Bản án số 32/2025/DS-ST ngày 24/03/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 32/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 32/2025/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 32/2025/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 32/2025/DS-ST ngày 24/03/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 11 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | Tòa án nhân dân khu vực 11 - Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh |
Số hiệu: | 32/2025/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 24/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc C đối với anh Trần Quốc M về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”. Buộc anh Trần Quốc M, chị Trần Anh T1 cùng có nghĩa trả lại cho ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Hồng M1 quyền sử dụng phần đất diện tích 19,3m2 thuộc thửa đất số 62, tờ bản đồ số 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Ngọc Hân.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Hữu Thiện.
2. Ông Võ Văn Vui.
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Tuyết Mai, Thư ký Tòa án nhân dân
Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây
Ninh tham gia phiên toà: Ông Võ Công Đức - Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương
Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:
157/2024/TLST-DS ngày 29 tháng 3 năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng
đất” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2025/QĐXXST-DS ngày 19
tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc C, sinh năm 1960; địa chỉ: Tổ 14 Ấp 3,
xã B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồng T, sinh năm
1990, địa chỉ: Tổ 14 Ấp 3 xã B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh – Là người đại diện
theo uỷ quyền của nguyên đơn theo văn bản uỷ quyền đề ngày 17-7-2024; có
mặt.
2. Bị đơn: Anh Trần Quốc M, sinh năm 1993; địa chỉ: Ấp P, xã P1, Huyện
D, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Ông Trần Văn Ph, sinh năm 1971;
địa chỉ: Ấp Phước Nghĩa, xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh – Là người đại diện
theo uỷ quyền của bị đơn theo văn bản uỷ quyền đề ngày 20-6-2024; có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU
TỈNH TÂY NINH
Bản án số: 32/2025/DS-ST
Ngày: 24-3-2025
V/v “Tranh chấp quyền
sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
3.1. Bà Nguyễn Hồng M1, sinh năm 1964; địa chỉ: Ấp 3 xã B, Huyện D,
tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của bà M1: Chị Nguyễn Hồng T, sinh năm 1990,
địa chỉ: Tổ 14 Ấp 3 xã B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh – Là người đại diện theo uỷ
quyền của bà M1 theo văn bản uỷ quyền đề ngày 17-7-2024; có mặt.
3.2. Chị Trần Anh T1, sinh năm 1992; địa chỉ: Ấp Phước Bình, xã P1,
Huyện D, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 3 năm 2024 và quá trình giải quyết vụ
án nguyên đơn và người đại diện hợp pháp của nguyên đơn – chị Nguyễn Hồng
T trình bày:
Chị là con ruột của ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Hồng M1 và được
ông C, bà M1 uỷ quyền đến tham gia tố tụng tại Toà án. Vào khoảng năm 2012,
ông C cùng vợ là bà M1 có nhận chuyển nhượng từ bà Trần Thị Tươi phần đất
diện tích 2.641m
2
thuộc thửa đất số 62, tờ bản đồ 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D,
tỉnh Tây Ninh. Ông C, bà M1 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trên theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 800741 do Uỷ ban nhân
dân Huyện D cấp vào ngày 25-8-2014.
Phần diện tích đất trên có hướng đông là giáp thửa số 72. Khi ông C nhận
chuyển nhượng thửa đất số 62 thì hiện trạng thửa đất số 72 là đất trống, đến năm
2019 ông Bùi Văn Thanh là chủ thửa đất số 72 mới xây nhà trên đất. Ông C và
ông Thanh thống nhất nền nhà của ông Thanh là ranh đất do ông Thanh đã xây
nhà hết chiều dài đất.
Đến tháng 02-2023, anh Trần Quốc M nhận chuyển nhượng thửa đất số
72 từ ông Thanh và bắt đầu xây dựng hàng rào thì phát sinh tranh chấp. Khi anh
M xây dựng hàng rào có yêu cầu ông C có đến thoả thuận ranh, tuy nhiên các
bên không thống nhất được ranh nên ông C ra về. Sau đó, anh M vẫn tiếp tục
xây hàng rào theo ý của anh M.
Qua kết quả đo đạc hiện trạng thì phần đất của anh M xây dựng lấn chiếm
đất của ông C có diện tích là 19,3m
2
. Ông C thống nhất với kết quả đo đạc và
kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá.
Nay, ông C khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc anh Trần Quốc M
tháo dỡ, di dời toàn bộ tài sản trên đất và cùng những người ở trên đất trả lại cho
ông C, bà M1 phần đất qua đo đạc hiện trạng có diện tích là 19,3m
2
thuộc thửa
số 62 tờ bản đồ 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn – ông Trần Văn Ph trình bày:
3
Ông là cha ruột của anh Trần Văn M và được anh M uỷ quyền đến tham
gia tố tụng tại Toà án. Tháng 11-2023 anh M nhận chuyển nhượng phần đất diện
tích 416m
2
thuộc thửa đất số 72 tờ bản đồ 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh
Tây Ninh từ anh Trần Phi H và chị Nguyễn Phạm Minh T2. Sau đó, đến ngày
15-9-2023 thì anh M được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai D cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trên. Anh M không nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông Bùi Văn Thanh mà ông Thanh chỉ là
người giới thiệu.
Khi nhận chuyển nhượng từ chị T2 và anh H thì các bên không tiến hành
đo đạc, có đến xem hiện trạng nhưng không chỉ tứ cận mà chỉ mua theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Do thời điểm nhận chuyển nhượng thì mặt tiếp
giáp với đất của ông Châu chưa có ranh, đối với hai mặt tiếp giáp bên hông thì
đã có trụ xi măng và hàng rào kẽm gai, mặt phía giáp bờ kênh thì chưa có hàng
rào nên anh H chị T2 có nói với anh M là tứ cận phía sau sẽ theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Sau khi nhận chuyển nhượng đất xong thì anh M có mời gia đình ông C
đến để xác định ranh. Khi ông C, vợ ông C, con rễ và con gái ông C đến thì con
rễ ông C và ông Trần Văn Thân là người kéo dây đo và cắm cột mốc, các bên
đều thống nhất ranh đất như cột mốc đã cắm. Đồng thời, anh M có yêu cầu nhà
ông C mé nhánh cây trên mái nhà để xây hàng rào nhưng vợ ông C không đồng
ý dẫn đến các bên cãi nhau. Tuy nhiên sau đó con rễ ông C có đến mé nhánh cây
cao su theo yêu cầu của gia đình ông và anh M tiến hành xây hàng rào theo ranh
hai bên đã thống nhất.
Sau khi anh M xong xây hàng rào khoảng hơn 01 tháng thì UBND xã P1
mời anh M đến hoà giải với ông C thì anh M mới biết ông C tranh chấp. Hàng
rào trên đất là do anh M kêu thợ xây dựng. Nhà đất thuộc thửa 72 là của anh M.
Chị Trần Anh T1 là chị ruột của anh M, được anh M cho ở nhờ trên đất.
Qua kết quả đo đạc hiện trạng thì phần đất của ông C bị thiếu diện tích là
19,3m
2
, anh M không thống nhất bởi vì chỉ đo đạc bên phía đất của ông C,
không đo đạc bên phần đất của anh M có bị thiếu hay không. Anh M đề nghị
phía ông C tiến hành đo đạc lại diện tích đất của anh M cho chính xác. Anh M
không thống nhất với giá trị tài sản trên đất theo Hội đồng định giá, tuy nhiên
anh M không yêu cầu định giá lại.
Nay, anh M không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông C vì khi
anh M xây dựng hàng rào các bên đã thống nhất ranh giới. Anh M không có làm
đơn yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường trong vụ án
này. Trường hợp đo đạc lại mà anh M có lấn đất của ông C thì anh M yêu cầu

4
ông C bồi thường tài sản trên đất vì khi xây dựng hàng rào thì anh M và ông C
có thoả thuận ranh giới cụ thể.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Hồng M1 – chị Nguyễn Hồng T trình bày:
Bà M1 thống nhất với ý kiến của ông Nguyễn Hồng C, không có ý kiến
trình bày bổ sung.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 08-01-2025, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan – chị Trần Anh T1 trình bày:
Hiện nay, chị được anh Trần Quốc M cho ở nhờ trên phần đất thuộc thửa
số 72 tờ bản đồ 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. Chị không có ý
kiến gì về vụ kiện và cũng không có yêu cầu gì trong vụ án này.
Tại phiên tòa,
Chị Nguyễn Hồng T trình bày: Ông C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Bà M1 thống nhất với ý kiến của ông C.
Ông Trần Văn Ph trình bày: Anh M không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông C. Trường hợp đo đạc lại mà anh M có lấn đất của ông C thì anh M yêu
cầu ông C bồi thường tài sản trên đất vì khi xây dựng hàng rào thì anh M và ông
C có thoả thuận ranh giới cụ thể.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu,
tỉnh Tây Ninh:
+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử
và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội
dung, thẩm quyền của Bộ luật tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa
thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự. Những người tham gia
tố tụng đều thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình.
+ Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 174, 175, 176
của Bộ luật Dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Hồng C. Buộc
anh Trần Quốc M, chị Trần Anh T1 cùng có nghĩa trả lại cho ông Nguyễn Ngọc
C, bà Nguyễn Hồng M1 quyền sử dụng phần đất diện tích 19,3m
2
thuộc thửa đất
số 62, tờ bản đồ số 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. Anh Trần
Quốc M có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời toàn bộ tài sản có trên diện tích đất nêu trên.
+Về án phí: Các đương sự chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

5
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Hồng C khởi kiện anh Trần Quốc M
về việc tranh chấp quyền sử dụng đất qua đo đạc có diện tích là 19,3m
2
thuộc
thửa đất số 62 tờ bản đồ số 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.
Xét thấy, phần đất đang tranh chấp tọa lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây
Ninh. Do đó, căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố
tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp dân sự về “Tranh chấp
quyền sử dụng đất”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện D,
tỉnh Tây Ninh.
Tại phiên toà, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Anh T1
được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt không lý do. Do đó, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T1 theo quy định tại các Điều 227,
228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
Phần đất thuộc thửa đất số 62 tờ bản đồ số 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D,
tỉnh Tây Ninh, Huyện D, tỉnh Tây Ninh do ông Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn
Hồng M1 đứng tên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BU 800741 có
diện tích 2.641m
2
. Giáp thửa đất số 62 trên là thửa đất số 72 có diện tích 416m
2
do anh Trần Quốc M đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (chỉnh lý
trang 4). Ông C khởi kiện cho rằng anh M đã xây dựng hàng rào lấn chiếm phần
đất thuộc thửa số 72 của ông.
Qua kết quả đo đạc thể hiện phần đất tranh chấp có diện tích 19,3m
2
thuộc
thửa 62 tờ bản đồ 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc C thì thấy rằng,
Căn cứ theo hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Văn phòng
đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh – chi nhánh Huyện D cung cấp thể hiện: Nguồn
gốc phần đất thuộc thửa số 62 của ông C là do ông C nhận chuyển nhượng từ bà
Trần Thị Tươi vào năm 2014. Nguồn gốc phần đất thuộc thửa 72 của anh M là
do anh M nhận chuyển nhượng từ anh Trần Phi H, chị Nguyễn Phạm Minh T2
vào tháng 11/2023. Trước đó, anh Trần Phi H, chị Nguyễn Phạm Minh T2 nhận
chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất thuộc thửa 72 từ ông Bùi Văn Thanh.
Trước đây, giữa hai thửa đất này không có ranh. Sau khi nhận chuyển
nhượng từ anh H, chị T2 thì anh M tiến hành xây dựng hàng rào. Xét thấy, anh
M cho rằng khi nhận chuyển nhượng đất từ chị T2 và anh H thì các bên không
tiến hành đo đạc, có đến xem hiện trạng nhưng không chỉ tứ cận mà chỉ mua
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thống nhất ranh theo giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Tại biên bản lấy lời khai ngày 21-02-2025 anh Trần Phi
H trình bày việc xem hiện trạng và chỉ tứ cận là do ông Thanh (chủ đất trước)

6
liên hệ trực tiếp với anh M, anh H cũng không xác định được ranh đất. Qua xác
minh thì ông Bùi Văn Thanh hiện nay đã bỏ đi khỏi địa phương
Như vậy, có căn cứ xác định thời điểm anh M nhận chuyển nhượng từ anh
H, chị T2 thì giữa thửa đất của ông C và anh M không có ranh giới rõ ràng.
Trước khi xây dựng hàng rào, anh M trình bày có mời gia đình ông C đến để đo
đạc, xác định ranh và các bên đều thống nhất ranh đất như cột mốc đã cắm. Tuy
nhiên, ông C không thừa nhận việc các bên đã thống nhất ranh đất và anh M
cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc anh và ông C đã thống
nhất ranh xong thì anh mới tiến hành xây hàng rào.
Tại khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Dân sự quy định: “Ranh giới giữa các
bất động sản liền kề được xác định theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền”. Trong vụ án này, anh M không chứng minh
được các bên có thoả thuận về ranh giới, đồng thời chủ đất trước cũng không
xác định được ranh đất nên ranh giới giữa các thửa đất sẽ căn cứ giấy chứng
nhận quyền sử dụng các bên được cấp. Căn cứ theo sơ đồ hiện trạng do Văn
phòng đăng ký đất đai tỉnh Tây Ninh cung cấp thể hiện anh M đang quản lý sử
dụng diện tích 19,3m
2
thuộc thửa đất số 62 do ông C, bà M1 đứng tên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông C về tranh
chấp quyền sử dụng đất với anh M là có cơ sở chấp nhận. Qua xác minh, chị T1
cùng anh M đang sử dụng phần đất có bao gồm diện tích đất tranh chấp nên cần
buộc anh M tháo dỡ di dời toàn bộ tài sản trên phần đất diện tích 19,3m
2
và buộc
anh M, chị T1 cùng có nghĩa vụ trả lại quyển sử dụng đất phần đất diện tích
19,3m
2
cho ông C.
[2.2] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy chấp nhận toàn
bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc C.
[3] Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện D, tỉnh Tây
Ninh đề nghị là có cơ sở nên chấp nhận.
[4] Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định
giá tài sản tổng cộng là 7.988.000 đồng. Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông C nên anh M phải chịu chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định
giá tài sản theo quy định tại các Điều 157, 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông
C đã nộp tạm ứng và Tòa án đã chi xong nên anh M có trách nhiệm trả cho ông
C số tiền 7.988.000 đồng.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Anh Trần Quốc M phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Ngọc C không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,

7
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 147, 157, 165 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ vào
các Điều 174, 175, 176 của Bộ luật Dân sự; Điều 26 của Luật đất đai 2024; Điều
27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Ngọc C đối với anh Trần
Quốc M về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Buộc anh Trần Quốc M, chị Trần Anh T1 cùng có nghĩa trả lại cho ông
Nguyễn Ngọc C, bà Nguyễn Hồng M1 quyền sử dụng phần đất diện tích 19,3m
2
thuộc thửa đất số 62, tờ bản đồ số 39 toạ lạc tại xã P1, Huyện D, tỉnh Tây Ninh
có tứ cận như sau:
+ Hướng Đông giáp thửa số 10 dài 1,97 mét.
+ Hướng Tây giáp thửa số 62 dài 1,88 mét.
+ Hướng Nam giáp thửa số 72 dài 10 mét.
+ Hướng Bắc giáp thửa số 62 dài 10 mét.
(có sơ đồ hiện trạng kèm theo)
Buộc anh Trần Quốc M có nghĩa vụ tháo dỡ, di dời toàn bộ tài sản có trên
diện tích đất nêu trên để trả lại quyền sử dụng đất trên cho ông Nguyễn Ngọc C,
bà Nguyễn Hồng M1.
2. Về chi phí tố tụng: Buộc anh Trần Quốc M có nghĩa vụ trả cho ông
Nguyễn Ngọc C số tiền 7.988.000 đồng (bảy triệu chín trăm tám mươi tám
nghìn) đồng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối
với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án
xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi
hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật Dân
sự.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Trần Quốc M phải chịu 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Nguyễn Ngọc C không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt có quyền
kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

8
5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
của Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh TN;
- VKSND tỉnh Tây Ninh;
- VKSND Huyện DMC;
- Chi cục THADS Huyện DMC;
- Đương sự;
- Lưu tập án;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Ngọc Hân
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm