản 3.3 Điều 3
Hợp đồng số 2401/2018/HĐMBCH-ADĐN là không có cơ sở chấp nhận.
[2.3] Điều 3 của Hợp đồng mua bán căn hộ (Số:…./…./HĐMBCH-ADĐN)
Mã căn hộ: SLD-27-16 ký ngày 14/3/2018 (Hợp đồng) quy định về giá bán căn hộ,
phương thức thanh toán và thời hạn thanh toán.
[2.3.1] Giá bán căn hộ là 9.710.270.000 đồng, bao gồm giá trị tiền sử dụng
đất: 8.683.810.000 đồng, thuế giá trị gia tăng: 852.780.000 đồng, kinh phí bảo trì
phần sở hữu chung của Khu căn hộ bằng 2% giá bán căn hộ: 173.680.000 đồng
(khoản 3.1 Điều 3).
[2.3.2] Thời hạn thanh toán quy định tại điểm a, khoản 3.3 Điều 3:
Kỳ thanh
toán
Thời hạn thanh toán/ tiến
độ xây dựng
Lũy kế số tiền phải
thanh toán
Ghi chú

13
(VNĐ)
Đợt 1
Ngay khi thỏa thuận đặt
cọc
30% giá trị căn hộ (đã bao
gồm số tiền đặt chỗ (nếu
có)
Chưa có VAT
và phí bảo trì
Đợt 2
Xong thô tầng 35 và ngay
khi ký hợp đồng mua bán
(dự kiến trước ngày
25/12/2017)
30% giá trị căn hộ (Chưa
có VAT và phí bảo trì)
Đợt 3
Xong phần thô và cất nóc
tòa nhà D; Dự kiến trước
ngày 05/02/2018
10% giá trị căn hộ (Chưa
có VAT và phí bảo trì)
Đợt 4
Dự kiến 15/4/2018
20% giá trị căn hộ (Chưa
có VAT và phí bảo trì)
Theo thông
báo bàn giao
Đợt 5
Dự kiến 15/7/2018
5% giá trị căn hộ + 2%
giá trị căn hộ (kinh phí
bảo trì) + VAT của toàn
bộ giá bán căn hộ
của Chủ đầu
tư
Đợt 6
Thông báo thủ tục cấp giấy
chứng nhận (Theo quy định
của pháp luật về Condotel)
5% giá trị căn hộ (Chưa
có VAT và phí bảo trì)
[2.3.3] Về thời hạn thanh toán tiền mua căn từ Đợt 1 đến Đợt 3 Hợp đồng
quy định, dự kiến trước ngày 05/02/2018, ông Huỳnh Trí D phải thanh toán 70% giá
trị Hợp đồng (Chưa có VAT và phí bảo trì). Thực tế, ông D đã thanh toán
200.000.000 đồng ngày 19/05/2017 theo Ủy nhiệm chi của Ngân hàng B1, (Công ty
P2 có Giấy xác nhận ngày 24/5/2017, nội dung thanh toán: Nộp tiền đặt cọc lần
01); Ngày 27/6/2017 ông D nộp tiếp số tiền 2.405.143.000 đồng (Công ty P2 có
Giấy xác nhận ngày 24/5/2017, ghi nội dung thanh toán là: Nộp tiền đặt cọc 30%
căn hộ SLD-27-16); Ngày 29/03/2018 ông D nộp tiếp số tiền 3.473.524.000 đồng
(Công ty P2 có Giấy xác nhận ghi nội dung thanh toán là: Thanh toán đến 70% căn
hộ SLD-27-16). Như vậy, ông D đã thanh toán đến 70% giá trị căn hộ (chưa có VAT
và phí bảo trì), tương ứng với Đợt 1, Đợt 2 và Đợt 3 (tổng cộng 6.078.667.000
đồng) theo đúng quy định về thời hạn thanh toán tại điểm a, khoản 3.3 Điều 3 của
Hợp đồng.
Công ty P2 cho rằng số tiền 6.078.667.000 đồng ông Huỳnh Trí D đã thanh
toán nếu tính cả thuế giá trị gia tăng thì chưa đủ 70% của giá trị hợp đồng nên không
14
đủ điều kiện để phạt hợp đồng theo thỏa thuận. Theo quy định tại điểm a khoản 3.3
Điều 3 của Hợp đồng thì hai bên thỏa thuận giá trị căn hộ theo các đợt thanh toán từ
Đợt 1 đến Đợt 4 là chưa có VAT và phí bảo trì. Tổng số tiền 6.078.667.000 đồng là
70% giá trị căn hộ ông D thanh toán từ Đ đến Đợt 3, chưa có VAT và phí bảo trì
theo quy định của Hợp đồng. Do đó, Công ty P2 cộng cả thuế VAT vào để cho rằng
ông D mới thanh toán được 63,74% giá trị Hợp đồng là không đúng với quy định
của Hợp đồng và chính Giấy xác nhận ngày 29/03/2018 của Công ty P2 gửi cho ông
D xác nhận nội dung thanh toán là: Thanh toán đến 70% căn hộ SLD-27-16.
[2.3.4] Về thời hạn thanh toán Đợt 4 và Đợt 5 Hợp đồng quy định.
Đợt 4, dự kiến ngày 15/4/2018, thanh toán 20% giá trị căn hộ (Chưa có VAT
và phí bảo trì). Đợt 5, dự kiến ngày 15/4/2018, thanh toán 5% giá trị căn hộ + 2%
giá trị căn hộ (kinh phí bảo trì) + VAT của toàn bộ giá bán căn hộ. Tại phần ghi chú
Hợp đồng quy định, thời hạn thanh toán Đợt 4 và Đợt 5 (thanh toán đến 95% đã bao
gồm VAT của toàn bộ giá bán căn hộ và kinh phí bảo trì phần sở hữu chung khu
căn hộ là 2% giá trị căn hộ) là theo Thông báo bàn giao của Chủ đầu tư. Theo
Hợp đồng quy định cũng như thừa nhận của đại diện hợp pháp Công ty P2 tại phiên
tòa phúc thẩm, Thông báo bàn giao của Chủ đầu tư chính là Thông Báo Bàn Giao
Căn Hộ của Chủ đầu tư (Công ty P2) theo quy định tại khoản 8.3 Điều 8 và Phụ lục
6 của Hợp đồng mua bán căn hộ.
[2.3.5] Khoản 8.3 Điều 8 của Hợp đồng quy định: “Trước ngày bàn giao
thực tế Căn Hộ là 10 ngày, Bên Bán sẽ gửi văn bản thông báo cho Bên Mua về thời
gian, địa điểm và thủ tục nhận bàn giao Căn H1 (gọi là Thông Báo Bàn Giao C),
trong thông báo cũng sẽ ghi rõ:
a. Việc bàn giao Căn Hộ sẽ chỉ được thực hiện sau khi Bên Mua hoàn tất và
thanh toán đầy đủ tiến độ thanh toán giá bán căn hộ quy định tại Điều 3 của Hợp
đồng (tức là khi Bên Bán đã nhận đủ 95% giá căn hộ đã bao gồm VAT cùng toàn bộ
thuế GTGT của 5% giá Căn Hộ còn lại và Kinh phí bảo trì phần sở hữu chung khu
căn hộ theo quy định)”.
b. Khoản tiền trả khi bàn giao, bao gồm:
(i) Kinh phí bảo trì theo quy định của pháp luật.
(ii) Tất cả các khoản tiền đến hạn khác mà Bên Mua phải thanh toán cho Bên
Bán theo Hợp đồng này (nếu có) tính đến Ngày Bàn Giao Dư Kiến hoặc Ngày Bàn
Giao Thực Tế, tùy từng trường hợp.
15
(iii) Các khoản tiền lãi phát sinh do chậm thanh toán (nếu có) theo quy định
tại điểm a Điều 3.3 của Hợp đồng này.
Theo quy định tại điểm a khoản 3.3 Điều 3 và điểm a, b khoản 8.3 Điều 8 nêu
trên, khi nào Công ty P2 gửi Thông Báo Bàn Giao Căn Hộ thì ông Huỳnh Trí D
mới phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán Đợt 4 và Đợt 5 (thanh toán đến 95% đã bao
gồm VAT của toàn bộ giá bán căn hộ và Kinh phí bảo trì phần sở hữu chung khu
căn hộ là 2% giá trị căn hộ). Nếu ông D không thanh toán Đợt 4 và Đợt 5 sau khi
nhận được Thông Báo Bàn Giao Căn Hộ thì mới vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Ông
D phải hoàn thành việc thanh toán tiền Đợt 4 và Đợt 5, thì mới được nhận bàn giao
Căn Hộ trên thực tế. Thỏa thuận của hai bên tại Hợp đồng là phù hợp với khoản 1
Điều 57 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 quy định về thanh toán trong mua
bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai: Việc thanh toán trong mua
bán, thuê mua bất động sản hình thành trong tương lai được thực hiện nhiều lần,
lần đầu không quá 30% giá trị hợp đồng, những lần tiếp theo phải phù hợp với tiến
độ xây dựng bất động sản nhưng tổng số không quá 70% giá trị hợp đồng khi chưa
bàn giao nhà, công trình xây dựng cho khách hàng; trường hợp bên bán, bên cho
thuê mua là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tổng số không quá 50% giá
trị hợp đồng.
Trường hợp bên mua, bên thuê mua chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì bên bán, bên
cho thuê mua không được thu quá 95% giá trị hợp đồng; giá trị còn lại của hợp
đồng được thanh toán khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho
bên mua, bên thuê mua”.
[2.3.6] Tại phiên tòa phúc thẩm, ngày 30/6/2025, HĐXX phúc thẩm đã tiến
hành xem xét thẩm định tại chỗ Căn Hộ có tranh chấp thì thấy: Hiện nay Căn Hộ đã
hoàn thành, trang thiết bị nội thất đã được lắp đặt đầy đủ, ch còn thiếu một số vật
liệu như: 03 điện thoạt để bàn, một đèn trang trí sofa, 02 đệm ở hai phòng ngủ, 04
đèn đầu gường. Công ty P2 cung cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật
tự số: 683/GCN ngày 21/5/2025 của Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về Trật tự
xã hội Công an T3 và Văn bản số: 3969/NT-PCCC ngày 31/12/2024 của Cục C3 và
CNCH Bộ C4 về việc chấp thuận nghiệm thu về phòng cháy chữa cháy đối với hạng
mục công trình Phần ngầm và Khối D thuộc Dự án Tổ hợp Ánh Dương – Soleil của
Chủ đầu tư: Công ty P2. Tuy nhiên, đến thời điểm ngày 30/6/2025 Công ty P2 vẫn
chưa có văn bản chấp thuận kết quả nghiệm thu công trình đưa vào sử dụng của cơ
quan có thẩm quyền (theo đại diện Công ty P2, Bộ X đã kiểm tra nhưng chưa ban
16
hành văn bản chấp thuận). Vì vậy, đến thời điểm xét xử phúc thẩm Căn Hộ SLD-27-
16 theo Hợp đồng hai bên ký kết vẫn chưa đủ điều kiện để bàn giao đưa vào sử dụng
theo quy định của pháp luật. Đại diện hợp pháp của Công ty P2 thừa nhận cho đến
thời điểm xét xử phúc thẩm, Công ty P2 chưa có Thông Báo Bàn Giao Căn Hộ gửi
cho ông D. Do đó, kháng cáo ông D xác định ông không vi phạm thời hạn thanh
toán tiền Đợt 4 và Đ 5 theo quy định tại điểm a khoản 3.3 Điều 3 của Hợp đồng và
theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 là có căn
cứ.
[2.3.7] Công ty P2 cho rằng, theo quy định tại điểm c khoản 3.2 Điều 3 Hợp
đồng quy định: Trước mỗi đợt thanh toán, Bên Bán sẽ gửi thông báo thanh toán số
tiền phải nộp cho Bên Mua. Tuy nhiên, tại điểm a khoản 6.2 Điều 6 quy định về
nghĩa vụ của Bên Mua căn hộ: Thanh toán đầy đủ và đúng hạn số tiền mua Căn hộ
và kinh phí bảo trì phần sở hữu chung 2% theo thỏa thuận tại Điều 3 của Hợp đồng
này không phụ thuộc vào việc có hay không có thông báo thanh toán tiền mua căn
hộ của Bên Bán. Do đó, ông Huỳnh Trí D đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo
điểm a khoản 3.3 Điều 3 Hợp đồng. Trình bày của Công ty P2 là không có cơ sở.
Bởi lẽ, điểm c khoản 3.2 Điều 3 và điểm a khoản 6.2 Điều 6 của Hợp đồng quy định
về việc Công ty P2 gửi thông báo thanh toán số tiền phải nộp, còn quy định tại điểm
a khoản 3.3 Điều 3 và điểm a, b khoản 8.3 Điều 8 Hợp đồng như nêu trên đối với
thời hạn thanh toán Đợt 4 và Đợt 5 là khi Công ty P2 phải gửi Thông Báo Bàn Giao
Căn Hộ cho ông D. Ngoài ra, để thanh toán Đợt 4 và Đợt 5 (thanh toán đến 95% đã
bao gồm VAT của toàn bộ giá bán căn hộ và Kinh phí bảo trì phần sở hữu chung
khu căn hộ là 2% giá trị căn hộ) khi Công ty P2 chưa bàn giao Căn hộ cho ông D là
không đúng quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật kinh doanh bất động sản năm 2014
như nêu trên. Do đó, kháng cáo ông D cho rằng, kể cả nếu áp dụng điểm a khoản 6.2
Điều 6, tức không cần thông báo thanh toán tiền, thì nghĩa vụ thanh toán Đợt 4 và
Đợt 5 của ông D cũng ch phát sinh khi có Thông Báo Bàn Giao Căn Hộ của chủ
đầu tư. Đến nay, Công ty P2 chưa có Thông Báo Bàn Giao Căn Hộ, nên chưa phát
sinh nghĩa vụ thanh toán của ông D đối với Đợt 4 và Đợt 5 là có căn cứ.
[2.3.8] Về thời hạn bàn giao Căn hộ theo quy định tại Hợp đồng. Theo quy định
tại điểm e khoản 5.2 Điều 5 và khoản 8.2 Điều 8: Công ty P2 có nghĩa vụ bàn giao
căn hộ và các giấy tờ pháp lý có liên quan đến căn hộ cho ông Huỳnh Trí D dự kiến
vào Quý 3/2018 (gọi là “Ngày bàn giao dự kiến”). Việc bàn giao căn hộ thực tế có
thể sớm hơn hoặc muộn hơn so với ngày bàn giao dự kiến, nhưng sẽ không sớm
hoặc chậm quá 120 (một trăm hai muơi) ngày kể từ ngày bàn giao dự kiến. Như vậy,
"Ngày bàn giao dự kiến” chậm nhất là ngày 30/9/2018 và ngày bàn giao căn hộ thực
tế không được chậm hơn ngày 28/01/2019. Tính từ ngày 29/01/2019 là ngày Công
ty P2 đã vi phạm nghĩa vụ bàn giao Căn Hộ cho ông D theo quy định tại Hợp đồng.
17
[2.3.9] Khoản 12.2 Điều 12 của Hợp đồng quy định hình thức xử lý vi phạm
khi Bên Bán chậm trễ bàn giao Căn Hộ cho Bên Mua như sau:
a, Nếu Bên Mua đã thanh toán giá bán căn hộ theo tiến độ thoả thuận trong
Hợp đồng hoặc đã khắc phục vi phạm về nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận trong
Hợp đồng (nếu có) nhưng quá thời hạn 120 (một trăm hai mươi) ngày kể từ ngày
bàn giao theo thỏa thuận tại Điều 8 của hợp đồng mà Bên Bán vẫn chưa bàn giao
căn hộ cho Bên Mua thì Bên Bán phải thanh toán cho Bên Mua khoản tiền phạt vi
phạm với lãi suất là 0.05%/ngày (không phẩy không năm phần trăm) trên tổng số
tiền mà Bên Mua đã thanh toán cho Bên Bán và được tính từ ngày thứ 121 (một
trăm hai mốt) kể từ ngày bàn giao dự kiến đến ngày Bên Bán bàn giao căn hộ thực
tế cho Bên Mua.
b, Nếu Bên Bán chậm bàn giao căn hộ quá 210 (hai trăm mười) ngày kể từ
ngày bàn giao dự kiến theo thỏa thuận tại Điều 8 của hợp đồng thì Bên Mua có
quyền tiếp tục thực hiện hợp đồng với thỏa thuận bổ sung về thời điểm bàn giao
Căn Hộ mới trong trường hợp này Bên Mua sẽ đuợc áp dụng lãi suất phạt chậm bàn
giao của Bên Bán tương tự tại Điều 12.2.a hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng
theo thỏa thuận tại Điều 15 của Hợp đồng này.
Như đã phân tích tại phần [2.3.8] "Ngày bàn giao dự kiến” chậm nhất là ngày
30/9/2018 và ngày bàn giao Căn Hộ thực tế không được chậm hơn ngày 28/01/2019.
Tính từ ngày 29/01/2019 là ngày Công ty P2 đã vi phạm nghĩa vụ bàn giao Căn Hộ
cho ông D theo quy định tại Hợp đồng. Do đó, ông Huỳnh Trí D khởi kiện yêu cầu
Toà án buộc Công ty P2 phải thanh toán cho ông khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng
với lãi suất 0.05%/ngày (18,25%/năm) trên tổng số tiền mà ông D đã thanh toán là
6.078.667.000 đồng tính từ ngày 29/01/2019 cho đến ngày Công ty P2 thực tế bàn
giao căn hộ là phù hợp với thỏa thuận của hai bên tại Hợp đồng. Tại phiên tòa phúc
thẩm, ông D, người đại diện hợp pháp của ông D xin thay đổi đối với mức lãi suất
yêu cầu phạt vi phạm, cụ thể: ch yêu cầu Công ty P2 phải thanh toán khoản tiền
phạt vi phạm với lãi suất là 9%/năm trên số tiền ông D đã thanh toán 6.078.667.000
đồng, như đề xuất của Công ty P2 An Thịnh gửi cho ông D tại thư điện tử ngày
26/3/2019, thời điểm tính phạt vi phạm là ngày 29/01/2019 đến ngày xét xử phúc
thẩm 30/6/2025 là (6.078.667.000 đồng x 2.345 ngày (06 năm 05 tháng 02 ngày) x
9%/năm = 3.514.801.830 đồng. Việc thay đổi mức lãi suất thanh toán tiền phạt vi
phạm là sự tự nguyện của ông D, mức lãi suất 9%/năm là ít hơn so với quy định
phạt vi phạm tại Hợp đồng và yêu cầu khởi kiện, kháng cáo và có lợi cho bị đơn
Công ty P2, do đó HĐXX chấp nhận. Tuy nhiên, trong thời gian Công ty P2 thực
hiện hợp đồng từ tháng 4/2020 đến tháng 12/2021 là 21 tháng (640 ngày) là thời
gian bị ảnh hưởng của đại dịch COVID - 19, là sự kiện bất khả kháng, nên không
18
chấp nhận yêu cầu thanh toán tiền phạt vi phạm của ông D đối với Công ty P2 trong
thời gian này, tương ứng với số tiền là: 6.078.667.000đ x 21 tháng (640 ngày) x
9%/năm = 959.263.614 đồng. Như vậy, tổng số tiền phạt vi phạm hợp đồng Công ty
P2 phải thanh toán cho ông D là (3.514.801.830đ - 959.263.614đ) = 2.555.538.216
đồng (làm tròn là 2.555.538.200 đồng). Công ty P2 còn phải tiếp tục thanh toán tiền
phạt vi phạm từ ngày 01/7/2025 đến ngày Công ty P2 thực tế cho ông D.
[2.3.10] Về yêu cầu đề nghị khấu trừ số tiền phạt hợp đồng mà Công ty P2 phải
thanh toán cho ông D vào các đợt thanh toán tiếp theo của ông D cho Công ty P2.
Xét, theo thỏa thuận tại Hợp đồng thì ông D còn phải thanh toán Đợt 4, Đợt 5 và
Đợt 6 cho Công ty P2 sau khi có Thông Báo Bàn Giao Căn Hộ của Công ty P2 theo
quy định tại khoản 8.3 Điều 8 và Phụ lục 6 của Hợp đồng. Do đó, yêu cầu của ông D
đề nghị khấu trừ số tiền phạt hợp đồng mà Công ty P2 phải thanh toán cho ông D
vào các đợt thanh toán tiếp theo của ông D cho Công ty P2 là phù hợp cần chấp
nhận.
[2.3.11] Về yêu cầu phản tố của Công ty P2: Công ty P2 có yêu cầu phản tố
cho rằng ông Huỳnh Trí D vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo Hợp đồng, yêu cầu ông
D có nghĩa vụ thanh toán Đợt 4 và Đ 5. Tuy nhiên, như HĐXX đã nhận định trên,
Công ty P2 chưa có Thông Báo Bàn Giao Căn Hộ cho ông D theo quy định tại Hợp
đồng, Căn H1 chưa đủ điều kiện để bàn giao, chưa đủ điều kiện thanh toán quá 70%
giá trị căn hộ theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật kinh doanh bất động sản 2014;
Và ông D khởi kiện buộc Công ty P2 phạt vi phạm hợp đồng do chậm bàn giao Căn
Hộ là có căn cứ như phân tích trên. Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của
Công ty P2 là không có căn cứ. Do đó, kháng cáo của ông D đối về việc không chấp
nhận yêu cầu phản tố của Công ty P2 là có cơ sở chấp nhập.
[3] Từ những phân tích nhận định trên, HĐXX chấp nhận ý kiến của đại diện
VKSND thành phố Đà Nẵng tại phiên tòa; chấp nhận một phần kháng cáo của
nguyên đơn ông Huỳnh Trí D, không chấp nhận ý kiến của đại diện hợp pháp Công
ty P2; Sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty P2 phải thanh toán khoản tiền phạt vi
phạm do chậm bàn giao căn hộ, với lãi suất là 9%/năm, tính từ ngày 29/01/2019 đến
ngày xét xử phúc thẩm 30/6/2025 (có trừ đi thời gian bị ảnh hưởng của đại dịch
COVID - 19, là 21 tháng), với số tiền là 2.555.538.200 đồng. Công ty P2 còn phải
tiếp tục thanh toán tiền phạt vi phạm với lãi suất 9%/năm trên số tiền ông D đã
thanh toán 6.078.667.000 đồng, tính từ ngày 01/7/2025 đến ngày Công ty P2 thực tế
cho ông D. Số tiền Công ty P2 phải thanh toán cho ông D được cấn trừ vào các đợt
thanh toán tiếp theo của ông D cho Công ty P2 theo Hợp đồng; Không chấp nhận
19
một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Trí D với số tiền là 959.263.614 đồng;
Không chấp nhận phản tố của P2 về việc Buộc ông Huỳnh Trí D phải thanh toán
cho Công ty cổ phần P2 đến 90% giá trị hợp đồng (chưa bao gồm VAT) là
1.736.762.000 đồng.
[4] Về án phí:
[4.1] Án phí dân sự sơ thẩm:
Công ty cổ phần P2 phải chịu án phí sơ thẩm đối với số tiền phải thanh toán
cho ông Huỳnh Trí D là 83.110.764 đồng và số tiền phản tố không được chấp nhận
là 64.102.860 đồng. Tổng công là 147.213.624 đồng.
Ông Huỳnh Trí D phải chịu án phí sơ thẩm đối với số tiền không được chấp
nhận là 40.777.908 đồng.
[4.2] Án phí phúc thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ông
Huỳnh Trí D không phải chịu án phí phúc thẩm là 300.000 đồng do kháng cáo được
chấp nhận một phần.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn ông Huỳnh Trí D.
Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số: 83/2024/DS-ST ngày 21 tháng 11
năm 2025 của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (nay là Tòa án
nhân dân Khu vực 2 – Đà Nẵng).
Căn cứ :
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều
157, 158, khoản 2 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các Điều 116, 117, 119, 418 và 430 của Bộ luật Dân sự;
- Điều 123 Luật Nhà ở; Các Điều 16, 17, 18, 55, 57 Luật kinh doanh bất
động sản 2014;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Trí D đối với Công
ty Cổ phần P2 về việc buộc Công ty Cổ phần P2 phải trả cho ông Huỳnh Trí D tiền
phạt vi phạm hợp đồng do chậm bàn giao Căn Hộ, tính từ ngày 29/01/2019 đến ngày
30/6/2025 (trừ thời gian từ tháng 4/2020 đến tháng 12/2021) là: 2.555.538.200 đồng
20
(Hai t, năm trăm năm mươi lăm triệu, năm trăm ba mươi tám ngàn, hai trăm đồng).
Công ty Cổ phần P2 còn phải tiếp tục thanh toán tiền phạt vi phạm với lãi suất
9%/năm trên số tiền ông D đã thanh toán 6.078.667.000 đồng, từ ngày 01/7/2025
đến ngày Công ty P2 thực tế cho ông D.
Số tiền Công ty Cổ phần P2 phải thanh toán cho ông Huỳnh Trí D được cấn
trừ vào các đợt thanh toán tiếp theo của ông Huỳnh Trí D cho Công ty Cổ phần P2
theo Hợp đồng mua bán căn hộ (Số:…./…./HĐMBCH-ADĐN) Mã căn hộ: SLD-
27-16 ký ngày 14/3/2018 giữa ông Huỳnh Trí D và Công ty Cổ phần P2.
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Huỳnh Trí D đối với
Công ty Cổ phần P2 về việc buộc Công ty Cổ phần P2 phải trả cho ông Huỳnh Trí D
tiền phạt vi phạm hợp đồng do chậm bàn giao Căn Hộ trong thời gian bị ảnh hưởng
của đại dịch COVID - 19, là 21 tháng (từ tháng 4/2020 đến tháng 12/2021) với số
tiền là 959.263.614 đồng (C1 trăm năm mươi chín triệu, hai trăm sáu mươi ba ngàn,
sáu trăm mười bốn đồng).
3. Không nhận yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần P2 đối với ông Huỳnh
Trí D. Buộc ông Huỳnh Trí D phải thanh toán cho Công ty Cổ phần P2 đến 90% giá
trị Hợp đồng (chưa bao gồm VAT) là 1.736.762.000 đồng (Một t, bảy trăm ba mươi
sáu triệu, bảy trăm sáu mươi hai ngàn đồng).
4. Đình ch xét xử một phần yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần P2 do đã
rút một phần yêu cầu phản tố đối với số tiền 767.502.000 đồng (Bảy trăm sáu mươi
bảy triệu, năm trăm lẻ hai ngàn đồng).
5. Về án phí.
5.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Công ty Cổ phần P2 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 147.213.624 đồng
(Một trăm bốn mươi bảy triệu, hai trăm mười ba ngàn, sáu trăm hai mươi bốn đồng),
được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0002819 ngày
12/8/2024 là 41.042.640 đồng (Bốn mươi mốt triệu, không trăm bốn mươi hai ngàn,
sáu trăm bốn mươi đồng) tại Chi cục thi hành án dân sự quận Sơn Trà (nay là Phòng
Thi hành án án dân sự Khu vực 2 – Đà Nẵng), thành phố Đà Nẵng. Còn phải nộp số
tiền là 106.170.984 đồng (Một trăm lẻ sáu triệu, một trăm bảy mươi ngàn, chín trăm
tám mươi bốn đồng).
- Ông Huỳnh Trí D phải chịu án phí sơ thẩm là 40.777.908 đồng (Bốn mươi
triệu, bảy trăm bảy mươi bảy ngàn, chín trăm lẻ tám đồng), được trừ vào số tiền tạm
ứng án phí 56.767.313 đồng (Năm mươi sáu triệu, bảy trăm sáu mươi bảy ngàn, ba
trăm mười ba đồng) đã nộp, theo biên lai thu số 0001897 ngày 19/3/2024 tại Chi cục
thi hành án dân sự quận Sơn Trà (nay là Phòng Thi hành án án dân sự Khu vực 2 –
Đà Nẵng), thành phố Đà Nẵng. Ông D được trả lại số tiền 15.989.405 đồng (Mười
lăm triệu, chín trăm tám mươi chín ngàn, bốn trăm lẻ năm đồng).

21
5.3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Huỳnh Trí D không phải chịu án phí phúc
thẩm, được trả lại 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp theo B lại thu số 0003150 ngày 12/12/2024 của Chi cục thi hành án dân sự
quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng (nay là Phòng Thi hành án án dân sự Khu vực 2 –
Đà Nẵng).
5. Chi phí tố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chổ tại cấp sơ thẩm là
3.000.000 đồng và cấp phúc thẩm là 3.000.000 đồng, ông Huỳnh Trí D tự nguyện
chịu (ông D đã nộp tạm ứng và đã chi phí xong).
6. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ
ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền
phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền,
hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015
7. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi
hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hánh
án theo quy định tại Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND TP. Đà Nẵng;
- Chi Cục THADS quận Sơn Trà
(Nay là Phòng THADS Khu vực 2 – Đà
Nẵng);
- THADS Tp Đà Nẵng;
- Tòa án nhân dân quận Sơn Trà
(Nay là Tòa án nhân dân Khu vực 2 – Đà
Nẵng);
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Cao Văn Hiếu
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 22/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 27/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 26/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 20/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 17/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 13/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 10/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm